Với quan điểm quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân phù hợp với yêu cầu phát triển của nhiệm vụ đấu tranh cách mạng, đấu tranh vũ trang của nhân dân ta từng thời kỳ. Thực tiễn đã khẳng định, dân quân tự vệ là một tổ chức quân sự độc đáo của nước ta.
Trên thế giới, nhiều cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng đã chú ý tới vũ trang quần chúng, xây dựng và phát huy vai trò to lớn của đội quân du kích. Tiêu biểu nhất là ở Liên Xô và ở Trung Quốc. Trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô chống phát xít Đức, các lực lượng vũ trang quần chúng tiến hành chiến tranh du kích trong vùng tạm chiếm cũng như trong nhiều trận quyết chiến quan trọng đã có tác dụng to lớn và phối hợp tác chiến rất đắc lực với quân đội Xô Viết. ở Trung Quốc, trong cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài, chiến tranh nhân dân đã được phát động ở những vùng nông thôn rộng lớn trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Hồng quân đã sát cánh chiến đấu với các đội du kích được tổ chức trong vùng sau lưng địch, đã tiêu diệt hàng triệu quân địch và giải phóng lục địa Trung Quốc.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5109 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xây dựng lực lượng dân quân tự về tại địa phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân của triều đình ở Trung ương, có quân của các lộ của các vương hầu và tù trưởng thiểu số ở địa phương, có hương binh, dân binh, thổ binh ở làng xã, hang, động. Đó là một trong những cơ sở tạo nên sức mạnh để dân tộc ta đánh thắng nhiều đạo quân xâm lược lớn mạnh và tàn bạo nhất thời kỳ đó, giữ vững độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.
Trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên ở thế kỷ XIII, nhờ có quân đội, lại có hương binh, thổ binh, tổ chức trên cơ sở "toàn dân là binh" mà Trần Quốc Tuấn đã kết hợp tài tình cách đánh tập trung, đánh lớn của đại quân ở Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Vạn Kiếp, Bạch Đằng... Với cách đánh nhỏ, tại chỗ của hương binh, thổ binh và của dân chúng vũ trang từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh. Dân chúng miền núi đã chặn đánh, giam chân, tiêu hao và tiêu diệt nhiều địch. Dân binh đồng bằng dựa vào làng, xã đánh địch tại chỗ. Dân chúng còn cất giấu của cải, làm "thanh dã" "vườn không, nhà trống" gây cho địch rất nhiều khó khăn. Có thể nói đây là một cuộc chiến tranh toàn dân, của cả nước. Vì vậy,quân đội Nguyên Mông tung hoành Âu, á, đã từng chinh phục và xoá tên bản đồ nhiều quốc gia, nhưng ba lần xâm lược Việt Nam, ba lần đều bị dân tộc Việt Nam đánh cho thất bại thảm hại.
Cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi nổ ra ở Lam Sơn, sau đó đã phát triển thành chiến tranh giải phóng. Lực lượng có nghĩa quân, lại có cả dân chúng vũ trang nổi dậy hưởng ứng. Đến thời kỳ này, sự kết hợp giữa quân đội triều đình với dân chúng vũ trang đã có bước phát triển mới so với cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đời Trần. Kế thừa và phát triển truyền thống "toàn dân là binh" và kinh nghiệm của đời Lý, Trần; Vua Lê tổ chức thành quân triều đình ở Trung ương, quân ở các Bộ và các đạo ở địa phương, hương binh và dân binh ở làng xã .
ở thế kỷ thứ XVIII, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đánh dấu một bước phát triển mới của sự kết hợp dân chúng vũ trang với quân đội nhà nước phong kiến ở nước ta. Nó bắt nguồn từ phong trào nông dân phát triển thành phong trào dân tộc. Lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa nông dân phát triển thành chiến tranh dân tộc được xây dựng từ lực lượng nghĩa quân, có sự tham gia của nông dân và các tầng lớp dân chúng khác, tự trang bị bằng nhiều thứ vũ khí: gậy, gộc, giáo mác, gươm súng... Từ trong các cuộc nổi dậy đó, Nguyễn Huệ đã tổ chức nên quân đội Tây Sơn, đó là quân đội nông dân, quân đội của nhà nước phong kiến, nhưng được cả dân tộc ủng hộ.
