MỤC LỤC:
I: PHẦN MỞ ĐẦU.
1.1. Tính cấp thiết của đề tài: .
1.2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: .
1.3. Cơ cấu của niên luận: .
II. PHẦN NỘI DUNG.
Chương 1: Những quy định của pháp luật về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con.
1.1. Một số khái niệm cơ bản: .
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền làm cha, mẹ: .
1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của quan hệ cha, mẹ, con: .
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc xác định quan hệ cha, mẹ, con: .
1.2. Sơ lược sự phát triển của pháp luật Việt Nam về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con: .
1.3. Vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật hiện hành: .
1.3.1. Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con: .
1.3.2. Nguyên tắc xác định quan hệ cha, mẹ, con: .
1.3.2.1. Xác định quan hệ cha, mẹ, con trong giá thú: .
1.3.2.2. Xác định quan hệ cha, mẹ, con ngoài giá thú: .
1.3.3. Người có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha, mẹ, con: .
1.3.3.1. Xác định quan hệ cha, mẹ, con theo thủ tục tố tụng dân sự: .
1.3.3.2. Xác định quan hệ cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính: .
1.3.2.3 Việc thu thập chứng cứ để xác định cha, mẹ cho con rất khó khăn vì những lý do sau: .
1.3.2.4. Để tiến hành việc thu thập chứng cứ được thuận lợi cũng như để giải quyết có hiệu quả việc xác định cha, mẹ cho con thì cần có những giải pháp phù hợp:
1.3.4. Thẩm quyền và trình tự thủ tục xác định quan hệ cha, mẹ, con: .
Chương 2: Thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, con tại Nghệ An, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện pháp luật: .
2.1.Thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, con tại địa bàn tỉnh Nghệ An: .
2.1.1. Sơ lược điều kiện kinh tế - xã hội tại địa bàn tỉnh Nghệ An: .
2.1.2. Thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, con tại địa bàn tỉnh Nghệ An: .
2.1.2.1. Thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, theo thủ tục hành chính: .
2.1.2.2 Thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, theo thủ tục tố tụng dân sự: .
2.1.2.3. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng nói trên xác định quan hệ cha ,mẹ, con nói trên: .
2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ việc về xác định quan hệ cha, mẹ, con tại địa bàn tỉnh Nghệ An: .
2.3. Giải pháp kiến nghị nhằm giải quyết có hiệu quả các trường hợp xác định quan hệ cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật: .
III: PHẦN KẾT LUẬN: .
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11558 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xác định quan hệ cha, mẹ, con - Lý luận và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ha để giám định AND. Nhưng mà vì giũa họ và người cha đó không cùng chung sống, yêu thương chăm sóc lẫn nhau nên việc đó không phù hợp với đạo lý, dẫn đến tình trạng khó khăn hoặc không thể thu thập được chứng cứ để xác định cha cho đứa trẻ đó.
Một nguyên nhân nữa làm cho việc thu thập chứng cứ gặp nhiều khó khăn đó là chi phí giám định gien quá cao, nên đương sự không có khả năng hoặc là không đủ khả năng để giám định gien. Ở nước ta chi phí cho một lần giám định gien cò quá cao, đặc biệt là với những người có cuộc sống khó khăn, những người ở vùng dân tộc xa xôi thì vẫn còn rất nhiều khó khăn.
