MỤC LỤC
A – ĐẶT VẤN ĐỀ
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I – CƠ SỞ CỦA VIỆC HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT.
1. Cơ sở lý luận.
2. Cơ sở thực tiễn
II – NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN HIẾN XÁC
CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT
1. Yếu tố kinh tế và xã hội.
2. Yếu tố tôn giáo và tâm lý.
3. Yếu tố văn hóa truyền thống.
4. Yếu tố trình độ dân trí.
III – QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Khái niệm, đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết
a. Khái niệm.
b. Đặ điểm.
2. Các nguyên tắc trong vấn đề hiến xác của cá nhân sau khi chết
3. Điều kiện hiến xác của cá nhân sau khi chết.
a. Điều kiện về chủ thể
b. Điều kiện về sức khỏe
c. Điều kiện về trình tự và thủ tục
d. Được pháp luật bảo đảm đúng mục đích của người hiến
IV – THỰC TRẠNG VỀ VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN HIẾN XÁC CỦA
CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
1. Thực trạng
2. Một số kiến nghị
C – KẾT THÚC VẤN ĐỀ
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3729 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đem lại lợi ích cho người khác, lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích mà chủ thể quyền đạt được chủ yếu là lợi ích tinh thần, là niềm vui khi cứu sống được người khác đang mắc bệnh hiểm nghèo, đặc biệt khi người bệnh lại là người thân thích, ruột thịt của mình; hoặc niềm vui khi thấy mình cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Lợi ích của chủ thể quyền thực sự rất khiêm tốn so với lợi ích to lớn mà xã hội nhận được từ việc người đó thực hiện quyền của mình. Rõ ràng, mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự quyết định đối với thân thể của mình, không ai có quyền can thiệp hay ngăn cản. Khi một cá nhân đã có nguyện vọng hiến xác mình để chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học, thì những người khác, kể cả những người thân thích, ruột thịt cũng không được cản trở. Thông thường, việc hiến xác không chỉ là một quyết định khó khăn đối với người hiến mà còn có thể tác động lớn về mặt tinh thần đối với gia đình, với những người thân thích của người đó, bởi không ai muốn bản thân mình và những người thân yêu của mình khi chết đi có một cơ thể không toàn vẹn. Vì vậy, việc ghi nhận “quyền” hiến xác chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn hành động của các cá nhân trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. Tuy nhiên, dù cho mỗi cá nhân có quyền tự quyết định, tự định đoạt đối với thân thể của mình, nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật
2. Các nguyên tắc trong vấn đề hiến xác của cá nhân sau khi chết
Với mục tiêu cao nhất là bảo vệ con người, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để ngành y tế Việt Nam triển khai các hoạt động cấy, ghép, thay thế, trị liệu của mình, đảm bảo nhu cầu bảo vệ sức khỏe cho nhân dân trên cơ sở tôn trọng những giá trị tốt đẹp và nhân bản vốn có của y học, pháp luật các nước trên thế giới đã cho ra đời bộ nguyên tắc về hiến xác sau khi chết.
Pháp luật mỗi nước khác nhau thì bộ nguyên tắc này có những cách thể hiện rất khác nhau nhưng nội dung mấu chốt vẫn xoay quanh các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, chúng được ghi nhận tại Điều 4 Luật Hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác 2006, cụ thể :
Tự nguyện
Hiến xác là quyền cơ bản của mỗi cá nhân không phải là nghĩa vụ, không ai có quyền ép buộc hoặc cản trở người hiến thực hiện quyền này. “Tự nguyện” được hiểu là phải có sự thống nhất giữa ý chí bên trong của cá nhân và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài. Vì vậy, muốn chứng tỏ người hiến xác là tự nguyện, người đó phải bày tỏ ý chí của mình cho mọi người xung quanh được biết. Do ý nghĩa và tính chất quan trọng của việc hiến bộ phận cơ thể, ý chí của người hiến phải được thể hiện một cách rõ ràng bằng văn bản, chứ không chỉ bằng lời nói như một số giao dịch dân sự thông thường
Tự nguyện luôn là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên trong pháp luật của tất cả các nước, được đòi hỏi như là điều kiện cần cho hoạt động hiến xác. Trong hoạt động này nhất thiết phải có sự đồng ý của chủ thể hiến, không thể đề cập đến nguyên tắc nào khác nếu không nhắc đến sự tự nguyên. Tự nguyện ở đây không phải là tự nguyện hoàn toàn, có nghĩa quyết định hiến của cá nhân phải được đưa ra trong trạng thái bình thường, minh mẫn, sáng suốt trên cơ sở họ được thông tin. Nguyên tắc tự nguyện cho phép chủ thể có quyền thay đổi, hủy bỏ việc hiến bất cứ thời điểm nào họ muốn mà không cần đưa ra lý do hay sự giải thích.Ngoài ra, việc sử dụng xác hiến khác với mục đích đã xác định ban đầu của người hiến thì phải có sự đồng ý của người đó. Ở đây, mọi lựa chọn của người hiến đều được tôn trọng; không một cá nhân, tổ chức nào có thể can thiệp vào sự định đoạt ấy của họ.
b) Mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học Bởi CON NGƯỜI là giá trị cao quý nhất, là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật, tất cả là vì con người và cho con người, trong đó, quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là cơ sở để thực hiện các quyền con người khác. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền sống cho con người chính là tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y học có thể cứu sống được ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy, mục đích chữa bệnh của việc hiến bộ phận cơ thể người cần được đặt lên hàng đầu
Trên cơ sở bảo vệ nhân phẩm con người chống lại mọi hình thức sử dụng thân thể như một phương tiện nhằm thỏa mãn bất kỳ một mục đích nào, pháp luật luôn đặt con người ở vị trí chủ thể, phân biệt rõ ràng con người với những vật thể khác. Vì thế, bằng cách này hay cách khác “thủ thuật y học chỉ hợp pháp nếu thủ thuật đó tôn trọng một số điều kiện có bản chất là giữ gìn và bảo vệ con người”, theo cách đó cơ thể con người không thể bị xâm hại.
Pháp luật yêu cầu phải có sự đồng ý của chủ thể để có thể tiến hành một sự xâm hại đến cơ thể người đó nhưng chỉ là điều kiện cần, có tính tiên quyết nhưng chưa đủ. Người ta không thể xâm hại đến cơ thể một người chỉ với sự cho phép của chính họ, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học phục vụ cộng đồng và toàn bộ hoạt động này đều phải tiến hành trên tinh thần phi lợi nhuận.Nguyên tắc hiến vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học đòi hỏi hoạt động hiến xác mục đích hiến luôn phải xác định trước và rõ ràng, không thể khác mục đích đó. Mọi hoạt động hiến xác ngoài mục đích trên đều bị coi là vi phạm pháp luật. Đây là sự cụ thể hóa Điều 34 BLDS 2005, một biểu hiện cao đẹp của lòng nhân ái, tinh thần giác ngộ khoa học, khẳng định tính nhân bản vì con người của cộng đồng. Trong đó, mục đích chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học rất rõ nét nhưng mục đích nhân đạo mà luật đề cập tương đối không rõ ràng vì khả năng này quá rộng, hiểu chung nhất là vì lợi ích cộng động nên khó hình dung và có thể gây tranh cãi.
c) Không nhằm mục đích thương mại( phi thương mại)
Nguyên tắc này được áp dụng với tư cách là điều kiện đủ trong hoạt động hiến xác sau khi chết. Và vì thế nó trở thành nguyên tắc quan trọng, bao trùm lên toàn bộ hệ thống các quy định của pháp luật về vấn đề hiến xác sau khi chết.
