Tiểu luận Vùng đặc quyền kinh tế và sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia

Trong khi dành cho các quốc gia ven biển các quyền chủ quyền đối với tài nguyên cá trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Công ước quy định các quốc gia này cũng phải tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác như được quy định trong Công ước. Trong đó các quốc gia ven biển có hai nghĩa vụ cơ bản;

- Nghĩa vụ thứ nhất liên quan đến bản thân các hoạt động khai thác tài nguyên biển của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đó là nghĩa vụ phải bảo tồn tài nguyên biển. Công ước quy định các quốc gia ven biển, trong khi tiến hành các hoạt động khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, có nghĩa vụ phải đảm bảo rằng các hoạt động đó không gây hại cho hệ sinh thái biển và nguồn tài ngyên sinh vật trong vùng đó nhằm tránh những tác động có hại cho tài nguyên sinh vật trên biển cả và tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia láng giềng.

 

doc8 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3601 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vùng đặc quyền kinh tế và sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đối với một quốc gia ven biển, bên cạnh vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia (bao gồm Nội thuỷ và Lãnh hải) thì vùng biển quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán cũng là vùng biển có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, kinh tế, chính trị... của quốc gia ven biển, mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia khác. Trong vùng biển quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán thì vùng biển đặc quyền kinh tế là một chế định mới, mặc dù được thừa nhận từ lâu và đã bắt đầu hình thành trong quá trình xây dựng Luật biển quốc tế qua các Công ước từ năm 1958 nhưng phải đến Công ước Luật biển 1982 những quy định về vùng đặc quyền kinh tế mới được pháp điển hoá một cách chi tiết, cụ thể. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển quốc tế đã thể hiện rõ sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia. Thật vậy, trước khi đi sâu vào chứng minh nhận định trên ta phải hiểu thế nào là vùng đặc quyền kinh tế và thế nào là sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia. I – Các khái niệm cơ bản: 1. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển quốc tế hiện đại: Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần V – Vùng đặc quyền kinh tế của Công ước Luật biển 1982, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển , các quyền cũng như các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh Theo quy định tại Điều 57 Công ước Luật biển thì vùng đặc quyền kinh tế không mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. 2. Sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia: Một trong những nguyên tắc cơ bản của Công ước Luật biển 1982 đó là nguyên tắc công bằng, trong đó, quyền và lợi ích của các quốc gia có biển cũng như không có biển luôn được đảm bảo. Sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia được thể hiện không chỉ qua những quy định về khai thác tài nguyên thiên nhiên mà còn trong những quy định về vấn đề nghiên cứu khoa học và bảo vệ, giữ gìn môi trường biển - một trong những yếu đảm bảo phát triển bền vững . Vậy, từ những khái niệm trên, ta đã có cơ sở đi sâu vào phân tích vì sao quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển quốc tế lại thể hiện rõ sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia. II - Chứng minh luận điểm: 1. Lịch sử hình thành vùng đặc quyền kinh tế đã thể hiện sự dung hoà lợi ích giữa các quốc gia: a. Những quy định truyền thống: Trước đây, khi nền kinh tế và khoa học kỹ thuật chưa phát triển, việc khai thác, sử dụng các tài nguyên biển mới chỉ dừng ở ven bờ thì vùng nước biển được coi là không thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào. Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do khai thác, sử dụng tài nguyên biển(nguyên tắc tự do đánh cá trên biển). Nguyên tắc này hình thành từ học thuyết tự do biển cả (Marc Liberum) của một luật gia người Hà Lan Hugo Grotius. Tuy vậy, quyền tự do đánh cá trên biển không phải là một quyền tự do tuyệt đối mà bị giới hạn bởi một số điều kiện nhất định như không được nhằm độc chiếm, thiết lập chủ quyền ở khu vực hay nguồn tài nguyên nào trên biển. Nghĩa là tại bất cứ vùng biển nào, một quốc gia không thể xác lập quyền chủ quyền để một mình khai thác, sử dụng các tài nguyên biển. → Điều này là minh chứng cụ thể cho việc ngay từ khi chưa có những chế định cụ thể về chủ quyền của quốc gia trên biển thì việc khai thác, sử dụng tài nguyên biển đã bị hạn chế để đảm bảo dung hoà quyền và lợi ích cho các quốc gia khác, nhất là những quốc gia không có biển hay có vị trí địa lý bất lợi. b. Những quy định hiện đại: Khi trình độ KH-KT hiện đại phát triển, con người đã có thể khai thác, sử dụng tài nguyên biển không chỉ nhằm mục đích kinh tế mà còn để nghiên cứu khoa học, xây dựng các công trình... Các hoạt động của con người cũng không còn chỉ ở những vùng nước ven bờ mà có thể xa đến hàng trăm hàng nghìn hải lý. Khi đó các quốc gia có xu hướng mở rộng quyền tài phán của mình ra phía biển để có thêm những đặc quyền, đặc biệt là về kinh tế, trong đó nổi cộm nhất là lĩnh vực đánh bắt tài nguyên sinh vật biển. Khởi đầu là từ tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman được đưa ra vào ngày 28/09/1945 về thềm lục địa và nghề cá ven bờ trong một số vùng của biển cả, theo đó, Hoa Kỳ đề nghị thiết lập một “vùng bảo tồn một phần nhất định của biển cả tiếp liền với bờ biển nước Mỹ, tại đó các hoạt động nghề cá đã và sẽ phá triển trong tương lai ở mức độ quan trọng” nằm ngoài 3 hải lý. Hai năm sau tuyên bố của Truman, các nước thế giới thứ ba như Chilê, Pêru, Ecuador... đã mở rộng lãnh hải của mình ra 200 hải lý... Trong khi các nước thư ba chủ trương lãnh hải hoá vùng nước ven bờ có bề rộng 200 hải lý thì các nước cường quốc hàng hải lại chủ trương hạn chế tối đa sự mở rộng quyền lực của quốc gia ven biển ra ngoài biển cả nhằm bảo vệ các quyền tự do biển cả truyền thống. Sau cùng, việc hình thành khái niệm vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước Luật biển 1982 chính là kết quả của sự nhượng bộ lẫn nhau giữa trường phái quan niệm về bảo tồn các vùng biển truyền thống của cộng đồng quốc tế với trường phải tiến ra biển của các quốc gia ven bờ. Nói cách khác, sự ra đời khái niệm về vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước Luật biển 1982 cũng chính là sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia ven bờ và cộng đồng quốc tế. 2. Vấn đề xác định vùng đặc quyền kinh tế là dựa trên lợi ích của các quốc gia: Với bề rộng tối đa 200 hải lý kể từ đường cơ sở , trong đó có 188 hải lý thuần tuý mang tính chất của vùng đặc quyền kinh tế, có thể nói, đặc quyền kinh tế là vùng biển có bản chất pháp lý hỗn hợp, bởi trong đó vừa tồn tại quyền chủ quyền của quốc gia ven biển, vừa tồn tại quyền tự do biển cả được thừa nhận trong luật Biển quốc tế. Chính bản chất này đã tạo nên một vùng biển mang tính chất đặc thù. Sự đặc thù thể hiện ở hai phương diện, tạo sự tương đồng giữa các nhóm lợi ích khác nhau ngay trong vùng đặc quyền kinh tế (thể hiện ở việc áp dụng công thức Castanêda theo các Điều 55, 57 của Công ước Luật biển 1982) Phương diện thứ nhất: Thể hiện đặc trưng của vùng đặc quyền kinh tế là nhóm lợi ích có liên quan đến nước