1.3.2.4. Để tiến hành việc thu thập chứng cứ được thuận lợi cũng như để giải quyết có hiệu quả việc xác định cha, mẹ cho con thì cần có những giải pháp phù hợp:
Cần dự liệu hệ thống chứng cứ. Chứng cứ là một công cụ rất quan trọng trong việc giải quyết các vụ án không chỉ về hình sự, dân sự mà trong lĩnh vực hôn nhân gia đình nó cũng đóng vai trò quan trọng, vấn đề về xác định quan hệ cha, mẹ, con thì cần dự liệu những hệ thống chứng cứ phù hợp
Cần có chế tài trong trường hợp đương sự cố tình làm sai sự thật hoặc từ chối giám định gien. Vấn đề giải quyết các tranh chấp về xác định cha, mẹ, con còn nhiều vướng mắc và phức tạp, trong trường hợp này đương sự có thể lợi dụng để cố tình làm sai sự thật hoặc chống lại cơ quan chức năng như từ chối không chịu giám định gien.Vì thế chúng ta cần quy định những chế tài cụ thể và chặt chẽ hơn để đương sự dễ dàng hợp tác với cơ quan không gây khó khăn trong viẹc giải quyết các tranh chấp.
Cần quy định cụ thể về việc nộp lệ phí giám định gien phù hợp. Hiện nay tình hình y học của Việt Nam đã có sự phát triển so với nền y học của các nước trên thế giới, nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được những yêu cầu của người dân trong nhiều lĩnh vực. Trong vấn đề giám định gien hiện nay của Việt Nam thì chi phí cho hoạt động này còn quá cao so với mức sống của người dân dẫn đến tình trạng người dân không đủ khả năng để thực hiện khi có yêu cầu của pháp luật hoặc trong trường hợp cần thiết. Chi phí cho một lần giấm định gien có thể lên tới hàng chục triệu đồng, là mức quá cao so với những người có nguồn thu nhập không ổn định trong xã hội. Từ thực tế đó cho thấy rằng cần phải có biện pháp thích hợp hơn để giảm đi phần nào chi phí giám định gien phù hợp với khả năng của người dân, khi có yêu cầu hoặc trong trường hợp cần thiết thì mọi người sẽ sẵn sàng đi giám định gien mà không làm cản trở đến việc giải quyết của cơ quan chức năng.
Vấn đề xác định cha, mẹ, con (kể cả con trong giá thú hoặc con ngoài giá thú ) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thân phận của mỗi cá nhân trong xã hội. Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con được xác thực liên quan tới quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ này, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên khác trong gia đình. Quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con là cơ sở giải quyết các tranh chấp đối với loại án kiện xác định cha, mẹ, con trong thực tế; liên quan đến việc giải quyết ổn thỏa, chính xác các tranh chấp về nuôi dưỡng, thừa kế, bồi thường thiệt hại, …. theo quy định của pháp luật.
1.3.3. Người có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha, mẹ, con
1.3.3.1. Người có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha, mẹ, con theo thủ tục tố tụng dân sự:
Theo quy định tại Điều 65, Điều 66 LHN&GĐ 2000:
Điều 65. Quyền nhận cha, mẹ:
1. Con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
2. Con đã thành niên xin nhận cha, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của mẹ; xin nhận mẹ, không đòi hỏi phải có sự đồng ý của cha.
Điều 66. Người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự
1. Mẹ, cha hoặc người giám hộ theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự:
a) Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, người có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha, mẹ, con bao gồm các chủ thể sau:
Người đã thành niên
Mẹ, cha, người giám hộ của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự nhận cha, mẹ hoặc của cha, mẹ nhận con.
Viện kiểm sát
Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Hội liên hiệp phụ nữ.
Cá nhân, cơ quan tổ chức khác.
Luật HN&GĐ năm 1959 là đạo luật đầu tiên của nhà nước ta điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi. Trong Luật này, vấn đề nuôi con nuôi mới chỉ được quy định rất sơ sài bởi một điều luật (Điều 24). Theo quy định của điều luật này thì “việc nhận nuôi con nuôi phải được Ủy ban hành chính cơ sở mơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 1959 không có quy định gì về các điều kiện của việc nuôi con nuôi.
Luật HN&GĐ năm 1986 quy định về nuôi con nuôi trong một chương riêng, với quy định về tuổi của người được nhận làm con nuôi, ý chí của các bên và “việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch”. Như vậy, Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 đều quy định việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch thì mới có giá trị pháp lý.