Ta đã biết nguy cơ xác người trở thành hàng hoá giao dịch trên thị trường đang hiện hữu ngày càng rõ nét. Pháp luật một số nước thừa nhận việc mua bán BPCT người, nhưng quan điểm của Việt Nam là không chấp nhận thương mại hoá các BPCT người. Nguyên tắc không nhằm mục đích thương mại xuất phát từ đối tượng đặc biệt của quyền hiến xác là xác, BPCT người, đây là những bộ phận tạo nên một con người hoàn chỉnh, gắn liền với sự tồn tại và phát triển bình thường của con người, không thể là vật đem ra mua bán, trao đổi. Hơn nữa, hiến tặng xác người là nghĩa cử vô cùng cao đẹp – ban tặng niềm hy vọng vào sự hồi sinh, vào cuộc sống mới cho người khác. Điều quan trọng hơn, một khi hoạt động “bán” xác cùng với BPCT được thừa nhận sẽ dẫn đến tình trạng hết sức nguy hiểm – những khoản lợi nhuận từ hoạt động mua bán này có thể làm cho những kẻ chuyên kinh doanh BPCT người sẵn sàng ép buộc, làm tổn thương người khác, thậm chí giết người để lấy xác họ.
Vì những lý do nêu trên, pháp luật khi ghi nhận quyền hiến xác phải định ra một giới hạn, đó chính là giới hạn về mục đích của việc hiến xác. Nguyên tắc này bao gồm hai nội dung chính:
Không trả tiền cho việc hiến xác. Theo nội dung này, không có việc đền bù tài chính trực tiếp cho người hiến; họ không có quyền đòi hỏi bất kỳ hình thức nào từ hành vi hiến của mình. Người nhận cấy, ghép, sử dụng giảng dạy, nghiên cứu cũng không phải trả bất cứ khoản nào do việc được xác người. Đối với bác sỹ thực hiện kỹ thuật lấy cũng không được trả thêm tiền vì tiến hành phẫu thuật. Đây phải được coi là một nhiệm vụ của bác sĩ hưởng lương tại cơ sở y tế.
Cấm quảng cáo cho một người hay cho một tổ chức cụ thể. Nội dung này đòi hỏi hoạt động cung cấp thông tin, giới thiệu, môi giới về nhu cầu hiến, nhận xác người cho một người, một tổ chức cụ thể mang tính thương mại đều bị cấm.Tuy nhiên, trong hoạt động này do tính nhạy cảm đặc biệt nên thông tin tuyên truyền là hết sức quan trọng, chính nó quyết định sự thành công hoặc thất bại của chúng ta. Sẽ không thể xây dựng được chương trình hiến xác thành công nếu không thực hiện các hoạt động thông tin, tuyên truyền rộng rãi đối với nhân dân. Như vậy nếu việc thông tin, tuyên truyền không được kiểm soát chặt chẽ rất dễ dẫn đến hiện tượng lách luật, biến tướng thành quảng cáo, môi giới thương mại. Để có thể làm tốt công tác vận động, tuyên truyền, ngăn chặn được những biến tướng quảng cáo thương mại xác người ta cần phải có một chương trình, một kế hoạch thông tin, tuyên truyền, nằm trong chính sách chung của ngành y tế. Các biến tướng thương mại rất tinh vi nên mọi hoạt động cũng như nội dung của các chiến dịch tuyên truyền nội dung phải được Bộ Y tế cho phép.
d) Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hay pháp luật có quy định khác Đây là một trong những biện pháp nhằm đảm bảo trật tự các quan hệ xã hội, ngăn chặn hiện tượng thương mại hóa xác người đồng thời bảo vệ người hiến, nhận về mặt riêng tư cá nhân. Nguyên tắc này rất quan trọng, nó cho phép tránh mọi áp lực không cần thiết về tinh thần cũng như vật chất từ phía người hiến, nhận và gia đình họ với nhau. Qua đó ngăn chặn khả năng thương mại hóa do quan hệ trực tiếp giữa các đối tượng này.
Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu: mọi thông tin về người hiến, nhận đều phải được mã hóa và bảo mật, người hiến không được biết căn cước người nhận và ngược lại, cấm tiết lộ bất cứ thông tin nào cho phép xác định người hiến, nhận. Bảo mật thông tin là những nhiệm vụ bắt buộc của các nhân viên hoạt động trong mạng lưới hiến tặng. Ngoài bốn nguyên tắc cơ bản trên đây, tuy không được luật Việt Nam trực tiếp quy định nhưng trên tinh thần của Luật, khi tiếp cận vấn đề hiến xác người sau khi chết cần phải tuyệt đối tôn trọng:
e) Tôn trọng cơ thể con người:
Tôn trọng cơ thể con người (hay không công cụ hóa cơ thể người) là những nguyên tắc cội rễ của cả bốn nguyên tắc trên. Tuy nhiên không phải vì thế mà ta không đề cập đến nguyên tắc này nữa. Bởi nguyên tắc tôn trọng cơ thể con người vô cùng quan trọng, có sức bao quát tất cả các trường hợp có thể phát sinh trong đời sống dân sự liên quan đến công nghệ y sinh học vốn rất đa dạng và vô cùng nhạy cảm, phức tạp. Chính vì thế mà nó có tác động định hướng tương lai, tìm kiếm sự đồng thuận giữa các quan điểm khác nhau và có giá trị tuyên truyền trong cộng đồng.