Trong lịch sử cũng đã từng có triều đại chỉ biết dựa vào quân đội nhà nước, dựa vào vũ khí tinh xảo và thành luỹ kiên cố mà không biết dựa vào dân thì đều chuốc lấy thất baị, dẫn đến tai họa mất nước An Dương Vương, Hồ Quý Ly.
Sở dĩ tổ chức quân sự của dân tộc ta huy động được đông đảo dân chúng tham gia, thực hiện cả nước đánh giặc, trước hết là do tính chất chính trị của các cuộc đấu tranh của dân tộc, đó là giành và bảo vệ nền độc lập của đất nước. Tuy nhiên, tổ tiên ta đã sớm ý thức hoàn cảnh của đất nước mình và giai cấp phong kiến đã thực hiện những hình thức dân chủ để động viên dân chúng đứng lên chiến đấu.
Có thể nói, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là lịch sử chống giặc ngoại xâm rất oanh liệt, lịch sử của một nước nhỏ, đoàn kết chặt chẽ, "cả nước chung sức" để đánh bại những kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình nhiều lần. Sự kết hợp quần chúng vũ trang với quân đội nhà nước, kết hợp quân đội nhà nước với dân chúng địa phương đã trở thành một nguyên lý về tổ chức quân sự và cả nghệ thuật quân sự, để giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc cũng như trong chiến tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam ta trước kia.
2. Vai trò của lực lượng dân quân tự vệ trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo Mác và Ăng ghen, khi giai cấp công nhân cùng giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác đã giác ngộ và nổi dậy, thì nhất định phải có vũ trang mới giành được chính quyền.
Tổ chức quân sự của giai cấp được đặt ra, trước hết xuất phát từ sự nghiệp đấu tranh cách mạng vĩ đại của giai cấp vô sản. Giai cấp thống trị không bao giờ tự nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử. Nhà nước tư sản luôn có trong tay một lực lượng vũ trang lớn để duy trì và bảo vệ lợi ích của giai cấp mình; vì vây giai cấp vô sản và quần chúng cách mạng nhất thiết phải được vũ trang và phải tiến lên có tổ chức quân sự của mình, chỉ dùng bạo lực cách mạng mới giải quyết được nhiệm vụ lịch sử vĩ đại là lật đổ ách thống trị của bọn tư bản và thiết lập chuyên chính vô sản.
Mác và Ăng ghen xem việc vũ trang cho giai cấp vô sản là điều kiện không thể thiếu để đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp phong kiến và tư sản phản động, giành thắng lợi trong khởi nghĩa. Đó cũng là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo giữ vững và tăng cường địa vị độc lập về chính trị của giai cấp vô sản và bảo vệ những thành quả đấu tranh cách mạng của mình.
Ăng ghen viết: "một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức thông thường để tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp nơi đó là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng được một dân tộc lớn".
Có thể thấy, với hình thức tổ chức quân sự của giai cấp vô sản và vũ trang quần chúng cách mạng, Mác và Ăng ghen đã đặt cơ sở lý luận cho vấn đề tổ chức dân quân tự vệ trong chiến tranh bảo vệ Nhà nước XHCN và cả trong chiến tranh giải phóng, chiến tranh tự vệ của các dân tộc bị áp bức. Vào đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, Lênin chủ trương vừa vũ trang quần chúng đồng thời nhất thiết phải tổ chức quân đội thường trực, phải có quân đội chính quy. Thắng lợi của nhà nước Xô Viết đánh bại cuộc can thiệp vũ trang của tập đoàn đế quốc cấu kết với bọn phản động ở trong nước nhằm tiêu diệt Nhà nước Xô Viết từ khi trứng nước; thắng lợi vĩ đại của Liên Xô trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945 đánh bại chủ nghĩa đế quốc Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật, đã chứng minh luận điểm nêu trên của Lênin là cực kỳ đúng đắn .
