MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.2
NỘI DUNG TÌM HIỂU.2
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC VÀ QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT.2
I. Đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.2
II. Quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết được ghi nhận trong các văn bản pháp luật.4
III. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.7
IV. Chủ thể, đối tượng của quyền hiến xác sau khi chết.11
V. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.13
B. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VIỆT NAM CŨNG NHƯ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI.16
I. Thực tiễn việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết ở Việt Nam.16
1. Việc thực hiện quyền hiến xác còn khá hạn chế.16
2. Một số kiến nghị nên cho tử tù được quyền hiến xác nhưng vẫn còn rất nhiều tranh cãi và nhiều vấn đề đặt ra.18
II.Việc hiến xác của cá nhân sau khi chết ở một số quốc gia trên thế giới.19
C. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỐ LƯỢNG CÁ NHÂN HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TƯƠNG LAI.21
KẾT LUẬN.21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.23
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3273 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó hoặc người thân nhân của họ bằng văn bản và các y bác sĩ cũng phải tuân theo những trình tự thủ tục đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, ngày 21/11/2006 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI các đại biểu Quốc hội đã biểu quyết thông qua Dự thảo Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác bao gồm 6 chương 40 Điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Việc thông qua Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác đã mở ra cho ngành y tế nói chung và ngành phổ thuật ghép tạng của nước nhà nói riêng một cơ hội hết sức to lớn, tạo hành lang pháp luật đồng bộ không những thúc đẩy và phát triển hoạt động cấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người mà còn đưa lại nhiều cơ hội lớn cứu sống người bệnh đang bệnh hiểm nghèo cần phải ghép mô, bộ phận cơ thể người như gan, thận,... mà không phải ra nước ngoài điều trị. Như vậy, qua đây chúng ta cũng thấy được sự phát triển và nhanh nhạy cũng như trình độ của các nhà lập pháp của Việt Nam, cũng như sự quan tâm của nhà nước tới sức khỏe của nhân dân.
3. Thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết mang lại nhiều ý nghĩa vô cùng to lớn.
Việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết được ghi nhận trong các văn bản pháp luật có ý nghĩa vô cùng to lớn:
- Tạo hành lang pháp lý vững chắc cho pháp luật quốc gia để tạo sự bình đẳng nguồn tài nguyên chữa bệnh cứu người đang rất khan hiếm này cho những bệnh nhân đang đối mặt với sự sống và cái chết, mắc bệnh hiểm nghèo tăng thêm hi vọng và sự công bằng cho người nghèo bị bệnh nặng vẫn có niềm tin được cứu sống.
- Việc thừa nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể góp phần phổ biến đến nhiều người có mong muốn được hiến xác, bộ phận cơ thể nhưng chưa rõ những quy định của pháp luật qua đây có thể tạo niềm tin và khẳng định là quyền của mỗi cá nhân nên góp phần nâng sự hiểu biết của mỗi cá nhân nên góp phần tăng số lượng người hiến. Đó là một niềm khích lệ lớn lao cho những bệnh nhân chờ cơ hội sống, những người bệnh sẽ có niềm tin hy vọng rằng một lúc nào đó cơ hội sống sẽ đến và họ nên cố gắng để hy vọng.
- Đối với ban thân cá nhân sau khi hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết, qua việc thực hiện quyền này sẽ thể hiện được ý nguyện của người đó vì mục đích nhân đạo.
- Việc ghi nhận quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết chính là sự đảm bảo cho sự tự do ý chí, tự nguyện lựa chọn hành động của cá nhân trong việc hiến xác một vấn đề hiện còn đang hết sức nhạy cảm.
Ngoài ra, những cá nhân hiến tặng xác hoặc bộ phận cơ thể sẽ được nhà nước truy tặng huy chương cao quý cho đóng góp của họ đối với xã hội mặc dù họ hiến tặng không vì mục đích này mà đơn giản chỉ là vì muốn góp một phần nào đó cứu giúp những người đang nguy kịch một việc làm có ích cuối cùng của họ. Việc truy tặng của nhà nước góp phần động viên về mặt tinh thần đối với người hiến và người thân của họ
- Đối với nhà nước việc ghi nhận quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết chứng tỏ sự quan tâm của nhà nước đối với quyền và lợi ích của mỗi công dân, đảm bảo tính công bằng bình đẳng về sức khỏe của nhân dân. Góp phần hoàn thiện và nâng cao dịch vụ y tế và cũng khẳng định trình độ và sự nhanh nhạy của các nhà làm luật.
III. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.
Các nguyên tắc trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được quy định cụ thể tại Điều 4 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được quốc hội thông qua 21/11/2006 và có hiệu lực 1/7/2007: “ 1. Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép. 2. Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa hoc. 3. Không nhằm mục đích thương mại. 4. Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
1. Nguyên tắc “phi thương mại”.
- Nguyên tắc quan trọng hàng đầu việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết là nguyên tắc “phi thương mại” nghĩa là việc hiến bộ phận cơ thể chỉ nhằm mục đích duy nhất là mục đích nhân đạo, chữa bệnh cứu người, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học không nhằm mục đích lợi lợi nhuận. Việc hiến bộ phận cơ thể luôn phải được đặt ra như một sự kiểm soát đặc biệt của pháp luật đối với vấn đề có tính chất xã hội nhạy cảm này, nguy cơ các bộ phận cơ thể người trở thành hàng hóa giao dịch trên thị trường đang hiện hữu ngày càng nhiều.
- Nếu như pháp luật một số nước thừa nhận việc mua bán bộ phận cơ thể người nhưng Việt Nam thì hoàn toàn nghiêm cấm việc thương mại hóa các bộ phận cơ thể người xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
+ “Bộ phận cơ thể người” là những bộ phận tạo nên con người hoàn chỉnh cấu thành sự sống gắn liền với sự tồn tại và phát triển bình thường của con người không phải là hàng hóa đem ra mua bán trao đổi.
+ Việc hiến xác, bộ phận cơ thể là một nghĩa cử vô cùng cao đẹp mang lại niềm hi vọng sống, sự hồi sinh vào cuộc sống mới cho người khác.
+ Hơn nữa còn ngăn chặn nếu hoạt động “bán” bộ phận cơ thể được thừa nhận sẽ dẫn đến một tình trạng tiêu cực rất nguy hiểm cho xã hội- những khoản lợi nhuận từ hoạt động mua bán có thể làm cho những kẻ chuyên kinh doanh bộ phận cơ thể người có thể sẵn sàng ép buộc, làm tổn thương người khác thậm chí không từ một thủ đoạn nào để giết người để lấy bộ phận cơ thể họ.
Như vậy, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể không những không được đảm bảo mà quyền con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Do vậy, việc pháp luật ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể phải định ra một giới hạn, giới hạn về mục đích của việc hiến bộ phận cơ thể tránh tình trạng một người vì hoàn cảnh quá túng thiếu mà chấp nhận việc bán một bộ phận cơ thể lúc đó pháp luật cũng không cho phép, và giao dịch đó sẽ vô hiệu.
- Việc thực hiện tốt nguyên tắc “phi thương mại” cũng là một biện pháp để đảm bảo quyền con người và tạo sự bình đẳng gữa người nghèo và người giàu, bệnh nhân giàu và bệnh nhân nghèo sẽ có cơ hội được cứu sống bằng biện pháp cấy ghép bộ phận cơ thể là như nhau.
2. Nguyên tắc hiến bộ phận cơ thể vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.
Thực chất đây là sự cụ thể hóa của nguyên tắc “phi thương mại”, việc hiến xác, bộ phận cơ thể không vì một mục đích nào khác ngoài mục đích chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học trong đó mục dích chữa bệnh là quan trọng nhất vì nhu cầu lấy bộ phận cơ thể để chữa bệnh cứu người rất lớn. Việc đặt ra nguyên tắc này nhằm đề cao giá trị cao quý của con người, sự sống của con người là đáng quý quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, con người là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật. Một trong những biện pháp để đảm bảo quyền sống cho con người chính là việc tạo điều kiện cả về mặt khoa học kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y học có thể cứu sống được nhiều bệnh nhân hiểm nghèo những người đang phải đối mặt với cái chết đang cận kề. Bên cạnh đó việc hiến xác, bộ phận cơ thể còn phục vụ cho việc giảng dạy nghiên cứu khoa học, thí nghiệm để nghiên cứu tìm ra những giải pháp mới để chữa bệnh hiệu quả hơn tất cả cũng vì sức khỏe của nhân loại trong hiện tại lẫn trong tương lai.
3. Nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện.
- Việc cá nhân hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là quyền của mỗi cá nhân, không phải là nghĩa vụ không ai có quyền hoặc cản trở người khác thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là mang tính “tự nguyện” tức là phải có sự thống nhất giữa ý chí bên trong của cá nhân và sự bày tỏ được ý chí bên ngoài hơn nữa vấn đề hiến xác hiện còn là một vấn đề rất nhạy cảm nên một cá nhân khi thực hiện việc hiến xác của mình sau khi chết phải được thể hiện một cách rõ ràng bằng văn bản chứ không chỉ bằng lời nói như một số giao dịch dân sự thông thường để tránh một số vấn đề đảm bảo tính minh bạch.
- Điều kiện để một cá nhân có thể thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể: Người có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt, không bị ép buộc về mặt tinh thần khi thể hiện ý chí hiến của mình cho người khác mà mục đích hiến đã được xác định rõ ràng (Theo luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác là một cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực dân sự đầy đủ) thì đều có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến xác, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y tế. Người đã đăng ký hiến xác, bộ phận cơ thể có quyền thay đổi hoặc hủy bỏ đơn đăng ký. Ngoài ra, cơ sở y tế chỉ được lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống đã đăng ký hiến. Trong trường hợp cấp cứu mà cần phải cấy ghép mô hoặc cần cấy ghép mô hoặc cần cho ghép mô cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột thì được phép lấy mô của người chưa đăng ký hiến nếu có sự đồng ý của người đó. Ví dụ như trong một gia đình có một gia đình có một đứa con mắc bệnh gan cần phải ghép gan nếu không kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng mà trong gia đình thì người cha lại có gan phù hợp để ghép cho người con nên trong trường hợp này nếu người cha đồng ý và có đủ điều kiện sức khỏe để hiến gan thì có thể hiến gan cho con.
Ngoài ra, nếu như ở Việt Nam quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết mới được ghi nhận trong BLDS năm 2005 và chỉ áp dụng nguyên tắc “tự nguyện” do xuất phát từ đặc điểm tâm lý, văn hóa, phong tục tập quán của người Việt rất coi trọng sự toàn vẹn của cơ thể của thi hài người quá cố thì pháp luật một số nước lại thừa nhận nguyên tắc “suy đoán ý chí” (presumed consent) cho phép lấy mô và bộ phận cơ thể người chết trừ khi người đó đã thể hiện rõ ràng sự phản đối khi họ còn sống nguyên tắc này áp dụng ở mức độ khác nhau: một là áp dụng ở mức độ “cứng” theo đó không cho phép gia đình của người chết can thiệp vào quá trình lấy bộ phận cơ thể, hai là ở mức độ “mềm”, theo đó việc lấy bộ phận cơ thể người chết phải được sự đồng ý của gia đình người đó, ba là áp dung ở mức độ “triệt để”, theo đó một cá nhân phải đăng ký tại tòa án về việc mình không muốn hiến bộ phận cơ thể sau khi chết và đó là cách duy nhất để người đó không bị lấy bộ phận cơ thể khi chết. Quốc gia đầu tiên áp dụng nguyên tắc này là Singapore và sau đó là một số nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Áo, Bỉ,...bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ trước, trước đây vào thập niên 60, 70 của thế kỷ trước thì hầu hết các nước đều áp dụng nguyên tắc “tự nguyện hiến” nhưng việc áp dụng như vậy thì số lượng bộ phận cơ thể hiến tự nguyện rất ít không đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh. Việc áp dụng nguyên tắc “suy đoán ý chí” đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia thì trong tương lai Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc “suy đoán ý chí” một cách phù hợp nhằm tăng ngồn thu cung cấp bộ phận cơ thể phục vụ cho sự nghiệp chữa bệnh cứu người của ngành y tế nước nhà.
IV. Chủ thể, đối tượng của quyền hiến xác sau khi chết.
1. Chủ thể của quyền hiến xác sau khi chết.
Cũng giống như chủ thể của các quyền nhân thân khác, chủ thể của quyền hiến xác sau khi chết cũng là cá nhân. Căn cứ vào Điều 34 BLDS năm 2005: “Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học…”. Như vậy, đối với quyền hiến xác pháp luật không có bất kỳ một sự phân biệt nào đối với các chủ thể có nghĩa là xét về mặt năng lực pháp luật, mọi cá nhân đều có quyền hiến xác sau khi chết và quyền này được pháp luật tôn trọng bảo vệ và đảm bảo sự bình đẳng cho các cá nhân thực hiện quyền này. Thậm chí một số cá nhân có bị pháp luật tước một số quyền công dân vì những lý do khác nhau thì quyền hiến xác của cá nhân vẫn được pháp luật thừa nhận tôn trọng và bảo vệ.