Con người là trung tâm của mọi hoạt động xã hội. Yếu tố con người luôn được nhấn mạnh, tô đậm, đặt lên hàng đầu. Quyền đầu tiên, cơ bản nhất của con người là quyền sống, tức là cơ thể của họ phải được tôn trọng, “pháp luật bảo đảm vị trí tối cao của con người, nghiêm cấm mọi hành vi xúc phạm đến nhân phẩm và bảo đảm cho con người được tôn trọng ngay từ khi mới bắt đầu sự sống” (Điều 16 Luật dân sự Pháp). Sự tôn trọng cơ thể con người tạo nên tính bất khả xâm phạm của nó: mỗi cá nhân có quyền được toàn vẹn về thân thể, được bảo vệ, chống lại mọi sự xâm phạm của người khác, ngay cả khi đã chết. Điều này đòi hỏi trách nhiệm của các cơ sở y tế phải khôi phục về mặt thẩm mĩ thi thể sau khi lấy xác người đó hay khi không còn nhu cầu sử dụng cho mục đích nghiên cứu, giảng dạy thì xác của người được tiến hành hủy, thi thể được mai táng, tất cả đều phải được thực hiện với sự trang trọng, kính cẩn.
g) Quyền được thông tin của người hiến
Được thông tin là quyền cơ bản và quan trọng của cả người hiến, nhận. Nó xuất phát từ quyền được tôn trọng của người bệnh đã được áp dụng từ lâu trong ngành y tế. Đây là nội dung quyền không thể thiếu cũng là quyền đầu tiên của họ. Bởi như đã phân tích, sự đồng ý của người hiến phải trên cơ sở được thông tin đầy đủ, rõ ràng, không thể có sự che giấu nào của bác sĩ hay sự nhầm lẫn nào của người hiến, cho phép họ có sự cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa ra quyết định. Vì vậy các văn bản khuyến nghị quốc tế đều đề quyền này thành nguyên tắc.
Việt Nam không quy định đây là nguyên tắc hay một quyền cụ thể trong các văn bản pháp luật mà chỉ thể hiện nội dung quyền này trong rải rác các quy định về thủ tục hiến với tư cách trách nhiệm tư vấn các thông tin một cách chung chung của cơ sở y tế trong hệ thống hiến xác người. Thông tin được cung cấp ở đây phải đáp ứng hai thuộc tính đúng và đủ.
Nội dung thông tin thuộc quyền của người hiến không phải là những thông tin cho phép xác định danh tính người nhận nên không trái với nguyên tắc bảo mật thông tin. Nguyên tắc quyền được thông tin chính là thể hiện sự thận trọng, minh bạch từ phía hệ ngành y tế, cũng là tạo niềm tin cho nhân dân đối với hoạt động hiến xác sau khi chết vô cùng cao cả và nhạy cảm này.
3. Điều kiện hiến xác của cá nhân sau khi chết
a. Điều kiện về chủ thể:
Quyền hiến xác sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về năng lực hành vi.
Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền xác hay không. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở các nước trên thế giới có sự quy định khác nhau về độ tuổi đối với người hiến xác sau khi chết. Ở Pháp, đủ 13 tuổi trở lên mới có quyền đăng ký từ chối hiến xác, BPCT sau khi chết (tức là sau khi một người bị chết đi, cơ sở y tế có thẩm quyền sẽ kiểm tra xem người đó có thể đăng ký từ chối hiến xác không, nếu không có thì cơ sở y tế có thẩm quyền gián tiếp suy luận là người đó đã đồng ý hiến). Ở nước ta, Điều 5 của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”.