Với các quy định tại Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 như trên đã dẫn đến cách hiểu là việc nuôi con nuôi chỉ cần cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch mà không bắt buộc phải đăng ký việc nuôi con nuôi như quy định tại Điều 72 Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy nhiên theo quan điểm của chúng tôi thì cách hiểu như vậy là chưa đúng với bản chất của việc đăng ký hộ tịch. Theo các văn bản pháp luật về đăng ký hộ tịch thì có thể hiểu đăng ký hộ tịch bao gồm hai việc gắn liền với nhau: đó là công nhận các sự kiện hộ tịch (hoặc còn gọi là xác nhận các sự kiện hộ tịch theo Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch, Điều 1 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005) và ghi các sự kiện đã được công nhận đó vào sổ hộ tịch. Điều này cũng được thể hiện rõ ràng trong Điều lệ đăng ký hộ tịch ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày 16/1/1961 và Thông tư số 05 –NV ngày 21/1/1961 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới (mục D: Đăng ký và ghi chú việc nuôi con nuôi). Sự công nhận việc nuôi con nuôi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được thể hiện bằng Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi. Quyết định đó được trao cho các bên đương sự, là một loại giấy tờ hộ tịch và là chứng cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ tịch của cá nhân. Đồng thời với việc ra quyết định công nhận việc nuôi con nuôi, việc nhận nuôi con nuôi phải được ghi vào sổ hộ tịch. Ghi vào sổ hộ tịch là việc xác nhận một sự kiện hộ tịch và lưu trữ những thông tin gắn liền với nhân thân của cá nhân vào sổ gốc, là cơ sở pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của cá nhân. Những thông tin về việc nuôi con nuôi được ghi trong sổ hộ tịch (cụ thể là Sổ đăng ký việc nuôi con nuôi) là cơ sở để cấp lại bản sao Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi khi Quyết định đó bị mất hoặc bị hư hỏng không thể sử dụng được. Bản sao được cấp từ sổ gốc có giá trị pháp lý như bản chính.
Như vậy, có thể nói, theo quy định của pháp luật, việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vảo sổ hộ tịch mới có giá trị pháp lý, thực chất đó chính là đăng ký việc nuôi con nuôi.
Tuy nhiên trong thực tế nhận nuôi con nuôi, vì nhiều lý do khác nhau mà việc này không được thực hiện. Nhiều trường hợp quan hệ nuôi con nuôi đã được thực hiện trên thực tế nhưng lại không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không được ghi vào sổ hộ tịch nên việc nuôi con nuôi không có giá trị pháp lý, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự.
Hiện nay viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác định quan hệ cha, mẹ, con nữa hay không?
Khoản 2 Điều 66 LHN&GĐ 2000:
“Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự”.
Khoản 4 Điều 34 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 quy định:
“Viện Kiểm sát khởi tố hoặc tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung bằng văn bản gởi cho Tòa án”.
Theo quy định tại Điều 161, Điều 162 BLTTDS 2004 thì Viện kiểm sát không còn quyền khởi tố vụ án dân sự như quy định của PLTTGQCVADS1989.
Từ thực tế đó nên cần quy định thống nhất giữa pháp luật Tố tụng dân sự và pháp luật Hôn nhân và gia đình.
1.3.3.2. Người có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính bao gồm những người sau:
Người đã thành niên
Người giám hộ của người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự
1.3.4. Thẩm quyền và trình tự thủ tục xác định quan hệ cha, mẹ, con.
Trong trường hợp có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân và được tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong trường hợp không có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân và được tiến hành theo thủ tục hành chính.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định việc xác định quan hệ cha, mẹ, con tại Điều 30 và Điều 33) có thể thực hiện thông qua hai thủ tục: theo thủ tục tố tụng dân sự do Tòa án tiến hành trong trường hợp có tranh chấp hoặc theo thủ tục hành chính do UBND cấp xã tiến hành trong trường hợp đăng ký nhận con ngoài giá thú (Nghị định 183/1998/NĐ – CP về đăng ký hộ tịch).