Quyền hiến xác sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi. tại Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác (2006) có quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác.” Bởi vì quyết định hiến xác sau khi chết là một quyết định quan trọng có ảnh hưởng lớn tới bản thân người hiến cũng như đối với xã hội, nên pháp luật đòi hỏi người hiến phải là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự, nhằm đảm bảo nguyên tắc tự nguyện của việc hiến xác. Quyền hiến xác thuộc vào nhóm quyền nhân thân nên phải do cá nhân tự mình tham gia xác lập và thực hiện. Quyền này không thể thông qua người đại diện cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự vì những người này chưa nhận thức được rõ và sự nhạy cảm của vấn đề này. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự chỉ được thay mặt thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản còn các quan hệ nhân thân vẫn phải do chủ thể đó tự quyết định thực hiện.
Nhưng khi một người đã chết việc hiến xác theo Điều 22 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác (2006) thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó.
Tuy nhiên, còn một vấn đề cần phải nêu ra nữa là về độ tuổi của người hiến xác sau khi chết theo điểm b,c khoản 2 Điều 22 của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác (2006) quy định: “…b, Trường hợp người chết không có thẻ đăng ký hiến xác thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó. c, Người chết không xác định được nơi cư trú cuối cùng và có giấy chứng tử do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó chết cấp” thì vệc quy định độ tuổi là không cấn thiết nếu được gia đình người giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý bởi:
+ Thứ nhất, Luật hiện hành cho phép cơ sở y tế có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể từ người chết trong trường hợp người đó không có thẻ đăng ký sau khi chết, nhưng gia đình, cụ thể là người thân thích theo quy định của pháp luật của họ có đơn muốn hiến.
+ Thứ hai, trường hợp người đó hiến khi còn sống thì điều kiện về năng lực chủ thể tức là vấn đề khả năng nhận thức hành vi của mình là chưa đầy đủ thì vấn đề quy định quyền hiến xác còn đặt ra, nhưng trong trương hợp người đó đã chết thì trên cơ sở pháp luật quy định phải được sự đòng ý của gia đình của cá nhân đó thì vấn đề đặt ra độ tuổi đối với người hiến liệu có còn cần thiết nữa không.
2. Đối tượng của quyền hiến xác.
Đối tượng của quyền hiến xác là cả xác, là các bộ phận trên cơ thể của người hiến. Cả thể xác bao gồm các bộ phận cấu tạo nên một chỉnh thể con người như chân, tay, tim, gan,…Dưới góc độ sinh học cơ bản tất cả những gì thuộc về cơ thể con người, cấu tạo nên cơ thể con người được gọi là “bộ phận cơ thể”. Nên việc hiến xác được hiểu là hiến tất cả các bộ phận của cơ thể của cá nhân sau khi chết.
V. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.
1. Kinh tế, xã hội.
Kinh tế xã hội ngày càng phát triển nên việc học tập nghiên cứu khoa học của các y bác sĩ được nâng cao và có điều kiện tiếp cận với nền khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới, các trang thiết bị kỹ thuật trong việc nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực khám chữa bệnh cũng được cải thiện và nâng cao nên việc cấy ghép mô, thay đổi các bộ phận trong cơ thể khi nó không còn hoạt động bình thường nữa đang ngày càng được thực hiện rộng rãi. Mặt khác kinh tế xã hội phát triển nên các dịch vụ bảo hiểm chế độ phúc lợi xã hội ngày càng được cải thiện hơn nữa còn có nhiều quỹ từ thiện, quỹ tài trợ để hỗ trợ bệnh nhân nghèo có điều kiện khám chữa bệnh. Đồng thời kinh tế xã hội phát triển thì trình độ nhận thức và suy nghĩ của nhiều cá nhân thoáng hơn, pháp luật cũng ghi nhận quyền hiến xác của cá nhân được phổ biến rộng rãi nên ngày càng nhiều cá nhân đang ký hiến xác tăng thêm nguồn cung cấp cho y học và phục vụ công tác nghiên cứu của các y bác sĩ. Điều này đảm bảo cho việc nhiều bệnh nhân sẽ có cơ hội và hy vọng sống hơn có khả năng thành công cao hơn.
2. Phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo văn hóa truyền thống ảnh hưởng tới việc hiến xác của cá nhân sau khi chết.
Đạo lý truyền thống của người Việt Nam quan niệm “nghĩa tử là nghĩa tận”. bao nhiêu hờn oán đều xóa bỏ khi đối tượng đã chết, vì chết là dứt nợ trần gian, quan niệm nhân văn khác là “sống ở, thác về”, xem cuộc sống trên mặt đất chỉ là cõi tạm bợ, chết không phải là hết. Tín ngưỡng dân gian tin vào linh hồn, người chết rồi thì linh hồn sẽ sống ở cõi âm, cũng sinh hoạt như ở dương thế, do đó có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, đầy tớ, tiền,…để viện trợ cho người chết. Một quan niệm nữa là “người chết cần được mồ yên mả đẹp”, việc “động mồ động mả” có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của con cháu. Nên việc hiến xác sau khi chết người ta cho rằng người chết sẽ không được yên nghỉ và khi sang thế giới bên kia thì thân thể không thể tòa vẹn và sẽ là điều bất hạnh đau khổ đối với gia đình người chết.
Người Việt Nam chủ yếu là theo đạo phật nên quan niệm về “cái chết” của Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ của mọi người. Theo giáo lý của đạo phật thì sự chết được hiểu như sự chấm dứt khả năng sống của một hình thái hiện hữu, chỉ là sự gián đoạn tạm thời của một hình thái. Nó không phải là sự tiêu diệt toàn bộ một cá nhân, đúng hơn nó là biểu hiện của một sự chuyển đổi sang một sự hiện hữu khác. Chỉ riêng các cơ quan năng ngưng vận hành, chứ năng lực, sự khao khát được hiện hữu nằm trong nghiệp lực vẫn tiếp tục thể hiện dưới một hình thái khác của sự sống. Và chỉ khi thần thức rời khỏ thể xác mới được gọi là chết, chứ không phải lúc tắt thở, và người ta tin rằng chính lúc tử vong lâm sàng và thời gian sau đó, trươc khi thần thức thoát đi là thời điểm then chốt quyết định sự tái sinh hoặc đầu thai của người đó do vậy người ta quan niệm là tốt nhất sau khi chết không được đụng dao kéo cắt sẻ thi hài trong vòng ba ngày sau khi chết lâm sàng nếu không nó sẽ gây ra sự rối loại cho tiến trình tái sinh và khi sang thế giới bên kia người đó sẽ đau đớn và không siêu thoát được. Theo pháp Hộ Niệm, người vừa tắt hơi, bị đụng chạm vào thân xác quá sớm là điều tối kỵ, có thể khiến họ bị đọa lạc xuống các cảnh giới vô cùng xấu trong ba đường ác . Đụng chạm sẽ làm cho họ đau đớn không chịu không nổi, chắc chắn sẽ làm cho thần thức người rối loạn, hãi kinh, bức xúc, tức giận... toàn là những nhân chủng rất xấu cho đời kiếp tương lai của họ. Nhưng theo y học thì việc cấy ghép bộ phận cơ thể phải tiến hành ngay sau khi người hiến tặng trút hơi thở cuối cùng nếu không kịp thời thì việc cấy ghép không hiệu quả. Nên vấn đề hiến xác sau khi chết vẫn còn gặp nhiều rào cản do quan niệm của Phật giáo.
3.Vấn đề nhận thức của mỗi người.
Vấn đề nhận thức và sự hiểu biết nhất định của mỗi cá nhân sẽ là yếu tố quyết định tất cả đối với việc hiến xác của mỗi cá nhân sau khi chết. Việc kinh tế, xã hội phát triển hiện đại hóa đi theo đó là cơ hội được học tập được mở mang nên nhận thức của mọi người càng cao và suy nghĩ thoáng hơn về vấn đề hiến xác sau khi chết. Đồng thời việc quy định về quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết được pháp luật ghi nhận và trên các phương tiện thông tin đại chúng báo, đài,... có nói nhiều về vấn đề này và những lợi ích mà nó mang lại nhiều hơn là những quan niệm tôn giáo mơ hồ chưa được chứng thực. Do vậy khi con người có những hiểu biết nhất định và ý nghĩa nhân đạo của vấn đề hiến xác sau khi chết thì những ảnh hưởng của phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo sẽ không còn thực sự lớn nữa và họ sẽ tích cực thực hiện quyền này để cứu sống người khác và phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học.