Phân tích quy định trên ta thấy, cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền hiến xác sau khi chết. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý, họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có thể bằng hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật
b. Điều kiện về sức khỏe
Việc hiến xác sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc mang lại hay kéo dài sự sống cho người bệnh. Thực tế trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra những trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, BPCT của người hiến bị bệnh (nan y) cho người bệnh đã gây ra những cái chết rất thương tâm.
Bên cạnh các quy định về điều kiện hiến xác sau khi chết, cơ sở y tế có thẩm quyền để có thể lấy được xác, bộ phận cơ thể người hiến sau khi chết, Luật cũng xác định thêm một số điều kiện khác như: điều kiện xác định chết não, liệu có cần sự đồng ý của gia đình người hiến không trong trường hợp người thân của họ muốn hiến xác, bộ phân cơ thể? Trong Luật quy định người từ đủ 18 tuổi trở lên mà tự nguyện làm đơn hiến xác sau khi chết thì không cần sự đồng ý của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra trường hợp người hiến xác sau khi chết nhưng khi họ chết rồi cơ sở y tế có thẩm quyền đến lấy thì gia đình người hiến không đồng ý, trường hợp này cơ sở y tế có được quyền cưỡng chế lấy không? Vấn đề này ở Pháp đã áp dụng cơ chế suy đoán sự đồng ý, tức là khi phát hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm quyền kiểm tra trên hệ thống thông tin điện tử xem người đó có đăng ký từ chối hiến không, nếu người đó không đăng ký thì suy đoán rằng người đó đã đồng ý hiến xác sau khi chết. Tuy nhiên, trong trường hợp này nếu gia đình người hiến không đồng ý hiến thì cơ sở y tế cũng không lấy xác.
c. Điều kiện về trình tự và thủ tục: Được quy định tại Điều 19 và Điều 20 của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến xác năm 2006.
Những người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác tự nguyện hiến xác, BPCT, có đơn gửi đến cơ sở y tế hay cơ sở nghiên cứu, đào tạo y học để đăng ký và được cấp thẻ đăng ký hiến xác sau khi chết.
Trình tự thủ tục của việc hiến xác được quy định tại Điều 19 như sau:
Khi nhận được thông tin của người có nguyện vọng hiến xác, cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo cho cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến quy định tại Điều 23 của Luật này.
Khi nhận được thông báo về trường hợp hiến xác, cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến có trách nhiệm sau đây:
a) Trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan về hiến xác;
b) Hướng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn;
c) Cấp thẻ đăng ký hiến xác cho người hiến.
Việc đăng ký hiến xác có hiệu lực kể từ khi người đăng ký được cấp thẻ đăng ký hiến.
Cá nhân có quyền thay đổi hay hủy bỏ đơn đã đăng ký, thì phải có đơn thay đổi hay hủy bỏ đơn đăng ký tự nguyện. Theo đó cơ sở y tế hay cơ sở nghiên cứu, đào tạo y học có trách nhiệm tiếp nhận đơn và cấp lại đơn hay hủy bỏ đơn của các cá nhân tự nguyện hiến xác sau khi chết. Các loại đơn khi bị hủy bỏ hay được thay đổi, có hiệu lực ngay sau khi đăng ký hiến được thay đổi hay tên đăng ký của người hiến được loại bỏ khỏi danh sách đăng ký hiến.
d. Việc hiến xác sau khi chết phải được pháp luật bảo đảm đúng mục đích của người hiến
Theo quy định của pháp luật, thì cá nhân có quyền hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hay nghiên cứu khoa học. Nếu người nhận xác của người hiến sau khi chết đã không sử dụng đúng với những mục đích do pháp luật quy định thì bị coi là hành vi trái pháp luật. Luật Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến lấy xác đã có nhiều quy định ngăn cấm trộm mô, BPCT người, cấm buôn bán mô, BPCT người dưới bất kỳ hình thức nào, cấm lấy, ghép, sử dụng, vận chuyển mô, BPCT người vì mục đích vụ lợi và cấm quảng cáo tìm người tự nguyện cho mô, BPCT người vì mục đích lợi nhuận. Vì mô, BPCT người và xác sau khi chết không thể là hàng hóa và việc cá nhân tự nguyện hiến các đối tượng này đã mang bản chất của giao dịch không có đền bù, và về thực chất không thể đền bù vì BPCT người không thể quy đổi thành tài sản.