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 việc xác định quan hệ cha, mẹ, con do Tòa án tiến hành. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quy định này còn phụ thuộc nhiều yếu tố nên trong thời gian qua , việc hướng dẫn thi hành còn nhiều điểm chưa thống nhất.
Ngày 11/01/2001 Bộ tư pháp đã có công văn số 20/TP – HT hướng dẫn: “Theo quy định tại các Điều từ 63 đến 66 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì việc xác định cha, mẹ, con thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân”. Do đó kể từ ngày 11/01/2001 cơ quan đăng ký hộ tịch không thực hiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con theo quy định tại mục 6, chương 3 Nghị định 87/1998/NĐ – CP ngày 10/10/1998.
Sau đó, đến 03/4/2001 Bộ tư pháp lại có công văn số 410/TP – PLDSKT hướng dẫn sửa đổi công văn số 20/TP – HT là vẫn cho phép các cơ quan hộ tịch ở địa phương tiếp tục thực hiện các quy định về đăng ký nhận cha, mẹ, con tự nguyện không có tranh chấp theo nghị định 83/1998/NĐ – CP. Theo nghị định 83/1998/NĐ – CP, trong trường hợp này, các bên nhận và được nhận là cha, mẹ, con phải còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con.
Đối với trường hợp nhận cha, mẹ, con khác, Luật hôn nhân và gia đình chỉ quy định quyền được yêu cầu mà không quy định cụ thể thẩm quyền giải quyết. Vấn đề này được quy định tương đối chi tiết trong Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch (Nghị định số 158/2005 có hiệu lực từ ngày 01/04/2006, thay thế nghị định số 83/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của chính phủ về đăng ký hộ tịch).
Mục 6, Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, tại Điều 32 Nghị định 158/2005/NĐ-CP quy định điều kiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con:
1. Việc nhận cha, mẹ, con theo quy định tại mục này được thực hiện, nếu bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp.
2. Người con đã thành niên hoặc người giám hộ của người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cũng được làm thủ tục nhận cha, mẹ theo quy định tại Mục này, trong trường hợp cha, mẹ đã chết; nếu việc nhận cha, mẹ là tự nguyện và không có tranh chấp.
Theo đó, việc đăng ký nhận cha, mẹ,con thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con trong hai trường hợp: Tường hợp bên nhận và bên được nhận là cha, mẹ cò sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp; người con đã thành niên hoặc người giám hộ của người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cũng được làm thủ tục nhận cha, mẹ, con trong trường hợp cha, mẹ đã chết nếu việc nhận cha, mẹ là tự nguyện và không có tranh chấp. Do vậy hiện nay, trong thời gian chờ văn bản của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể thì việc xác định quan hệ cha, mẹ, con vẫn được thực hiện thông qua hai thủ tục: thủ tục hành chính (tự nguyện nhận cha, mẹ, con không có tranh chấp) và thủ tục tố tụng dân sự (trường hợp có tranh chấp).
Quy định của pháp luật về thẩm quyền xác nhận cha, mẹ, con theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã rõ. Nhưng chính từ quy định đã rõ này nảy sinh một vấn đề mới vô cùng phức tạp trong xã hội. Có thể sẽ là hàng loạt các trường hợp thay đổi quan hệ huyết thống: từ mối quan hệ cha mẹ con có thể thành quan hệ anh, chị em hoặc trở thành người dưng nước lã.
Ví dụ 1: Giấy khai sinh của H đã ghi rõ tên của người cha là A, người mẹ là B. Sau có thỏa thuận tự nguyện và không có tranh chấp về việc C mới thực sự là cha của H. Trong trường hợp này, các bên chỉ cần làm đơn ra ủy ban nhân dân cấp xã làm thủ tục nhận cha, mẹ con theo mục 6 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP. Căn cứ vào sự tự nguyện và thỏa thuận, không có tranh chấp, Ủy ban nhân dân sẽ ra quyết định xác nhận C là cha của H.
