Tiểu luận Xác định tài sản thuần của ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt

- Trong điều kiện ngày nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý SXKD đủ mạnh giúp cho nó có khả năng sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực giúp cho quá trình sản xuất , biết tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó một cách linh hoạt với những biến động của môi trường.

- Quản trị kinh doanh là một khái niệm rộng lớn. Năng lực quản trị kinh doanh của một doanh nghiệp cần được đánh giá theo các nội dung cơ bản của hoạt động quản trị, bao gồm sự đánh giá về khả năng hoạch định chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, khả năng quản trị nguồn nhân lực vv

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1932 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Xác định tài sản thuần của ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác yếu tố ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp   Sự  phát triển có hiệu quả  và bền vững của toàn bộ  nền kinh tế quốc dân phụ  thuộc vào kết quả hoạt  động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Mức  độ đạt được mục tiêu kinh tế  - xã hội của mỗi doanh nghiệp lại phụ  thuộc vào môi trường kinh doanh và  khả năng thích ứng của doanh nghiệp với hoàn cảnh của môi trường kinh doanh. “Môi trường kinh doanh là  tổng hợp các yếu tố, các  điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp  đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp”.     Môi trường kinh doanh được cấu thành từ những yếu tố khác nhau, thông thường được phân chia thành 2 môi trường đó là: môi trường bên ngoài và bên trong. 1.2.1 Môi trường bên ngoài doanh nghiệp 1.2.1.1 Môi trường kinh doanh tổng quát          Các yếu tố môi trường vĩ  mô bao gồm: các yếu tố  kinh tế, yếu tố chính trị  và luật pháp, yếu tố xã hội, yếu tố tự nhiên, yếu tố công nghệ. Nghiên cứu về  môi trường vĩ mô nhằm  đánh giá quy mô và  tiềm năng thị trường của doanh nghiệp và sự tác động của các tác lực môi trường như chính trị, kinh tế, xã hội…  đối với doanh nghiệp.  * Môi trường kinh tế       Khi nền kinh tế phát triển tốt thì  doanh nghiệp có xu hướng đi lên và ngược lại khi kinh tế  giảm sút thì doanh nghiệp đi xuống. Như vậy, nếu dự  đoán được xu hướng phát triển của nền kinh tế, thì có thể dự báo được xu thế phát triển chung của  doanh nghiệp.       Thẩm định viên cần đánh giá  môi trường kinh tế của doanh nghiệp dựa vào các yếu tố sau: tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá, các chỉ số trên thị trường chứng khoán…Tất cả chúng đều có tác động trực tiếp tới giá trị doanh nghiệp. * Môi trường chính trị pháp luật       Các yếu tố chính trị và  luật pháp có ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp, bao gồm hệ  thống các quan điểm, đường lối chính sách của chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, xu hướng ngoại giao của chính phủ, những diễn biến chính trị  trong nước, trong khu vực và  trên toàn thế giới. Một doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh tốt cần phải có những điều kiện như môi trường chính trị ổn định ở mức độ nhất định được quy định trong lộ trình phát triển kinh tế, các điều luật sở hữu trí tuệ, luật cạnh tranh…phải chi tiết, rõ ràng, đồng bộ. * Môi trường văn hóa xã hội       Các khía cạnh hình thành môi trường văn hóa - xã  hội như: những quan niệm về  đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, về  nghề nghiệp; những phong tục, tập quán, truyền thống; những quan tâm ưu tiên của xã  hội; dân số, giới tính, độ tuổi, sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người, trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội, các vấn đề liên quan đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên ... có ảnh hưởng mạnh mẽ  đến các họat động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phấn đấu đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội và thích ứng với từng văn hóa xã hội thì sẽ được xã hội chấp nhận. * Môi trường công nghệ       Đây là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều cơ hội và  đe dọa đối với các doanh nghiệp. Những áp lực và đe dọa từ môi trường công nghệ là sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh của các sản phẩm thay thế, đe dọa các sản phẩm truyền thống. Sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện tại bị lỗi thời và tạo ra áp lực đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng cạnh tranh. 