Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền:
Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 62 Luật tổ chức Quốc hội).
Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Việc công bố các văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật, pháp lệnh do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày từ ngày thông qua (Điều 50 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì có Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày kể từ ngày được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định (Điều 49 và Điểu 51 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12403 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vị trí, tính chất, vai trò của chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước theo pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước trên thế giới hiện nay đều có một thiết chế đặc biệt với tên gọi như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những cơ cấu này có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước, cùng được gọi chung là nguyên thủ quốc gia. Ở Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 nhân dân ta đã giành được chính quyền, nước ta đã có nguyên thủ quốc gia gọi là Chủ tịch nước. Cùng với sự phát triển của đất nước và sự thay đổi, ra đời của các bản Hiến pháp thì chế định chủ tịch nước cũng có nhiều thay đổi. Với bản Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan thì chế định Chủ tịch nước đã có nhiều đổi mới quan trọng về vị trí của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước, nhiệm vụ quyền hạn và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác ở trung ương.
NỘI DUNG
1-KHÁI QUÁT CHUNG
1.1 Khái niệm.
Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà nước, đại diện cho đất nước về đối nội đối ngoại. Nguyên thủ quốc gia có thể là vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước.
1.2.Chế định Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp.
Từ cách mạng tháng Tám 1945, sau khi giành được chính quyền nước ta đã có Chủ tịch nước. Trong Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước tuy không được định nghĩa song theo các quy định vể thẩm quyền thì Chủ tịch nước là người vừa đứng đầu nhà nước vừa đứng đầu chính phủ. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 1946 đã quy định những nhiệm vụ, quyền hạn rất rộng rãi và mềm dẻo của Chủ tịch nước, phù hợp với yêu cầu, đặc điểm, tình hình nước ta hồi đó với vị trí rất đặc biệt của Bác Hồ.
Đến Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước đã được tổ chức riêng thành một chế định độc lập với tính chất là người đứng đầu nhà nước và không còn đồng thời là người đứng đầu chính phủ nữa. Chủ tịch nước thay mặt đất nước thực hiện chức năng thuộc về đối nội, đối ngoại; tham gia vào các hoạt động của nhà nước về các mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hiến pháp 1980 xác lập chế độ Chủ tịch nước tập thể theo như mô hình thịnh hành ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên xô và Đông Âu. Chủ tịch nước và Ủy ban thường vụ Quốc hội đã được hợp nhất thành Hội đồng nhà nước – cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là chủ tịch tập thể của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại Hiến pháp 1992, thiết chế Chủ tịch nước được thiết lập trở lại và hoàn chỉnh hơn. Chế định Chủ tịch nước được quy định tại chương VII Hiến pháp 1992. So với thể chế Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, thể chế chủ tịch tập thể là Hội đồng nhà nước trong Hiến pháp 1980, thể chế Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 có nhiều đổi mới quan trọng thể hiện ở các quy định về vị trí Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác ở trung ương và địa phương, nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước.
2-VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
Theo Hiến pháp 1992, chế định Chủ tịch nước được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những ưu điểm của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 đồng thời giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia (là đặc trưng của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa), đảm bảo sự phân công và phối hợp giữa các cơ cấu trong bộ máy nhà nước.
Theo điều 101 Hiến pháp 1992 thì “Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Chủ tịch nước có mối quan hệ mật thiết với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, hỗ trợ, điều phối hoạt động của các cơ quan đó.
Về trật tự hình thành, "Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới" (Điều 102 Hiến pháp năm 1992).
3-MỐI QUAN HỆ GIỮA CHỦ TỊCH NƯỚC VỚI CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC KHÁC.
Về tổ chức bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp 1992, quan điểm cơ bản đã được khẳng định là: toàn bộ quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội, và có sự phân công phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng, quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cùng với quy định "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước"(Điều 101 Hiến pháp năm 1992), các quy định khác về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thể hiện rõ quan điểm đó.
3.1 Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Trong mối quan hệ với Quốc hội, Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và Luật tổ chức Quốc hội quy định như sau:
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (trong số đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội giới thiệu), miễn nhiệm và bãi nhiệm. Nhiệm kì của Chủ tịch nước được quy định theo nhiệm kì của Quốc hội. Điều này đảm bảo tính gắn bó và chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trước Quốc hội.
Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước.
Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải trả lời trước Quốc hội tại kì họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.
Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập kì họp bất thường của Quốc hội.
Trong mối quan hệ với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện để Chủ tịch nước theo sát được ý kiến của tập thể Ủy ban thường vụ Quốc hội khi thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước đồng thời để Chủ tịch nước có thể đóng góp ý kiến của mình.
Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lạo pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất. Đây là một quyền hạn mới được bổ sung mà Hội đồng nhà nước không có. Quyền này khác quyền phủ quyết của Tổng thống một số nước.
Về mặt lí luận, trong chính thể xã hội chủ nghĩa các chức năng đứng đầu nhà nước cũng thuộc về cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội). Vì vậy trước đây Hội đồng nhà nước nằm trong Quốc hội là Chủ tịch tập thể. Nay Hiến pháp 1992 đã tách Chủ tịch nước thành thiết chế riêng song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội.
3.2 Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với chính phủ.
Quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và Chính phủ luôn là mối quan hệ mật thiết trong cơ chế nhà nước tư sản. Trong cơ chế nhà nước ta mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ tuy không hoàn toàn giống như ở các nước tư sản song cũng có những nét tương tự:
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ.
Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ.
Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước.
Trong thời gian Quốc hội không họp theo đề nghị của Thủ tướng, Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, bộ trưởng, thứ trưởng cơ quan ngang bộ.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải báo cáo trước Chủ tịch nước.
Việc xác lập mối quan hệ như vậy thể hiện sự tăng cường vai trò của Chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm sự phối hợp gằn bó giữa Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ.
3.3 Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao.
Theo quy định tại Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 thì:
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó chánh án, thẩm phán Tòa án quân sự trung ương.
Trong thời gian Quốc hội không họp thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo các công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chánh án tòa án nhân dân tối cao trình ý kiến của mình về trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
3.4 Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 quy định như sau:
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
4-NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC.
Thẩm quyền của Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định ở điều 103 (gồm 12 vấn đề) và ở một số điều khoản khác có liên quan (như điều 135, điều 139). Có thể phân chia các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm:
4.1 Nhóm các nhiệm vụ quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt đất nước về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước có quyền:
Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài.
Tiến hành đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác.
Trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp kí.
Quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định. Ở đây tùy mức độ quan trọng của điều ước và điều ước mà quyết định Chủ tịch nước hay Quốc hội phê chuẩn.
Quyết định cho nhập, thôi hoặc tước quốc tịch Việt Nam.
Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.
Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương; trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không họp được thì ban bố tình trạng khẩn cấp.
Quyết định phong hàm cấp sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác.
Quyết định tặng thưởng huân, huy chương và các danh hiệu vinh dự Nhà nước khác.
Công bố quyết định đại xá và ra quyết định đặc xá. Đại xá là việc tha miễn truy tố với một số loại tội phạm nhân một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như ốm đau nặng, già cả, có công lao lớn hoặc có hoàn cảnh gia đình khó khăn…
4.2 Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền:
Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 62 Luật tổ chức Quốc hội).
Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Việc công bố các văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật, pháp lệnh do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày từ ngày thông qua (Điều 50 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì có Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày kể từ ngày được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định (Điều 49 và Điểu 51 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
Việc quy định cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc gia một số nước. Tuy nhiên, về bản chất không hẳn là như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế và đối trọng quyền lực (cơ chế phân quyền), còn ở nước ta giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự đối trọng nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau ở đây. Thực chất vấn đề là ở chỗ, do Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh - một loại văn bản có tính chất luật - lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình thức luật nên cần phải thận trọng. Sự tham gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó một cách chính xác nhất.
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch nước còn công bố Nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh.
Có một điểm ta cần chú ý nữa là: Hiến pháp năm 1946 dùng từ "ban bố", các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 dùng từ "công bố". "Ban bố" thường được hiểu là điều kiện bắt buộc phải có để một văn bản đã được thông qua có hiệu lực pháp lí. Còn "công bố" chỉ có ý nghĩa là để nhân dân biết, còn văn bản đó có hiệu lực pháp luật từ ngày được thông qua nếu văn bản không có quy định khác. Như vậy quyền hạn của Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 đã hẹp hơn so với Hiến pháp 1946 để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của giai đoạn cách mạng mới.
Trong lĩnh vực hành pháp:
Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ, giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, nghe báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội) (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); Ban bố tình trạng khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được; trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tưóng, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng (Điều 20 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001).
Trước đây, Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước thẩm quyền lớn đối với hai vấn đề (thuộc lĩnh vực hành pháp) được Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải quyết trong thời gian Quốc hội không họp là: Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại các Nghị quyết về vấn đề đó (trong thời hạn mười ngày); nếu Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quôc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992). Nay Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 (Quốc hội thông qua tháng 12/2001) đã bỏ quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ cũng như quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ thực hiện quyền này khi Quốc hội không thể họp được và sau đó phải đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định tại kì họp gần nhất), do đó Chủ tịch nước không còn thực hiện các quyền này nữa.
Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát:
Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm 3 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trước đây, theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân cũ, Chủ tịch nước còn bổ nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án các cấp. Nay Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 đã bãi bỏ điểm này, giao về cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện.
Chủ tịch nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình). Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ (Điều 105 Hiến pháp 1992).
Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 106 Hiến pháp năm 1992).
5.ĐÁNH GIÁ
Qua các quy định của Hiến pháp và các luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có thể rút ra một số nhận xét:
Hiến pháp 1992 đã kế thừa được những ưu điểm của Hiến pháp 1946 và 1959 vừa kế thừa được những mặt tích cực mà hiến pháp 1980 có được, đó là sự gắn bó giữa Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội với chủ tịch nước trong thực hiện chức năng nguyên thủ Quốc gia. Hiến pháp 1992 còn là sự phát triển, thể hiện sự đổi mới mang tính tiến bộ đó là: Hiến pháp 1992 đã tách chủ tịch nước thành một thiết chế riêng chứ không phải là một cơ cấu nằm trong Quốc hội như Hiến pháp 1980 hoặc gắn với hành pháp như như Hiến pháp 1946, 1959 và một số nguyên thủ quốc gia của đa số các nước tư bản. Ngoài ra chủ tịch nước còn bổ sung thêm một số quyền hạn mới như: quyền đề nghị xem xét lại một số pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại các điểm 8, 9 của điều 91 Hiến pháp 1992…Sự đổi mới đó quán triệt nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, tư pháp, lập pháp.
Có thể nhận thấy chế định Chủ tịch nước ta hiện nay nghiêng về cơ quan lập pháp hơn hành pháp, điều này thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chính thức hóa hoạt động của Quốc hội… Như vậy chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 1992 là một thiết chế riêng song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội chứ không gắn với Chính phủ như ở Hiến pháp 1946 và 1959 hoặc thuộc về hành pháp như nguyên thủ quốc gia ở đa số các nước tư bản cũng không chỉ mang tính hình thức như ở các nước theo chính thể quân chủ.
6. HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Trong sự đổi mới của đất nước, để tiếp tục hoàn thiện vị trí của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước, cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một số điểm:
Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu Nhà nước, song về chức năng, nhiệm vụ không hoàn toàn giống như nguyên thủ quốc gia ở các nước khác. Do đó, cần nghiên cứu tăng cường vị trí của Chủ tịch nước. Đặc biệt, cần mở rộng phạm vi tiến hành đàm phán, kí kết điều ước Quốc tế và các thoả thuận quốc tế nhân danh Nhà nước Việt Nam không chỉ "với người đứng đầu Nhà nước khác" như Hiến pháp hiện hành quy định để tạo thuận lợi cho việc thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo của Nhà nước theo hướng đổi mới, mở cửa và hội nhập với thế giới; tăng cường quyền của Chủ tịch nước trong việc phê chuẩn các điều ước Quốc tế. Chỉ những điều ước Quốc tế có quan hệ trực tiếp tới chủ quyền, an ninh quốc gia, lãnh thổ, vị thế, chính sách của Nhà nước khi tham gia các tổ chức Quốc tế quan trọng... mới cần phải để Quốc hội phê chuẩn.
Hiến pháp hiện nay quy định Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố tình trạng chiến tranh, công bố tình trạng khẩn cấp, ra lệnh tổng động viên, Chủ tịch nước chỉ được ban bố tình trạng khẩn cấp khi Ủy ban thường vụ Quốc hội không họp được là chưa hợp lí, khó đảm bảo tính kịp thời của việc giải quyết vấn đề có tầm quan trọng quốc gia. Thẩm quyền này nên giao cho Chủ tịch nước sẽ vừa đảm bảo kịp thời, vừa có tính long trọng.
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Chủ tịch nước công bố Nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh. Tuy nhiên, quyền này của Chủ tịch nước phải được quy định ở tầm Hiến pháp
KẾT LUẬN
Lịch sử lập hiến Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý báu trong việc tổ chức bộ máy nhà nước trong đó có chế định Chủ tịch nước. Trải qua các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 1992 sửa đổi), chế định Chủ tịch nước ngày càng được hoàn thiện với vị trí, vai trò và các chức năng phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Tuy nhiên Hiến pháp 1992 nói chung và pháp luật hiện hành nói riêng mới chỉ quy định một cách rất khái quát nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác. Trong bối cảnh đất nước đang có những đổi mới sâu sắc, toàn diện, tình hình thế giới đang có nhiều biến động lớn cần phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, vững chắc, cụ thể hóa dần dần các quy định của Hiến pháp và pháp luật, làm cho thể chế Chủ tịch nước ngày càng phát huy được vị trí, chức năng quan trọng của mình trong bộ máy nhà nước và đời sống xã hội. Từ đó góp phần cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chế định chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành.doc