Việc sửa lại giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh theo thủ tục cải chính được quy định tại mục 7 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP.
Cũng theo các quy định này, hoàn toàn có thể có việc sau khi đã xác nhận C là cha của H, có thể tiếp tục có thỏa thuận giữa những người liên quan là không phải C là cha của H, mà D mới là cha của H. Nếu có sự thỏa thuận tự nguyện, không có tranh chấp thì Ủy ban nhân dân hoàn có cơ sở để lại xác định D là cha của H.
Ví dụ 2: Giấy khai sinh của T đã ghi rõ tên của cha là P, tên người mẹ là Q. Sau đó có yêu cầu của M muốn xác định mình mới là mẹ của T. Điều đáng nói là theo mối quan hệ hiện tại thì M là chị gái của T, là con của ông P và bà Q. Nói cách khác, M và T là hai chị em cùng bố, cùng mẹ. Lý do mà M dùng làm cơ sở cho yêu cầu xác định T là con mình là do M sinh con khi mới 15 tuổi. Để tránh dị nghị của làng xóm, M đã nhờ bố mẹ khai sinh cho con mình. Theo M, phải chính là M mới là mẹ của T, còn P và Q là ông bà ngoại của T. Ông P và bà Q cũng thừa nhận những điều mà con gái M của mình đề nghị là đúng và cũng có yêu cầu xác định T là con của M. T cũng công nhận mình là con gái của M và đề nghị xác nhận M là mẹ của mình.
Việc xin nhận cha, mẹ, con diễn ra ở thời điểm bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống, việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp nên căn cứ khoản 1 Điều 32, Điều 33 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, đây là thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Hai ví dụ trên cho thấy theo quy định của pháp luật hiện hành, việc thay đổi quan hệ huyết thống trở nên quá dễ dàng, quá đơn giản. Nhìn ở góc độ cải cách hành chính thì dường như đây là một bước tiến. Nhưng một điều nữa cũng cần phải nói là ở ví dụ 1, mục tiêu của bố mẹ AB là muốn nhờ người bạn C đưa con mình ra nước ngoài định cư. Tương tự, trong ví dụ 2, M hiện mang quốc tịch Úc, việc chuyển mối quan hệ chị em giữa M và T thành mối quan hệ mẹ con thì việc bảo lãnh cho T đoàn tụ với mẹ là chuyện đương nhiên.
Những thực tế này cho thấy Nghị định 158/2005 có khả năng tạo ra sự thay đổi không thể tưởng tượng nổi mối quan hệ huyết thống, mối quan hệ gia đình. Chỉ cần con người thỏa thuận với nhau là các mối quan hệ cha mẹ, con cái, ông bà mang tính huyết thống được xác lập. Đây là việc làm trái tự nhiên. Mối quan hệ cha mẹ và con (đẻ) là mối quan hệ tự nhiên, do tự nhiên tạo ra, không phải là ý chí của con người theo cách thức này. Con người chỉ có thể tạo ra quan hệ nuôi dưỡng (nhận nuôi con nuôi), không thể tạo ra mối quan hệ huyết thống chỉ bằng sự thỏa thuận, không có tranh chấp. Để xác định mối quan hệ tự nhiên, yếu tố cần và đủ là phải có căn cứ về tính huyết thống. Còn sự thừa nhận của các bên chỉ là yếu tố tham khảo chứ không có tính quyết định trong việc xác nhận cha, mẹ, con, nhất là đối với trường hợp xác định lại cha, mẹ. Muốn làm được điều này, phải là một cơ quan chuyên trách trong việc xem xét và đánh giá chứng cứ do người yêu cầu phải cung cấp. Không một cơ quan nào có thể thay thế được Tòa án trong trường hợp này. Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ của Tòa án là xác định sự thật khách quan, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, của tổ chức, của nhà nước.