Quần chúng vũ trang và quân đội cách mạng là hai thành phần của lực lượng vũ trang của Nhà nước XHCN. Sự kết hợp chặt chẽ hai thành phần trên trong lực lượng vũ trang là một ưu thế tuyệt đối của chế độ XHCN. Lực lượng vũ trang của Nhà nước XHCN là lực lượng vũ trang đầu tiên trong lịch sử bao gồm những người công nhân và nông dân thực sự làm chủ vận mệnh của mình, có trình độ giác ngộ chính trị cao, sẵn sàng hy sinh tất cả cho lý tưởng XHCN và CSCN. Đó là một lực lượng vũ trang có sức mạnh vô địch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta, người anh hùng của dân tộc, nhà chiến lược thiên tài của cách mạng Việt Nam, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đã khéo kết hợp học thuyết quân sự Mác-Lênin với truyền thống quân sự của dân tộc, tinh hoa quân sự của Đông-Tây hình thành cơ sở tư tưởng của đường lối quân sự của Đảng ta. Đường lối đó phản ánh những vấn đề có tính quy luật trong chiến tranh cách mạng của một nước thuộc địa chống CNĐQ .
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công thì phải: "lấy dân chúng (công nông) làm gốc", "trong công kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân". Người khởi xướng chiến lược toàn dân kháng chiến, đánh giặc bằng mọi hình thức, mọi thứ vũ khí có trong tay. Đánh giặc bằng sức mạnh của toàn dân nhưng phải có lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Ngay những ngày đầu, Người đã phác hoạ mô hình lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ.
Có thể nói tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh được thể hiện ở: "toàn dân đoàn kết", "cả nước đánh giặc", "mỗi người dân là một dũng sĩ, mỗi làng xã, khu phố là một pháo đài", "phát huy cao độ trí thông minh và lòng dũng cảm của đông đảo quần chúng nhân dân, dựa trên cơ sở liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo".
Ngay từ khi mới ra đời, khi đưa ra cương lĩnh cách mạng của mình, Đảng đã khẳng định quan điểm cách mạng bạo lực, chỉ ra con đường đấu tranh vũ trang để giành chính quyền và vạch rõ đường lối tổ chức lực lượng để thực hiện các mục tiêu cách mạng. Đảng ta đã đề ra việc vũ trang cho quần chúng và xây dựng quân đội cách mạng đồng thời với việc nêu nên phương hướng giai cấp của việc tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng.
Đảng ta chỉ rõ: "không một sản nghiệp nào, một làng nào có cơ sở của Đảng, của đoàn thể, của các hội quần chúng cách mạng mà không có tổ chức đội tự vệ", "phải luôn luôn giữ tính cách mạng của đội tự vệ".
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Đảng ta đã phát triển học thuyết chiến tranh nhân dân đạt tới đỉnh cao, theo quan điểm "vận động toàn dân, vũ trang toàn dân".
Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là: "vũ trang nhân dân, kết hợp quân đội nhân dân với lực lượng vũ trang quần chúng, lực lượng vũ trang quần chúng với quân đội nhân dân, lấy lực lượng vũ trang quần chúng làm cơ sở cho quân đội nhân dân, lấy quân đội nhân dân làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang quần chúng, xây dựng 3 thứ quân của lực lượng nhân dân".
Nhờ nắm vững và thực hiện đúng đắn đường lối đó trong suốt quá trình tiến hành chiến tranh chống xâm lược, Đảng ta đã tạo ra được sức mạnh đoàn kết chiến đấu vô địch của toàn quân, của cả nước, của toàn dân tộc để chiến đấu và chiến thắng chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, giữ vững nền độc lập của dân tộc.