ven biển, nhằm dành cho nước này thụ hưởng đặc quyền về khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế. Đặc quyền này cho thấy sự khác biệt giữa vùng đặc quyền kinh tế và vùng đánh cá trong Công ước 1958. Vùng đánh cá trong Công ước 1958 Vùng đặc quyền kinh tế - Ra đời trước - Chiều rộng không xác định - Giới hạn quyền của quốc gia ven biển đối với nguồn tài nguyên sinh vật - QG ven biển chỉ có quyền ưu tiên khai thác, đánh bắt cá - Ra đời sau - Chiều rộng <200 hải lý tính từ đường cơ sở - Bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật ở đáy biển và lòng đất dưới đáy - QG ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán Sự ghi nhận của Công ước 1958 về vùng đánh cá chủ yếu là nhằm khai thác tài nguyên sinh vật và quyền này trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi quyền tự do đánh cá truyền thống của các quốc gia bên ngoài lãnh hải (như đã trình bày ở phần 1). Trong khi tiến hành các hoạt động đánh cá ở biển cả, các tàu đánh cá không phải tuân thủ pháp luật của bất kỳ quốc gia nào, trừ pháp luật của quốc gia mà tàu đó mang cờ. Như vậy, quyền và lợi ích của những quốc gia ven biển (mặc dù được công nhận trong Công ước 1958) nhưng trên thực tế thì không có gì bởi các biện pháp nhằm bảo tồn của quốc gia ven biển đối với nguồn tài nguyên của mình chỉ mang tính chất đơn phương và tạm thời, quốc gia liên quan có thể phản đối. Hơn thế, Công ước cũng không có biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa việc đe doạ từ bên ngoài của các quốc gia không phải là thành viên của Công ước muốn khai thác tài nguyên cá trong khu vực biển cả tiếp giáp với lãnh hải của nước ven bờ. Chính vì vậy, việc ra đời quy chế về vùng đặc quyền kinh tế đã đảm bảo được quyền và lợi ích của quốc gia ven biển. Tuy dành cho quốc gia ven biển sự thụ hưởng đặc biệt về khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế nhưng những quy định tại vùng đặc quyền kinh tế cũng đảm bảo tính cân bằng về lợi ích cho các quốc gia khác. Thật vậy: Phương diện thứ hai: Thể hiện bản chất của vùng đặc quyền kinh tế trên cơ sở tiếp thu Luật biển quốc tế truyền thống là những lợi ích từ sự cân bằng giữa các nhóm quốc gia khác nhau. Điểm đặc trưng của vùng đặc quyền kinh tế là trong khi dành cho nước ven biển những chủ quyền thì Luật biển quốc tế cũng đảm bảo để các quốc gia khác (trong đó gồm cả quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý) có được những quyền nhất định (bao gồm chủ yếu nhóm quyền tự do biển cả truyền thống trừ quyền đánh cá truyền thống và quyền tham gia khai thác tài nguyên sinh vật). Sự cân bằng này giải quyết song hành hai vấn đề đặt ra trong quy chế của vùng đặc quyền kinh tế, đó là mở rộng quyền chủ quyền của nước ven bờ một cách có giới hạn để bảo đảm cho lợi ích chính đáng của nước ven biển và đảm bảo tính ổn định tương đối của biển cả và của vùng, là nơi mà lợi ích chung của cộng động cần được tôn trọng. Đây là cái gốc của bình đẳng trong sử dụng và khai thác biển tồn tại giữa các nhóm quốc gia, từ đó có ý nghĩa giảm thiểu những tranh chấp bất đồng giữa các quốc gia khi tham gia hoạt động liên quan đến biển. 3. Quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế đảm bảo quyền và lợi ích cho quốc gia ven biển, có tính đến lợi ích của các quốc gia khác: Trong khi dành cho các quốc gia ven biển các quyền chủ quyền đối với tài nguyên cá trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Công ước quy định các quốc gia này cũng phải tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác như được quy định trong Công ước. Trong đó các quốc gia ven biển có hai nghĩa vụ cơ bản; - Nghĩa vụ thứ nhất liên quan đến bản thân các hoạt động khai thác tài nguyên biển của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đó