Tiểu luận Việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định nguyên thủ quốc gia

 

MỤC LỤC

1. Đặt vấn đề 1

2. Nội dung chính 1

2.1. Nguyên thủ quốc gia 1

2.2. Chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước 2

2.3. Chế định chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành 3

2.3.1. Vị trí, tính chất và mối quan hệ với các

cơ quan nhà nước khác 3

2.3.2. Việc bầu Chủ tịch nước 4

2.3.3. Thẩm quyền của Chủ tịch nước 4

3. Kết luận 8

Danh mục tài liệu tham khảo

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2617 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định nguyên thủ quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC 1. Đặt vấn đề 1 2. Nội dung chính 1 2.1. Nguyên thủ quốc gia 1 2.2. Chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước 2 2.3. Chế định chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành 3 2.3.1. Vị trí, tính chất và mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác 3 2.3.2. Việc bầu Chủ tịch nước 4 2.3.3. Thẩm quyền của Chủ tịch nước 4 3. Kết luận 8 Danh mục tài liệu tham khảo 9 1.ĐẶT VẤN ĐỀ. Cách mạng Tháng Tám thành công, 2/9/1945 Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó đến nay, chúng ta vẫn tiếp tục đi theo con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy bộ máy nhà nước nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia ở nước ta cũng được tổ chức và định hướng theo mô hình này. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, chế định chủ tịch nước của nước ta cũng có nhiều thay đổi trong vị trí, tính chất, tổ chức và hoạt động, gắn liền với sự ra đời của mỗi bản Hiến pháp. Hiện nay, theo pháp luật hiện hành và cụ thể là Hiến pháp 1992, nguyên thủ quốc gia của Việt Nam là Chủ tịch nước. Chúng ta đều biết hiện nay, đồng chí Nguyễn Minh Triết đang giữ chức vụ quan trọng này. Vậy chức vụ mà đồng chí ấy đang nắm giữ có vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn như thế nào? Việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định đặc biệt này mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn Việt Nam của chúng ta đang tiếp tục quá độ lên xã hội chủ nghĩa. 2. NỘI DUNG CHÍNH 2.1. Nguyên thủ quốc gia. Nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong hệ thống bộ máy nhà nước hiện đại với các tên gọi khác nhau như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, Chủ tịch nước và có vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992 (đặc biệt Hiến pháp năm 1980 quy định nguyên thủ quốc gia là Hội đồng Nhà nước). Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, thì về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung hợp. Tại một số nước XHCN khác do truyền thống lịch sử của mình và phần nhiều là do thông lệ quốc tế - để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính chất long trọng, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước, chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, song phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Vị trí thứ hai này của “nguyên thủ quốc gia” xã hội chủ nghĩa khá khác nhau, tùy thuộc vào từng nước.Ở nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Khi chế định Hội đồng Nhà nước (nguyên thủ quốc gia tập thể) theo Hiến pháp 1980 ngày càng bộ lộ rõ những hạn chế trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, trên thế giới diễn ra rất nhiều biến động lớn, mà tiêu biểu là sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Đất nước ta bước vào thời kỉ khủng hoảng trầm trọng và xã hội đặt ra một yêu cầu, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980, đó là Hiến pháp năm 1992. Tổ chức bộ máy Nhà nước có nhiều thay đổi căn bản so với bộ máy Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 1980, trong đó có chế định Chủ tịch nước thay thế cho Hội đồng nhà nước. Hiến pháp 1992 đã dành riêng chương VII để quy định về chế định này. 2.2.Chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước. Trước khi tìm hiểu chế định Chủ tịch nước trong pháp luật hiện hành, ta cần tìm hiểu qua về chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước. Từ đó, đưa ra những điểm giống và khác nhau giữa các bản Hiến pháp, đưa ra những nhận xét cần thiết về sự kết thừa, phát triển và hoàn thiện của chế định này. Đối với Hiến pháp 1946: Chưa có chương riêng về Chủ tịch nước . Chủ tịch nước do Nghị viện nhân dân bầu ra trong số các thành viên của Nghị viện (không quy định độ tuổi tối thiểu của Chủ tịch nước). Nhiệm kì 5 năm (Điều 45), độc lập với nghị viện là 3 năm (Điều 24). Chủ tịch nước vừa đứng đầu Nhà nước, vừa đứng đầu chính phủ (Điều 44, Điều 49). Quyền hạn của Chủ tịch nước rất rộng lớn (Điều 49): Thay mặt cho Nhà nước, là tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, có quyền chủ trì các phiên họp của Chính phủ, có quyền ban hành các sắc lệnh có giá trị như luật, có quyền phủ quyết tương đối (Điều 31), thảo luận và biểu quyết lại về sự bất tín nhiệm với Nội các (Điều 54).Chủ tịch nước không chịu một trách nhiệm nào trừ tội phản bội Tổ quốc (Điều 50). Như vậy, quyền hạn của Chủ tịch nước rất rộng lớn và khá giống với mô hình nguyên thủ quốc gia trong chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị. Đối với Hiến pháp 1959: Chế định nguyên thủ quốc gia được quy định tại chương V. Nguyên thủ quốc gia do Quốc hội bầu nhưng không nhất thiết là đại biểu Quốc hội và phải từ 35 tuổi trở lên. Nhiệm kì bằng nhiệm kì Quốc hội là 4 năm. Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, Chủ tịch nước là khâu phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ. Quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn khá lớn: Căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; công bố lệnh đại xá và đặc xá ; tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh;công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm (Điều 63). Chủ tịch nước căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội mà phê chuẩn Hiệp ước kí với nước ngoài (Điều 64). Khi cần thiết được tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng chính phủ (Điều 66). Chủ tịch nước cũng có quyền triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt khi xét thấy cần thiết (Điều 67). Chủ tịch nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Đối với Hiến pháp 1980: Chế độ Nguyên thủ tập thể, là Hội đồng Nhà nước, quy định tại chương VII. Do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu của Quốc hội: Chủ tịch hội đồng nhà nước, Phó chủ tịch hội đồng nhà nước, tổng thư kí và các Ủy viên hội đồng nhà nước. hội đồng nhà nước cùng nhiệm kì với Quốc hội là 5 năm. hội đồng nhà nước là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại; là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội (Điều 98). Quyền hạn của hội đồng nhà nước rất lớn (Điều 100): Công bố luật, ra pháp lệnh, giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Nghị quyết, nghị định, Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái Hiên pháp, Luật và pháp lệnh. Trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, Bộ trưởng…(Tuy nhiên không có quyền tham dự vào các phiên họp của Hội đồng bộ trưởng). hội đồng nhà nước phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định; có quyền quyết định đặc xá; trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (nhưng phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kì họp gần nhất của Quốc hội)… Như vậy, hội đồng nhà nước vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc gia), vừa thực hiện chức năng của Ủy ban thường vụ Quốc hội. 2.3. Chế định chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành Chế định chủ tịch nước của nước ta đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 đặc biệt trong chương VII-Chủ tịch nước. 2.3.1.Vị trí, tính chất và mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác. Điều 101 Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ ràng: "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại". Như vậy, cũng như các Hiến pháp năm 1959 và năm 1980, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước ta về đối nội và đối ngoại, chứ không đứng đầu Chính phủ như chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp 1992 đã tách chủ tịch nước ra làm một thiết chế riêng song vẫn thể hiện rõ sự nghiêng nhiều về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội. Điều này thể hiện sự khác biệt so với chế định này trong Hiến pháp 1946 và 1959, khi mà chủ tịch nước gắn với Chính phủ. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội, theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc Hội với nhiệm kì như nhiệm kì Quốc hội và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Qua đó thể hiện rõ ràng tính phái sinh giữa Chủ tịch nước và Quốc hội của chính thể xã hội chủ nghĩa. Trong mối quan hệ với Chính phủ, Hiến pháp 1992 đã quy định việc Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; chấp thuận việc từ chức đối với các phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; trong thời gian Quốc hội không họp theo đề nghị của Thủ tướng, quyết định tạm đình chỉ công tác của phó thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Đồng thời Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải báo cáo trước Chủ tịch nước. Với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hiến pháp bảo đảm chủ tịch nước có thể liên kết, phối hợp với các cơ quan trong bộ máy nhà nước cũng như hai cơ quan này. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh an Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án, thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó chánh án, thẩm phán Tòa án quân sự trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 2.3.2. Việc bầu chủ tịch nước. Về việc bầu chủ tịch nước, tại điều 102 Hiến pháp 1992 ghi rõ: "Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới". Đi đôi với việc bầu Chủ tịch nước là việc bầu Phó chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ. Trật tự hình thành của Chủ tịch nước nói lên mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất - Quốc hội, đảm bảo cho sự gắn bó và tính chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trước Quốc hội, thể hiện mối quan hệ phái sinh giữa hai cơ quan này. 2.3.3. Thẩm quyền của chủ tịch nước. Thẩm quyền hay nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được Hiến pháp 1992 quy định ở Điều 103 (gồm 12 vấn đề), và ở một số điều khoản khác có liên quan (Như Điều 135, Điều 139). Ta có thể phân chia các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm: *Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại: - Điểm 2 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận Chủ tịch nước có quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên theo khoản b điều 49 Hiến pháp năm 1946 quy định Chủ tịch nước "giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc...". Ta có thể thấy được sự khác biệt giữa Hiến pháp 1946 và các bản Hiến pháp sau này, đó là sử dụng “tổng chỉ huy” chứ không phải từ "thống lĩnh" đã được dùng trong các Hiến pháp năm còn lại. "Thống lĩnh" khác "tổng chỉ huy" ở chỗ "thống lĩnh" không phải là trực tiếp chỉ huy mà là phụ trách chung. Hội đồng Quốc phòng giúp Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh. Chủ tịch nước thành lập Hội đồng Quốc phòng và trình Quốc hội phê chuẩn. - Điểm 5 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá". - Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương" (Điểm 6 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). Trong Điều 91, Điểm 9 của Hiến pháp năm 1992 có quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội "Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương". Vì vậy Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định tổng động viên, quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp còn Chủ tịch nước căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà ra lệnh tổng động viên, ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp. Trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, điểm này được bổ sung thêm: Trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương. - Chủ tịch nước có quyền "Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước" theo quy định tại Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp năm 1992. - Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận Chủ tịch nước có thẩm quyền "Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định". Với danh nghĩa Nhà nước, Chủ tịch nước quyết định việc kí kết điều ước và những điều ước quốc tế có điều khoản trái với Luật hoặc Pháp lệnh. Chủ tịch nước trực tiếp đàm phán, kí kết hoặc uỷ quyền trưởng đoàn đàm phán kí kết. Chủ tịch nước phê chuẩn các điều ước thuộc quyền quyết định của Chủ tịch nước về điều ước Quốc tế có điều khoản quy định việc phê chuẩn. Việc xin phê chuẩn điều ước Quốc tế do cơ quan đề xuất việc kí kết phối hợp với Bộ ngoại giao đề nghị Chính phủ trình Chủ tịch nước, Chủ tịch nước xét và tiến hành phê chuẩn hoặc trình Quốc hội phê chuẩn. Ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, điểm 10 của điều 103 này đã được bổ sung như sau: “…Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước Quốc tế đã trực tiếp kí…” Điều này càng thể hiện rõ mối quan hệ mật thiết giữa hai chế định quan trọng này trong Hiến pháp 1992. - Chủ tịch nước "Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam". Thẩm quyền này của Chủ tịch nước được ghi nhận tại Điểm 11 Điều 103 Hiến pháp năm 1992. - Chủ tịch nước "Quyết định đặc xá" (Điểm 12 Điều 102 Hiến pháp năm 1992). Ở đây cần làm rõ hai chế định "đặc xá" và "đại xá". Đại xá là việc tha miễn truy tố đối với một số loại tội nhân một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già cả, có công lao hoặc có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn... Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ tết và hay kết hợp với việc tha tù trước thời hạn và giảm án. *Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp: Trong lĩnh vực lập pháp, Hiến pháp 1992 đã quy định Chủ tịch nước có các quyền sau đây: - Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 62 luật tổ chức Quốc hội). - Điểm 1 Điều 103 ghi nhận Chủ tịch nước có quyền "Công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh". Việc công bố các văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều 50 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua. "Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất" (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày kể từ ngày được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định (Điều 49 và Điều 52 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Việc quy định cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc gia một số nước. Tuy nhiên, về bản chất không hẳn là như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế và đối trọng quyền lực (cơ chế phân quyền), còn ở nước ta giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự đối trọng nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau ở đây. Thực chất vấn đề là ở chỗ, do Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh - một loại văn bản có tính chất luật - lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình thức luật nên cần phải thận trọng. Sự tham gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó một cách chính xác nhất. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch nước còn công bố Nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh. Hiến pháp năm 1946 dùng từ "ban bố", các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 dùng từ "công bố". "Ban bố" thường được hiểu là điều kiện bắt buộc phải có để một văn bản đã được thông qua có hiệu lực pháp lí. Còn "công bố" chỉ có ý nghĩa là để nhân dân biết, còn văn bản đó có hiệu lực pháp luật từ ngày được thông qua nếu văn bản không có quy định khác, như đã phân tích ở trên. Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ, giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội) (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); Ban bố tình trạng khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được; trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tưóng, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng (Điều 20 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001). Trước đây, Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước thẩm quyền lớn đối với hai vấn đề (thuộc lĩnh vực hành pháp) được Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải quyết trong thời gian Quốc hội không họp là: Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại các Nghị quyết về vấn đề đó (trong thời hạn 10 ngày); nếu Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quôc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992). Nay Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 (Quốc hội thông qua tháng 12/2001) đã bỏ quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ cũng như quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ thực hiện quyền này khi Quốc hội không thể họp được và sau đó phải đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định tại kì họp gần nhất), do đó Chủ tịch nước không còn thực hiện các quyền này nữa. Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát, Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm 3 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trước đây, theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân cũ, Chủ tịch nước còn bổ nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án các cấp. Nay Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 đã bãi bỏ điểm này, giao về cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện. Chủ tịch nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình). Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ (Điều 105 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 106 Hiến pháp năm 1992). 3. KẾT LUẬN Chủ tịch nước là một chế định hết sức đặc biệt và quan trọng trong bô máy nhà nước. Từ những nghiên cứu trên ta có thể thấy rằng Chủ tịch nước ở Việt Nam hiện nay đang nghiêng nhiều về việc thực hiện chức năng lập pháp hơn là hành pháp. Trải qua các giai đoạn lịch sử, với những biến động, chế định này thay đổi theo sự ra đời của các bản Hiến pháp mới trên cơ sở kế thừa, phát triển và không ngừng hoàn thiện hơn. Tất cả đều hướng tới một mục tiêu là tạo dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu quả làm tiền đề cho một mô hình mới - xã hội chủ nghĩa. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Trường đại học luật Hà Nội, "Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007 2. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, "Tìm hiểu về hiến pháp và pháp luật Luật hiến pháp nước ngoài", Nxb Đồng Nai, 1997 3. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Tư pháp, "Tìm hiểu các bản Hiến pháp Việt Nam", Hà Nội, 2007 4. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, "Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp", Nxb Tư pháp, Hà Nội 2007 5. "Hiến pháp 1946 sự kế thừa và phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 6. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập lớn học kỳ Luật Hiến pháp Chế định nguyên thủ quốc gia.doc
Tài liệu liên quan