Việc sử dụng xác người sau khi chết phải đúng với mục đích và ý nguyện của người hiến, nếu trái với ý nguyện của người hiến thì người có hành vi làm trái là người xâm phạm đến các quyền gắn với người chết và trách nhiệm của người vi phạm được xác định là hành vi xâm phạm thi thể của người chết, thuộc loại trách nhiệm do gây thiệt hại ngoài hợp đồng, phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Điều 628 BLDS về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể.
IV - THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN HIẾN XÁC, BPCT CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY
1. Thực trạng của việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết
Quyền hiến xác người sau khi chết lần đầu tiên được thừa nhận và quy định tại Điều 34 BLDS 2005 và Luật Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác 2006 mặc dù việc hiến, cấy, ghép BPCT người đã được nghiên cứu và thực hiện trước đó hàng chục năm.
Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê, nhu cầu cần được hiến, lấy, ghép mô, BPCT người ở nước ta là rất lớn và ngày càng gia tăng. Cụ thể, cả nước có khoảng 5000 - 6000 người suy thận mãn cần được ghép thận. Tại 5 bệnh viện lớn ở Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Ước tính, do không có nguồn của người cho thận, cho gan, ở Việt Nam đã có hơn 200 người phải sang Trung Quốc và một số nước khác để ghép thận, ghép gan.
Không chỉ là ghép thận, ghép gan, số bệnh nhân cần phải ghép giác mạc cũng ngày càng tăng. Đến nay có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc. Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên. Từ năm 1985 đến nay, Viện mới chỉ ghép được 1.500 ca, riêng năm 2004 ghép được 103 ca, năm 2005 ghép được 150 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài (khoảng 50-100 giác mạc/năm), số còn lại được lấy từ bệnh nhân bị bỏ nhãn cầu do chấn thương và các nguyên nhân khác mà giác mạc có đủ tiêu chuẩn sử dụng.
Trước nhu cầu cấp bách trên, ngay từ năm 1992, Nhà nước đã đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, cán bộ nên cho đến nay, Việt Nam đã có 10 bệnh viện có đủ khả năng và điều kiện ghép thận và đã tiến hành thí điểm việc ghép thận, gan. Tính đến 20/03/2006, các bệnh viện trên đã ghép thành công được 161 ca, trong đó có 158 ca ghép thận và 04 ca ghép gan. Tất cả các ca ghép này đều lấy thận, gan của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em trong gia đình, cùng huyết thống, có các chỉ số sinh học tương đương, chưa có trường hợp nào lấy bộ phận cơ thể người hiến sau khi chết.
Mặt khác, nhu cầu về giảng dạy, nghiên cứu khoa học trên xác chết rất lớn. Vào những thập kỷ 70 – 80 của thế kỷ trước, cứ 6 – 7 sinh viên có 1 xác chết để học tập, nghiên cứu giải phẫu, nhưng đến nay, cả khoá trên dưới 400 sinh viên mới chỉ có 1 xác chết, thậm chí phải dùng lại nhiều lần do không có xác (theo báo cáo của Trường Đại học y Hà Nội, cả Trường hiện có 22 xác chết; Trường Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh có 173 xác chết).
Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 có thể thực hiện được khoảng 1.000 ca ghép thận, 80 – 100 ca ghép gan, 20 – 30 ca ghép tim và 10-15 ca ghép phổi, 2.000 ca ghép giác mạc, chúng ta phải cần nhiều mô, BPCT người hiến mang tính chất tự nguyện, nếu chỉ chờ vào nguồn hiến BPCT người của người thân là không thể đủ. Do đó, việc lấy mô, BPCT ở người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc biệt là ở người hiến sau khi chết là vô cùng cấp thiết.