4. Sự ngăn cản từ phía người thân, gia đình của người hiến xác.
Ở Việt Nam, hiến xác là một vấn đề còn khá nhạy cảm và vẫn còn khá mới mẻ đối với chúng ta lại thêm nhiều rào cản từ phong tục tập quán,…nên việc quyết định hiến xác sau khi chết là một điều rất khó khăn nhưng khi quyết định được rồi lại có một rào cản rất lớn từ phía gia đình người thân của họ như một trường hợp thực tế đó là ông Quỳnh, một trong những người gửi đơn tình nguyện hiến xác hiện đang sống tại Hà Nội lo lắng nhất về điều đó sau khi qua đời.Trong khi tất cả 5 người con của vẫn hoàn toàn không biết gì về thông tin này. Ông không muốn cho họ biết cũng bởi ông hiểu rằng chẳng có ai chấp nhận ngay quyết định của ông” ngay cả chính người hiến cũng phải giấu người thân của mình vì sợ phản đối thì chúng ta phải hình dung ra thái độ gay gắt của người thân họ như thế nào khi họ chết. Việc mất đi người thân là một điều hết sức đau lòng một sự mất mát quá lớn nên khi người thân ra đi nên theo quan niệm họ không muốn người thân của mình chịu bất kỳ một sự đau đớn nào giày vò nào về thể xác nữa ngay khi người chết để lại di chúc là tâm nguyện cuối cùng của người chết. Do vậy, trong trường hợp này các y bác sĩ cũng không thể tiến hành việc lấy xác, bộ phận cơ thể của người chết được.
B. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VIỆT NAM CŨNG NHƯ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI.
I. Thực tiễn việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết ở Việt Nam.
Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể đã được pháp luật dân sự năm 2005 ghi nhận và sự ra đời của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (2006) đến nay tuy thời gian cũng không quá dài nhưng cũng không qua ngắn trong việc thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể,…trong thực tiễn. Trên thực tế, việc thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết của cá nhân vẫn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại cần khắc phục.
Việc thực hiện quyền hiến xác còn khá hạn chế.
Từ khi quyền hiến xác sau khi chết của cá nhân được ghi nhận nhưng số người hiến xác sau khi chết còn rất ít trong khi đó việc nghiên cứu học tập của y khoa và số bệnh nhân chờ được ghép các bộ phận cơ thể còn đang rất nhiều mà ngân tạng, mô, các bộ phận cơ thể,…còn đang rất khan hiếm. Tại Việt Nam nhu cầu ghép tạng là rất lớn, nhất là ghép thận và ghép gan, nhưng y học không đáp ứng được chủ yếu vì thiếu nguồn tạng.
Theo số liệu Bộ Y tế công bố năm 2007: Số lượng bệnh nhân viêm thận mãn cần ghép thận là 6000 và bệnh nhân có chỉ định ghép gan là 1500. Một nghiên cứu khác cho thấy mỗi năm ở nước ta có 100 người bệnh suy thận giai đoạn cuối mới phát hiện trên 1 triệu dân. Như vậy ước tính trên toàn quốc hàng năm có khoảng trên 8000 người bệnh mới, trong khi các kỹ thuật điều trị thay thế thận (chủ yếu là sử dụng kỹ thuật lọc máu) chỉ đáp ứng được 10% số bệnh nhân trên. Nói cách khác, nhu cầu cần ghép thận mỗi năm là gần 8000 trường hợp! Trong khi đó chúng ta mới chỉ có gần 300 ca ghép thận trong 18 năm qua tại Việt Nam. Số lượng bệnh nhân được ghép gan còn ít hơn, gần 20 bệnh nhân. Nhu cầu ghép thận và gan ở nước ta là rất lớn nhưng số lượng bệnh nhân được ghép lại quá ít không phải do chúng ta không có khả năng ghép tạng. Những báo cáo khoa học của Bệnh viện Việt Đức, Học viện Quân Y, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Nhi Đồng… cho thấy đội ngũ thầy thuốc Việt Nam đã và đang thực hiện rất tốt những ca ghép gan và thận. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của chúng ta là không có đủ người hiến tạng. Tất cả những trường hợp bệnh nhân Việt Nam được ghép tạng (tại Việt Nam hay tại nước ngoài) chủ yếu được lấy tạng ở ngư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn- Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.doc