1.2.1.2 Môi trường ngành       Khi đánh giá môi trường ngành của doanh nghiệp, cần phân tích những nội dung: quan hệ doanh nghiệp với khách hàng, với nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, cơ quan nhà nước, chu kỳ  kinh doanh, triển vọng tăng trưởng của ngành, cạnh tranh trong ngành, áp lực cạnh tranh tiềm tàng. * Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng Thị trường là yếu tố quyết định đến đầu ra của doanh nghiệp. Thị trường của doanh nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, họ có thể là cá nhân các doanh nghiệp khác hoặc nhà nước ở cả hiện tại và trong tương lai. Doanh nghiệp muốn đánh giá đúng khả năng phát triển cần phải xác định tính chất, mức độ bền vững của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng. Uy tín của doanh nghiệp với khách hàng có được không phải một sớm một chiều, mà cả quá trình và do nhiều yếu tố hình thành. Chúng thể hiện ở: sự trung thành và thái độ của khách hàng, số lượng và chất lượng khách hàng, tiếng tăm và các mối quan hệ tốt. Một khi các yếu tố trên được đáp ứng thì doanh nghiệp sẽ phát triển bền vững. * Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp Doanh nghiệp thường sử dụng các loại hàng hóa, nguyên vật liệu, các dịch vụ, nước, thông tin, tư vấn… có tính ổn định và đầy đủ nhằm phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Do tính chất khan hiếm các nguồn lực, nhà cung cấp không đủ lớn doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động một cách liên tục không bị gián đoạn cần có nhiều nguồn cung cấp có đủ số lượng yêu cầu, cung cấp kịp thời với chất lượng ổn định, chủng loại nguyên liệu có thể thay thế được nhau. * Các đối thủ cạnh tranh Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập không những doanh nghiệp phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh trong nước mà còn cả các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại thị trường Việt Nam. Sự quyết liệt của trong môi trường cạnh tranh được coi là nguy cơ đe dọa trực tiếp tới sự tồn tại của doanh nghiệp. Khi đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần xem xét các yếu tố: giá cả, chất lượng sản phẩm, hậu mãi, số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh thế mạnh của đối thủ là gì. Đồng thời cũng phải xem xét tới các những yếu tố xuất hiện các đối thủ mới. * Các cơ quan nhà nước Hoạt động của doanh nghiệp luôn phải đặt trước sự kiểm soát, giám sát cảu các cơ quan nhà nước như: cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, tổ chức công đoàn… Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là những doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với xã hội như nộp thuế đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động, quan tâm giải quyết các vấn đề môi trường sinh thái…đó cũng thường biểu hiện là các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính lớn mạnh, lợi nhuận thu được là chính thực lực chứ không phải là làm hàng giả, trốn thuế… * Chu kỳ kinh doanh           Nhìn chung, tình hình hoạt động của nhiều ngành thường hoàn toàn tương đồng với các chu kỳ kinh tế. Tuy nhiên, trong nhiều lĩnh vực cụ thể của một ngành có thể không hoàn toàn tương đồng với chu kỳ kinh tế.       Do đó, khi đánh giá cần phân tích cụ thể từng lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. * Triển vọng tăng trưởng của ngành          Triển vọng tăng trưởng của một ngành có liên hệ chặt chẽ với chu kỳ kinh tế. Một ngành có triển vọng tăng trưởng mạnh có thể đem lại cho các doanh nghiệp trong ngành những cơ hội thuận lợi. Những cơ hội này thể hiện ở tiềm năng mở rộng thị trường, khả năng cải thiện vị thế tài chính của các doanh nghiệp,…       Vì vậy, khi đánh giá môi trường ngành của doanh nghiệp, cần xem xét triển vọng của ngành trên cơ sở đánh giá chu kỳ của nền kinh tế và nhu cầu tiềm tàng của nền kinh tế đối với ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động. 1.2.2 Môi trường bên trong doanh nghiệp * Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp Khi xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, bao giờ người ta cũng quan tâm ngay đến hiện trạng tài sản của doanh nghiệp vì hai lý do chủ yếu : - Thứ nhất : tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng và chất lượng của sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra . - Thứ hai : Giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị doanh nghiệp. * Vị trí kinh doanh - Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh được đặng trưng bởi các yếu tố như địa điểm , diện tích của doanh nghiệp và các chi nhánh thuộc doanh nghiệp, yếu tố địa hình , thời tiết … - Một doanh nghiệp , nhất là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại , dịch vụ , được đặt gần đô thị , các nơi đông dân cư , các trung tâm buôn bán lớn và các đầu mối giao thông quan trọng có thể đem lại rất nhiều lợi thế cho doanh nghiệp. Với vị trí thuận lợi, doanh nghiệp có thể giảm được nhiều khoản mục chi phí chủ yếu như : chi phí vận chuyện, chi phí bảo quản, chi phí lưu kho, chi phí giao dịch… * Uy tín kinh doanh - Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hang về sản phẩm của doanh nghiệp , nhưng nó lại được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong doanh nghiệp như: do chất lượng sản phẩm cao, do năng lực và trình độ quản trị kinh doanh giỏi, do thái độ phục vụ tận tình của nhân viên … - Trong thực tế, có những doanh nghiệp trong nước có thể sản xuất những mặt hàng chất lượng không thua kém hàng nước ngoài nhưng không thể bán với giá cao như mặt hàng đó, bởi chưa xây dựng được uy tín với khách hàng . * Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động - Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi phí SXKD do việc sử dụng hợp lý nguyên vật liệu … trong quá trình sản xuất , giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng, từ đó, góp phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp. - Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lão động không chỉ xem ở bằng cấp , thợ bậc và số lượng lao động đạt được các tiêu chuẩn đó mà quan trọng hơn trong điều kiện hiện nay, còn cần phải xem xét hàm lượng trị thức có trong mỗi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. * Năng lực quản trị kinh doanh - Trong điều kiện ngày nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý SXKD đủ mạnh giúp cho nó có khả năng sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực giúp cho quá trình sản xuất , biết tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó một cách linh hoạt với những biến động của môi trường. - Quản trị kinh doanh là một khái niệm rộng lớn. Năng lực quản trị kinh doanh của một doanh nghiệp cần được đánh giá theo các nội dung cơ bản của hoạt động quản trị, bao gồm sự đánh giá về khả năng hoạch định chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, khả năng quản trị nguồn nhân lực vv… 1.3 Phương pháp giá trị tài sản thuần. 1.3.1 Cơ sở lí luận Phương pháp này còn gọi là pháp giá trị nội tại hay mô hình định giá tài sản,được xây dựng trên dựa trên các nhận định: Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại hàng hóa thông thường. Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành trên cơ sở một lượng tài sản có thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể về sự tồn tại của doanh nghiệp, chúng cấu thành thực thể của doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà đầu tư ngay khi thành lập doanh nghiệp và còn được bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và thừa nhận về mặt pháp lí các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu tư đối với các tài sản đó. Chính vì vậy, giá trị của doanh nghiệp được tính bằng tổng giá trị thị trường của số tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh. 1.3.2 Phương pháp xác định Tổng giá trị tài sản trong doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào người chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn được hình thành trên các trái quyền khác nhau như: các trái chủ cho doanh nghiệp vay vốn, tiền lương chưa đến kỳ hạn trả, thuế chưa đến kỳ hạn nộp, các khoản ứng trước của khách hàng...do vậy, mặc dù giá trị doanh nghiệp được coi là tổng giá trị các tài sản cấu thành doanh nghiệp, nhưng để thực hiện một giao dịch mua bán doanh nghiệp, người ta phải xác định giá trị tài sản thuần thuộc chủ sở hữu doanh nghiệp. Theo đó công thức tổng quát như sau: V0=VT – VN (1) Trong đó: V0: giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp. VT: tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh. VN: giá trị các khoản nợ. Dựa vào công thức (1) người ta suy diễn ra 2 cách tính cụ thể về giá trị tài sản thuần (V0)như sau: * Cách thứ nhất Dựa vào số liệu về tài sản và cơ cấu nguồn vốn phản ánh trên bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá để xác định bằng cách: lấy tổng tài sản phản ánh ở phần tài sản trừ đi các khoản nợ phải trả bên nguồn vốn. + Đây là một cách tính đơn giản, dễ dàng. Nếu như việc ghi chép phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định của kế toán thì giá trị tài sản thuần tính toán được sẽ là số liệu có độ tin cậy về số vốn theo sổ sách của của chủ sở hữu đang được huy động vào sản xuất kinh doanh. Nó chỉ ra mức độ độc lập về mặt tài chính, khả năng tự chủ trong điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là căn cứ thích hợp để các nhà tài trợ đánh giá khả năng an toàn của đồng vốn đầu tư, đánh giá vị thế tín dụng của doanh nghiệp. + Mặc dù người ta có thể đánh giá giá trị doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau. Song theo cách này nó cũng chứng minh cho các bên liên quan thấy được rằng:đầu tư vào doanh nghiệp luôn luôn được đảm bảo bằng giá trị của các tài sản hiện có trong doanh nghiệp, chứ không phải bằng cái “có thể” như nhiều phương pháp khác. Tuy nhiên, giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp này cũng chỉ là những thông tin, số liệu mang tính lịch sử có tính chất tham khảo trong quá trình vận dụng các phương pháp khác nhằm định ra giá trị doanh nghiệp một cách đúng hơn. * Cách thứ hai Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường. Ngay cả khi doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ kế toán do nhà nước quy định thì số liệu trên bảng cân đối kế toán được lập vào một thời điểm nào đó cũng không phản ánh đúng giá trị thị trường của toàn bộ số tài sản trong doanh nghiệp vì các lí do sau: + Toàn bộ giá trị của các tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán là những số liệu được tập hợp từ các sổ kế toán,các bảng kê...các số liệu này phản ánh trung thực các chi phí phát sinh tại thời điểm xảy ra các nghiệp vụ kinh tế trong quá khứ của niên độ kế toán. Đó là những chi phí mang tính lịch sử,không phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả khi không có lạm phát. + Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nào,phụ thuộc vào thời điểm mà doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế cua TSCD. Vì vậy , giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giad thị trường tại thời điểm xác định giá trị kinh doanh + Trị giá hàng hóa, vật tư, công cụ lao động …tồn kho hoặc đang dùng trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào cach sử dụng già hoạch toán là giá mua dầu kỳ, cuối kỳ hay giá mua thực tế bình quân. Mặt khác, còn phụ thuộc vào sự lựa chọn các tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hóa dự trữ. Do vậy,số liệu kế toán phản ánh giá trị của loại tài sản đó cũng được coi là không có độ tin cậy ở thời diểm đánh giá doanh nghiệp. Đó là một lí do cơ bản, nhưng cũng đủ để giả thích: vì sao giá trị tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán chỉ được coi là tài liệu tham khảo trong quá trình đánh giá lại toàn bộ tài sản theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp Để xác định giá trị tài sản theo giá trị thị trường ,trước hết người ta loại khỏi danh mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá trị thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng loại tài sản cụ thể như sau: + Đối với TSCĐ và TSLĐ là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị trương hiện có bán những tài sản như vậy. Trong thực tế, thường không tồn tại thị trường TSCĐ cũ, đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau. Khi đó, người ta dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một TSCĐ mới. Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp dụng một hệ số quy đổi so với những TSCĐ khác loại nhưng có tính năng tương đương. + Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài sản.nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm đánh giá.vàng bạc, kim khí, đá quý,…cũng được tính toám như vậy. + Các khoản phải thu :do khả năng đòi nợ các khoản này ở nhiều mức độ khác nhau. Vì vậy, bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu nhằm loại ra những khoản mà doanh nghiệp không có khả năng đòi được hoặc khả năng đòi được là quá mong manh. + Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: về mặt nguyên tắc phải thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị với các dopanh nghiệp hiện dang sử dụng các khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để xác địnhb theo cách thứ nhất đã đề cập ở phần trên. + Đối với các tài sản cho thuê và quyền cho thuê BĐS: tính theo phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai. + Các tài sản vô hình: theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến các lợi thế của thương mại của doanh nghiệp. Sau cùng, giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của các tài sản đã được xác định trừ đi các khoản nợ phản ánh ở trên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng them của số tài sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. 2. XÁC ĐỊNH TÀI SẢN THUẦN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NAM VIỆT BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN HỢP NHẤT Ngày 30 tháng 06 năm 2011 Đơn vị tính : triệu đồng A.Tài sản 30/06/2011 I Tiền mặt, vàng bạc, đá quí 424.446 II Tiền gửi tại NHNN 567.440 III Tiền, vàng gửi tại các TCTD khác và cho vay các TCTD khác 5.065.560 IV Chứng khoán kinh doanh - V Các công cụ tài chính phái sinh và các tài sản tài chính khác - VI Cho vay khách hàng 12.650.390. 1 Cho vay khách hàng 12.777.660 2 Dự phòng rủi ro cho vay khách hàng (127.270) VII Chứng khoán đầu tư 1.867.000 VIII Góp vốn, đầu tư dài hạn 706.115 1 Đầu tư vào công ty con - 2 Đầu tư vào công ty liên kết - 3 Đầu tư dài hạn khác 706.115 4 Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn - IX Tài sản cố định 125.000 1 Tài sản cố định hữu hình 65.000 - Nguyên giá TSCĐ 105.660 - Hao mòn TSCĐ (40.660) 2 Tài sản cố định vô hình 60.000 - Nguyên giá TSCĐ 64.570 - Hao mòn TSCĐ (*) (4.570) X Bất động sản đầu tư - XI Tài khoản CÓ khác 1.912.130 1 Các khoản phải thu 1.469.175 2 Các khoản lãi, phí phải thu 355.235 3 Tài sản thuế TNDN hoãn lại - 4 Tài sản Có khác 87.720 Tổng tài sản 23.327.081 B. Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu 30/06/2011 I Các khoản nợ Chính phủ và NHNN 9.246 II Tiền gửi và vay các TCTD khác 4.264.895 1 Tiền gửi của các TCTD khác 4.264.895 2 Vay các TCTD khác - III Tiền gửi của khách hàng 12.535.000 IV Các công cụ tài chính phát sinh và các khoản nợ tài chính khác - V Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư, cho vay TCTD chịu rủi ro 292.170 VI Phát hành giấy tờ có giá 2.671.000 VII Các khoản nợ khác 379.900 1 Các khoản lãi, phí phải trả 210.745 2 Thuế TNDN hoãn lại phải trả - 3 Các khoản phải trả và công nợ khác 168.130 4 Dự phòng rủi ro khác (Dự phòng cho công nợ tiềm ẩn và cam kết ngoại bảng) 1.025 VIII Vốn và các quỹ 3.174.870 1 Vốn của TCTD 3.010.215 - Vốn điều lệ 3.010.215 2 Quỹ của TCTD 67.690 3 Chênh lệch tỷ giá hối đoái - 4 Chênh lệch đánh giá lại tài sản - 5 Lợi nhuận chưa phân phối/ lỗ lũy kế 96.965 - Lợi nhuận/ lỗ năm nay 95.930 - Lợi nhuận/ lỗ lũy kế năm trước 1.035 Tổng nguồn vốn 23.327.081 Việc đánh giá lại toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cho thấy có những thay đổi như sau : - Giá chứng khoán của công ty đang được đầu tư tại thời điểm đánh giá lãi 25% so với số tiền đã đầu tư. - Vàng tăng giá nên giá trị vàng bạc của công ty tăng 100 triệu - Cho vay khách hàng rơi vào tình trạng khó đòi , trong đó không đòi được là 30%. - TSCĐ hữu hình đánh giá lại theo giá thị trường tăng lên 150 triệu đồng. - Tài sản có khác được đánh giá lại tăng 50 triệu đồng . - Góp vốn đầu tư dài hạn bị rút vốn, số tiền rút vốn là 200 triệu đồng thêm 100 triệu đồng. - Nợ chính phủ tăng 100 triệu đồng. Dựa theo những thay đổi ở trên chúng ta có thể đánh giá lại giá trị của một số tài sản như sau: - Đối với chứng khoán đầu tư: giá trị đầu tư chứng khoán ở thời điểm hiện tại là: 1867000.1,25= 2 333 750 (triệu đồng) - Giá trị vàng của công ty tăng 100 triệu nên trị giá vàng bạc, tiền mặt, đá quý của công ty ở thời điểm hiện tại là: 424446 + 100= 424 546(triệu đồng). - Cho vay khách hàng hiện có 30% không đòi được nợ. Vậy số tiền cho vay khách hàng ở thời điểm hiện tại là: 12650390.