Có thể nhận thấy rằng trước năm 2005 về mặt pháp lý chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này tức là chưa có văn bản pháp luật nào thừa nhận quyền hiến xác. Do vậy thực tiễn vấn đề này từ năm 2005 trở về trước ít người hiến xác vì: Do pháp luật chưa quy định cụ thể vấn đề này. Do văn hóa người Việt “chết phải toàn thây”. Do tôn trọng đạo giáo, người ta quan niệm do chúa trời sinh ra do đó họ không có quyền quyết định BPCT họ. Do người dân không nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của việc hiến mô tạng cứu người do đó họ không hiến hay tỏ ra thờ ơ không quan tâm.
Từ khi BLDS 2005 ra đời và có hiệu lực 01/01/2006 thì tại Điều 34, lần đầu tiên trong lịch sử luật đã thừa nhận quyền hiến xác, BPCT người sau khi chết của cá nhân. Đây là một điểm vô cùng tiến bộ của pháp luật nước ta nó cũng phản ánh tư duy của các nhà làm luật cũng có nhiều đổi mới và nắm bắt được tình hình thực tế. Tuy nhiên từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay thì người ta thấy thực tế số người tham gia hiến xác, BPCT sau khi chết có tăng nhưng tăng rất ít, hầu như không đáng kể , có rất nhiều nguyên nhân như đã nêu ở trên ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: do từ khi quyền này có hiệu lực pháp lý đến nay mới được gần 3 năm do vậy cần có một thời gian để thích nghi, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ y, bác sỹ…
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này
Việc hiến xác cho khoa học hay chữa bệnh là việc làm cao thượng của người quá cố, là một quyền dân sự thể hiện sự tự định đoạt của cá nhân, cần phải được mọi người trong xã hội tôn trọng. Nhưng sự toàn vẹn cơ thể người chết là một vấn đề nhạy cảm đối với bản thân người chết cũng như đối với gia đình họ. Dân gian rất kiêng kỵ “cái chết không toàn thây” nên dù cho việc hiến xác của người chết là một nghĩa cử cao thượng đi nữa, thì cũng rất dễ bị những người thân thích nhất phản đối, dẫn đến việc khó mà lấy được xác của người chết. Cả về pháp lý và về đạo lý, người ta không thể kiện ra tòa để yêu cầu một phán quyết ngay lập tức của tòa án về việc buộc những người thân của người chết phải giao xác người. Cho dù đã cầm được một quyết định có hiệu lực của tòa án, cơ quan thi hành án cũng khó có thể cưỡng chế thân nhân người chết phải giao xác chết, trong khi gia đình của họ đang tổ chức việc tang. Nếu cứ cưỡng chế để buộc những người này phải giao thi thể của người chết, thì không phù hợp với tình cảm và đạo lý con người. Do đó, việc hiến tặng xác và bộ phận cơ thể như đã nói trên vừa phải được sự đồng ý của người quá cố trước khi chết, đồng thời phải không có sự phản đối của những người thân thích của người chết.
Về nội dung và về kỹ thuật liên quan đến vấn đề này, có những ý kiển về sửa đổi những điểm sau đây:
a. Cần phải bổ sung về thủ tục và điều kiện thể hiện sự đồng ý của người quá cố.
Con người được quyền chết trong sự toàn vẹn thân thể. Nhưng chết là không còn đối chứng, nên không thể dựa vào “lời trăn trối” hay lời kể của một ai đó để chứng minh sự đồng ý của người chết mà việc đồng ý đó phải thể hiện bằng một bằng chứng rõ ràng, chẳng hạn bằng một bức thư, trong di chúc hay bằng một văn bản riêng thể hiện ý nguyện hiến tặng xác cho một cơ quan, tổ chức y tế có thẩm quyền và xác định. Do vậy, có kiến nghị bổ sung đoạn 1 qui định: “Việc hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác phải được người chết tự mình thực hiện một cách tự nguyện, bằng văn bản. Nội dung văn bản phải ghi rõ ngày tháng năm lậpvăn bản; họ, tên, tuổi, địa chỉ của người hiến tặng thi thể hay bộ phận cơ thể sau khi chết; chỉ định người có quyền nhận thi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xác và hiến xác - bài tập học kỳ luật dân sự 1.doc