Với quan điểm quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân phù hợp với yêu cầu phát triển của nhiệm vụ đấu tranh cách mạng, đấu tranh vũ trang của nhân dân ta từng thời kỳ. Thực tiễn đã khẳng định, dân quân tự vệ là một tổ chức quân sự độc đáo của nước ta.
Trên thế giới, nhiều cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng đã chú ý tới vũ trang quần chúng, xây dựng và phát huy vai trò to lớn của đội quân du kích. Tiêu biểu nhất là ở Liên Xô và ở Trung Quốc. Trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô chống phát xít Đức, các lực lượng vũ trang quần chúng tiến hành chiến tranh du kích trong vùng tạm chiếm cũng như trong nhiều trận quyết chiến quan trọng đã có tác dụng to lớn và phối hợp tác chiến rất đắc lực với quân đội Xô Viết. ở Trung Quốc, trong cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài, chiến tranh nhân dân đã được phát động ở những vùng nông thôn rộng lớn trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Hồng quân đã sát cánh chiến đấu với các đội du kích được tổ chức trong vùng sau lưng địch, đã tiêu diệt hàng triệu quân địch và giải phóng lục địa Trung Quốc.
Tuy nhiên ở nhiều nước, sau khi cách mạng đã thành công, khi đã có quân đội chính quy và hiện đại thì vấn đề vũ trang quần chúng, vấn đề vũ trang toàn dân không được đặt ra đúng với tầm quan trọng của nó.
Sức mạnh của toàn dân vũ trang là một ưu thế tuyệt đối của chiến tranh nhân dân Việt Nam để đánh bại chiến tranh xâm lược của mọi kẻ thù, sức mạnh đó đã đưa dân tộc ta đến thắng lợi rực rỡ trong cao trào kháng Nhật cứu nước, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và trong công cuộc củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay.
Trong sức mạnh vô địch của toàn dân vũ trang đánh bại chiến tranh xâm lược của mọi kẻ thù của dân tộc ta, dân quân tự vệ đã giữ một vai trò hết sức quan trọng.
- Vai trò của dân quân tự vệ từ 1975 cho đến nay.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng dân quân tự vệ đã có sự phát triển mới, đóng góp tích cực vào việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng. ở nông thôn miền Nam, lực lượng dân quân tự vệ đã làm nòng cốt cho nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, rà phá, bóc gỡ bom đạn địch, giải phóng hàng chục ha đồng ruộng, để khôi phục sản xuất. ở thành thị, lực lượng tự vệ đã cùng công an và các lực lượng chuyên chính khác trấn áp các tổ chức phản động giữ vững trật tự trị an.
Khi cả nước tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, lực lượng dân quân tự vệ được mở rộng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Với lực lượng đông đảo, rộng khắp dân quân tự vệ đã tích cực tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu, góp phần quan trọng vào thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Ngày nay khi ta tiến hành xây dựng đất nước thì lực lượng dân quân tự vệ cũng đóng góp một vai trò rất quan trọng. Trong thời bình lực lượng này lấy nhiệm vụ xung kích trong sản xuất làm chính, đồng thời phải gắn liền với hoạt động bảo vệ trị an trên địa bàn để sản xuất có hiệu quả.
Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng đầy thử thách, hi sinh của nhân dân ta, dân quân tự vệ đã tỏ ra rất mực trung thành với dân tộc, với nhân dân, lập nên nhiều chiến công to lớn, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của dân quân tự vệ trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đó là lực lượng chiến lược trong suốt quá trình đấu tranh vũ trang cách mạng ở nước ta, "là lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc". Dân quân tự vệ có được vai trò đó trước hết là do:
Thứ nhất: Nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Đảng ta đã phát triển học thuyết quân sự cách mạng, đề ra đường lối chiến tranh nhân dân và phát triển nó đạt tới đỉnh cao, theo quan điểm : "Động viên toàn dân, vũ trang toàn dân".Việc xây dựng lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân là sự phát triển hợp logic, có tính tất yếu trong lịch sử.
Thứ hai: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt hoạt động của dân quân tự vệ, lựa chọn những thành phần ưu tú trong phong trào đấu tranh của quần chúng cách mạng, nhất là trong giai cấp công nhân và nông dân vào dân quân tự vệ.
Thứ ba: Đảng không ngừng chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng cho lực lượng dân quân tự vệ, giáo dục và phát huy cao độ yếu tố chính trị, tinh thần của mọi cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng dân quân tự vệ. Đó là lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân; là quyết tâm chiến đấu không gì lay chuyển nổi vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, "Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".
3. Nhiệm vụ lực lượng dân quân tự vệ trong tình hình hiện nay
Hiện nay công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN diễn ra trong điều kiện mới, đầy biến động và phức tạp, trong bối cảnh đan xen giữa thuận lợi và khó khăn, giữa thời cơ và thách thức, giữa hiểm hoạ do địch gây ra với nguy cơ phát sinh từ nội bộ. Chúng ta đang tiến hành xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hoà bình nhưng là hoà bình không ổn định, không vững chắc.
Trong tình hình mới, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng "khu vực phòng thủ" vững chắc là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo vững chắc công cuộc xây dựng CNXH của nhân dân ta. Những khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là những bộ phận hợp thành của nền quốc phòng toàn dân, của công cuộc chuẩn bị đất nước về mọi mặt, chuẩn bị nhân dân, chuẩn bị lực lượng vũ trang cũng như tổ chức và tiến hành chiến tranh nhân dân địa phương trong cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện bảo vệ Tổ quốc XHCN, chống mọi loại hình chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là nơi nhân dân và các lực lượng vũ trang địa phương chuẩn bị, tổ chức và thực hành cuộc chiến đấu bằng sức mạnh tổng hợp tại chỗ, chống quân xâm lược, bảo vệ quê hương. Sức mạnh tổng hợp tại chỗ của khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là sức mạnh về quân sự, kinh tế, chính trị, xã hội, tinh thần, văn hoá, truyền thống và kinh nghiệm đấu tranh của dân tộc, của địa phương, sức mạnh chiến đấu của cả nhân dân và lực lượng vũ trang, của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ được xây dựng, tích luỹ từng bước trong thời bình theo một kế hoạch cơ bản , lâu dài, thống nhất và sẽ không ngừng phát triển.
Trong chiến tranh tương lai, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ vẫn sẽ là lực lượng tại chỗ, lực lượng đánh địch kịp thời, ngăn chăn địch trong thế trận liên hoàn đã chuẩn bị sẵn của chiến tranh nhân dân, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian cần thiết bước vào cuộc chiến đấu với sức mạnh lớn nhất.
Pháp lệnh về dân quân tự vệ mới ban hành đã phản ánh tập trung vai trò, nhiệm vụ của dân quân tự vệ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Thứ nhất: Dân quân tự vệ là một lực lượng quan trọng trong hệ thống lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng và Nhà nước, là một lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân, lực lượng nòng cốt của khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tiêu diệt, tiêu hao lực lượng địch, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc bảo vệ địa phương, cơ sở.
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng được tổ chức đông đảo rộng khắp, bố trí ở khắp nơi, vừa có lực lượng chiến đấu tại chỗ, vừa có lực lượng cơ động, có khả năng đánh địch cao nhất, kịp thời nhất ở mọi nơi, mọi lúc trên mọi địa hình, thời tiết. Cùng các binh đoàn chủ lực đánh đòn quyết định, tiêu diệt lớn quân địch.