Điều này cũng không có nghĩa là nếu để Ủy ban nhân dân giải quyết thì không khách quan. Cũng là một cơ quan nhà nước, hoạt động của Ủy ban nhân dân cũng phải thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật, nhưng với tư cách là một cơ quan quản lý, Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ chung của nhà nước là quản lý chính quyền ở cơ sở. Còn Tòa án là cơ quan nhà nước có chức năng xét xử, thẩm phán là người được đào tạo kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử. Việc xét xử của Tòa án cũng có quy trình, thủ tục tố tụng để mọi vấn đề được xem xét khách quan nhất. Vì vậy, chúng tôi cho ràng dù với mục tiêu cải cách hành chính nhưng cải cách vấn đề gì, đến đâu và như thế nào lại rất cần được nghiên cứu nghiêm túc dưới góc độ khoa học. Với những lý do đó, chúng tôi cho rằng, cần quy định cho tòa án có thẩm quyền xác định cha cho con đối với trường hợp cụ thể nêu trên.
Điều này cho thấy để cải cách thủ tục hành chính, cần một cái nhìn thấu đáo, toàn diện hơn của nhà soạn thảo luật. Không thể vì tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân trong cuộc sống mà đưa ra những quy định trái với tự nhiên, tạo ra một kẽ hở lớn về mặt pháp luật, đem đến một hậu quả khó lường cho xã hội như đã phân tích quy định về thẩm quyền xác nhận cha, mẹ, con theo quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền sẽ có những điều chỉnh vấn đề này khi chỉnh sửa Nghị định về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Trình tự, thủ tục khai nhận quan hệ cha, mẹ và con.
Theo luật định thủ tục khai nhận quan hệ cha, mẹ và con bao gồm thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp.
Việc xác định cha, mẹ cho con theo thủ tục hành chính thường do người cha, người mẹ hoặc cả hai người đều tự nguyện nhận con; dù quan hệ hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp, thong qua thủ tục đăng kí khai sinh cho con tại cơ quan hộ tịch để xác thực về mặt pháp lý quan hệ cha, mẹ và con đó. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày sinh trẻ em, cha, mẹ hoặc người than thích, nguòi có trách nhiệm phải khai sinh cho trẻ em; đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn trên không quá 60 ngày (theo Điều 18 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của chính phủ về đăng ký hộ tịch).
Trong giấy khai sinh của đứa trẻ, ủy ban nhân dân cơ sở ghi rõ họ tên của hai vợ chồng trong giấy chứng nhận kết hôn là cha, mẹ của đứa trẻ; hoặc ghi rõ họ tên của người mẹ sinh con ngoài giá thú, hay họ tên của người đàn ông được khai và tự nguyện nhận con, sẽ là cha của đứa trẻ ngoài giá thú đó, Theo luật định, đương nhiên coi là cha của đứa trẻ, nếu người chồng của mẹ đứa trẻ hay người đàn ông được khai là cha của đứa trẻ đó đã có mặt khi ủy ban nhân dân cơ sở khai sinh cho đứa trẻ đó.
Trường hợp mới kết hôn mà người vợ đã sinh con, cán bộ hộ tịch khi đăng ký khai sinh cho đứa trẻ không được gạn hỏi, truy bức xem đứa trẻ là con ai? Có phải là con chung của vợ chồng không? Có thể có truòng hợp người mẹ sinh con ngoài giá thú đã không muốn (hay không biết) khai rõ họ tên người cha của đứa trẻ thì phần khai về người cha trong giấy khai sinh của đứa trẻ được gạch chéo hay bỏ trống.
Người đăng ký khai sinh nộp giấy chứng sinh cho cơ sở y tế nơi trẻ em sinh ra cáp và xuất trình các giấy tờ sau:
Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu có).
Sổ hộ khẩu gia đình hoặc giấy đăng ký tạm trú của người mẹ.