(1- 0,3) = 8 855 273(triệu đồng) - Tài sản cố định hữu hình của công ty được đánh giá lại tăng 150 triệu đồng, nên giá trị TSCĐ hữu hình ở thời điểm hiện tại là: 65000 + 150 = 65 150 (triệu đồng) .- Góp vốn kinh doanh dài hạn bị rút vốn 200 triệu đồng, nên số vốn kinh doanh dài hạn ở thời điểm hiện tại là: 706115 – 200 = 705 915(triệu đồng). - Nợ chính phủ tăng 100 triệu đồng nên khoản nợ chính phủ của công ty ở thời điểm hiện tại là: 9246 + 100 = 9 346 (triệu đồng). - Tài sản khác được đánh giá lại tăng 50 triệu đồng, vậy số tài sản hiện có của công ty là; 1912130 + 50 = 1 912 180 (triệu đồng). Vậy tổng tài sản của doanh nghiệp sau khi đánh giá lại là: 424546 + 567440 + 5065560 + 8855273+ 2333750 + 705915 + 65150 + 125000 + 1912180 = 20 054 814 (triệu đồng). Tổng giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp sau khi đánh giá lại = tổng tài sản - các khoản nợ phải trả = tổng tài sản - nợ chính phủ - tiền gửi và vay các TCTD khác - tiền gửi của khách hàng - nợ khác = 20054814 – 9346 – 4264895 – 12535000 – 29217 – 2671000 – 379900 = 165 456 (triệu đồng) 3. ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP GIÁ TRỊ TÀI SẢN THUẦN Ưu điểm + Phương pháp giá trị tài sản thuần đã chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể cấu thành giá trị doanh nghiệp. Có thể nói, giá trị của các tài sản đó là một căn cứ cụ thể, có tính pháp lý rõ ràng nhất về khoản thu nhập mà người mua chắc chắn sẽ nhận được khi sở hữu doanh nghiệp. Nó nói lên rằng, số tiền mà người mua bỏ ra luôn luôn được đảm bảo bằng một số lượng tài sản có thật. + Phương pháp xác định giá trị tài sản thuần xác định giá trị thị trường của số tài sản có thể bán rời tại thời điểm định giá. Như vậy nó đã chỉ ra rằng có một khoản thu nhập tối thiểu mà người sở hữu sẽ nhận được. Đó cũng là một mức giá thấp nhất , là cơ sở đầu tiên để các bên có liên quan đưa ra trong quá trình giao dịchvà đàm phán về giá bán doanh nghiệp. + Đối với những doanh nghiệp nhỏ mà số lượng tài sản không nhiều, việc định giá tài sản không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp. Giá trị những yếu tố vô hình là không đáng kể, các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh không rõ ràng, thiếu căn cứ xác định các khoản thu nhập trong tương lai thì giá trị doanh nghiệp được xác định theo phương pháp giá trị tài sản thuần sẽ trở thành một tiêu chuẩn cơ bản và thích hợp nhất để các bên xích lại gần nhau trong quá trình đàm phán. Như vậy có thể nói rằng, mặc dù có những hạn chế rất lớn. Song, Với những cơ sở kinh tế rõ ràng, phương pháp xác định giá trị tài sản thuần đã xứng đáng trở thành một trong những phương pháp cơ bản trong hệ thống các phương pháp xác định giá trị của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. Những ưu điểm của phương pháp này cũng là lý do để giải thích tính khả thi cao và khả năng ứng dụng rộng rãi trong những doanh nghiệp nhỏ. Thậm chí đối với những doanh nghiệp lớn, ở các nước trên thế giới,khi cần phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp với nhau đểt tính số bình quân, thì giá trị doanh nghiệp tính theo phương pháp này cũng luôn được các nhà thực hành lựa chọn và đánh giá với trọng số cao nhất. 3.2 Nhược điểm + Theo phương pháp này người ta quan niệm doanh nghiệp như một tập hợp các loại tài sản vào với nhau. Việc bán doanh nghiệp cũng như việc bán các loại tài sản riêng rẽ. Phương pháp vận dụng cũng như kỹ thuật đánh giá tài sản thông thường: chi phí thay thế, so sánh thị trường. Giá trị doanh nghiệp chỉ đơn giản được tính bằng tổng giá thị trường của số tài sản trong doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Giá trị doanh nghiệp được cố định ở các tài sản. Điều đó có nghĩa là nó đánh giá doanh nghiệp trong một trạng thái tĩnh. Doanh nghiệp được coi như một thực thể, một tổ chức đang tồn tại và có thể hoàn chỉnh và phát triển trong tương lai. Vì vậy,mà nó không phù hợp với một tầm nhìn chiến lược về doanh nghiệp. Bởi động cơ của người mua doanh nghiệp là nhằm sở hữu các khoản thu nhập trong tương lai, chứ không để bán lại ngay những tài sản hiện thời. + Phương pháp giá trị tài sản thuần đã không cung cấp và xây dựng được những cơ sở thông t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBamp225o camp225o th7843o lu7853n tham dinh gia.doc
  • pptBamp224i th7843o Th7849m 2727883nh giamp225.ppt
Tài liệu liên quan