là nghĩa vụ phải bảo tồn tài nguyên biển. Công ước quy định các quốc gia ven biển, trong khi tiến hành các hoạt động khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, có nghĩa vụ phải đảm bảo rằng các hoạt động đó không gây hại cho hệ sinh thái biển và nguồn tài ngyên sinh vật trong vùng đó nhằm tránh những tác động có hại cho tài nguyên sinh vật trên biển cả và tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia láng giềng. - Nghĩa vụ thứ hai là nghĩa vụ của các quốc gia ven biển phải dành cho nước ngoài quyền tiếp cận nguồn cá thừa khi các quốc gia đó không có khả năng khai thác hết nguồn tài nguyên cá trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Trong trường hợp đó, họ sẽ dành cho các quốc gia khác quyền tiếp cận nguồn cá thừa, thông qua các hiệp định hoặc thoả thuận, có tính đến các quy định trong Điều 69, 70 Công ước Luật biển 1982 nhất là quan tâm đến các quốc gia đang phát triển nói đến trong các điều kiện đó (điều này có nghĩa là các nước phát triển dù không có biển hay có vị trí bất lợi sẽ không được hưởng ưu tiên đó). Đồng thời khi tiếp cận nguồn cá thừa ở vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác cũng phải tuân thủ những nghĩa vụ nhất định, trong đó có nghĩa vụ phải đảm bảo rằng công dân của họ trong khi tiến hành các hoạt động đánh bắt sẽ tuân thủ các biện pháp bảo tồn và các thể thức, điều kiện khác được nêu trong các luật lệ và quy định do quốc gia ven biển đó ban hành phù hợp hoặc không trái với các quy định của Công ước. Tuy nhiên, do các quốc gia ven biển có thể xác định các điều kiện tiếp cận đối với tài nguyên cá trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, nếu muốn, họ có thể loại một cách rất hiệu quả quyền tiếp cận của các quốc gia khác đối với nguồn cá thừa. Điều này tưởng chừng như không công bằng nếu chúng ta chỉ phân tích riêng rẽ các quy định về tài nguyên sinh vật. Tuy nhiên, khi phân tích thẩm quyền của các quốc gia ven biển trong một bối cảnh rộng hơn, có thể thấy các quy định đó là một giải pháp thoả hiệp trong đó thể hiện sự cân bằng giữa các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển với các quyền và quyền tự do của các quốc gia khác. Nếu quốc gia ven biển xác lập một khu vực kinh tế đặc quyền 200 hải lý với các quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên và quyền tài phán đối với việc nghiên cứu khoa hoc cũng như thẩm quyền ra quy định về bảo vệ môi trường biển ở đó thì Công ước cũng dành cho các quốc gia khác quyền tự do giao thông hàng hải cũng nhu hàng không, tự do đặt dây cáp ngầm và quyền tiếp cận đối với lượng cá thừa trong vùng đó (Điều 58.1). Hơn nữa, vấn đề cho nước ngoài tiếp cận nguồn tài nguyên sinh vật hay không sinh vật (như xây dựng, khai thác và sử dụng đảo nhân tạo, các công trình trong vùng đặc quyền kinh tế) thực tế không phải là một vấn đề nghiêm trọng vì thông qua đàm phán và thoả thuận, khi có thể chấp nhận các điều kiện, luật lệ và quy định của quốc gia ven biển, các quốc gia khác có thể khai thác và trả lệ phí khai thác. → Từ những luận điểm trên, có thể thấy quá trình xây dựng , hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật quốc tế, ĐH Luật HN, NXB CAND Công ước Luật biển quốc tế 1982 Công ước Luật biển quốc tế 1958 Luật biển quốc tế hiện đại, TS.Lê Mai Anh chủ biên, NXB LĐ-XH Tìm hiểu Luật quốc tế về đánh cá trên biển, Trường Giang, NXB CTQG Khoá luận tốt nghiệp: Luật QT về đánh cá trên biển - Trần Kim Dung, người hướng dẫn: TS.Nguyễn Toàn Thắng Tập bài giảng Luật biển quốc tế của TS.Nguyễn Toàn Thắng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrong quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế trong luật biển quốc tế đã thể hiện r.doc
Tài liệu liên quan