Chứng minh nhân dân của người đến đăng ký khai sinh.
Trong trường hợp không có đầy đủ các loại giấy tờ nêu trên thì phải có các loại giấy tờ hợp lệ để thay thế.
Nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng hoặc của người chỉ huy, người điều khiển phương tiện giao thông nếu sinh con trên các phương tiện giao thông
Nếu có đủ giấy tờ hợp lệ thì chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp ngay một bản chính giaáy khai sinh cho trẻ em, cán bộ hộ tịch tư pháp ghi vào sổ đăng ký khai sinh. Bản sao và số lượng bản sao giấy khai sinh được cấp theo yêu cầu của người đi khai sinh.
Trong trường hợp đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú, phàn khai về cha, mẹ khi chưa xác định được thì trong giấy khai sinh và trong sổ đăng ký khai sinh để trống. Nếu có người nhận làm ch, mẹ của trẻ em thì căn cứ vào quyết định công nhận việc ch, mẹ nhận con của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà ghi tên của người được công nhận là cha, mẹ vào phần khai về cha, mẹ trong giấy khai sinh và trong sổ khai sinh của người con( Điều 19 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch). Đối với trường hợp trẻ em sinh ra sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết thì cũng phải đăng ký khai sinh theo quy định chung, nếu chết trước khi sinh hoạc sinh ra mà sống chưa được 24 giờ thì không phải đăng ký khai sinh( Điều 20 Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng kyý hộ tịch). Đối với trường hợp trẻ sơ sinh bị bỏ rơi thì người phát hiện trẻ sơ sinh bị bỏ rơi có trách nhiệm bảo vệ trẻ em đó và báo ngay cho ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an nhân dân cơ sở nơi gần nhất để lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ sơ sinh bị bỏ rơi. Ủy ban nhân dân tìm người hoạc tổ chức nhận nuôi dưỡng trẻ em đó.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoạc công an cơ sở nơi có trẻ em sơ sinh bị bỏ rơi phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để tìm cha, mẹ đẻ cho trẻ em đó. Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi phát hiện trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, nếu không tìm được cha, mẹ đẻ thì cá nhân hoặc tổ chức nhận nuôi dưỡng phải khai sinh cho trẻ em đó tại ủy ban nhân dân cấp xá nơi lập biên bản.
Khi khai sinh cho trẻ em, người đi khai sinh phải nộp biên bản xác nhận tình trạnh trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và xuất trình hộ khẩu gia đình và giấy tờ hợp lệ thay thế.
Khi đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nếu không có cơ sở để xác định ngày sinh và nơi sinh thì ngày phát hiện trẻ em bị bỏ rơi là ngày sinh, nơi sinh là nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi. Phần khai vè cha, mẹ của trẻ em trong giày khai sinh và trong sổ đăng ký khai sinh được để trống. Trong trường hợp có người nhận trẻ em làm con nuôi thì căn cứ vào quyết định công nhận việc nuôi con nuôi của ủy ban cấp xã, cán bộ hộ tịch tư pháp ghi tên của người được công nhận là cha, mẹ nuôi vào phần khai vè cha, mẹ trong giấy khai sinh của con nuôi , nhưng phần ghi chú trong sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ “cha, mẹ nuôi”. Nội dung ghi chú này phải được bảo đảm bí mật tuyệt đối, chỉ những người có thẩm quyền mới có quyền khai thác và sử dụng thông tin này (Điều 21 Nghị đinh 83/1998 NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng hý hộ tịch).
Việc xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp dựa trên phán quyết của Tòa án. Quyền nhận con, nhận cha, mẹ của đương sự được pháp luật tôn trọng và bảo hộ (Điều 64 và 65 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự bao gồm:
1.“Mẹ, cha của người giám hộ theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định co cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
3. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa an h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xác định quan hệ cha, mẹ, con- Lý luận và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Nghệ An.doc