Thứ hai: Dân quân tự vệ là công cụ bạo lực của cách mạng, là một trong những lực lượng chuyên chính của chính quyền nhân dân ở cơ sở, là một trong những công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước .
Phối hợp với công an, bộ đội biên phòng, bộ đội thường trực và các đoàn thể nhân dân giữ vững chủ quyền lãnh thổ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ các công trình quốc phòng, các kho vũ khí, trang bị kỹ thuật, phát hiện và thu giữ các loại vũ khí trang bị quân sự tồn giữ bất hợp pháp ở địa phương; tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diên.
Thứ ba: Dân quân tự vệ là nguồn bổ xung và lực lượng hậu bị hùng hậu của quân đội; phối hợp với quân đội chiến đấu, phục vụ chiến đấu, phục vụ tiền tuyến.
Hiện nay, chúng ta chủ trương giảm bớt số lượng quân đội thường trực để dồn thêm sức lực đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh tế và phát triển văn hoá, do đó dân quân tự vệ là lực lượng hậu bị rất quan trọng của quân đội. Qua quá trình chiến đấu và sản xuất, được giáo dục chính tri, được rèn luyện về quân sự và thể lực dân quân tự vệ luôn là nguồn tích luỹ, sẵn sàng bổ sung bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực những cán bộ, chiến sĩ có phẩm chất chính trị, kinh nghiệm và khả năng chiến đấu. Dân quân tự vệ còn là trường học chuẩn bị về mọi mặt cho thanh niên thi hành chế độ nghĩa vụ quân sự, đồng thời là nơi tiếp nhận quân nhân phục viên, xuất ngũ, tích luỹ lực lượng dự bị, chuẩn bị cho việc mở rộng quân đội thường trực khi có chiến tranh.
Thứ tư: Gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xung kích trong sản xuất, vừa sản xuất, công tác, vừa chiến đấu; là tổ chức được lựa chon, gồm những thành viên hăng hái, tích cực nhất, tự nguyện tự giác, đảm bảo tin cậy về chính trị, có sức khoẻ tốt; là đội ngũ được tổ chức chỉ huy chặt chẽ, có tính kỷ luật cao, có tác phong quân sự khẩn trương. Nền kinh tế của nước ta hiện nay vận hành theo cơ chế thị trường nhưng phát triển theo định hướng XHCN. Vì vậy, dân quân tự vệ không những thường xuyên phát huy vai trò gương mẫu xung kích trong lao động sản xuất mà còn phát huy vai trò gương mẫu trong chống thiên tai, hạn hán, hoàn thành các công trình sản xuất, xây dựng kinh tế ở địa phương.
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng có vị trí chiến lược quan trọng trong đấu tranh cách mạng . Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN rất nặng nề, đòi hỏi dân quân tự vệ phải xây dựng theo những yêu cầu mới về chính trị, tư tưởng, tổ chức, về chất lượng đội ngũ, vừa có trang bị vũ khí phù hợp, bảo đảm có sức mạnh chiến đấu cao, thực hiện một cách hiệu quả nhất những quy định trong pháp lệnh về dân quân tự vệ.
4. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ trong tình hình hiện nay.
Công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc ngày nay đang diễn ra trong điều kiện mới đầy biến động và phức tạp, đan xen giữa yếu tố thuận lợi và khó khăn, giữa thời cơ và thách thức. Chủ nghĩa đế quốc ngày càng điên cuồng hoạt động chống phá XHCN với mục tiêu chính trị là xoá nốt những nước XHCN còn lại. Mỹ và các thế lực thù địch đang dùng mọi thủ đoạn để áp đặt một "một trật tự thế giới mới "do Mỹ khống chế. Trong tình hình đó thì Việt Nam trở thành một trọng điểm chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ ý thức hệ Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Vì vậy cả dân tộc ta phải đương đầu với thách thức mới.
Trong khi đó công cuộc đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang tạo ra những biến đổi to lớn và phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước. Xuất phát từ những nhiệm vụ trên của lực lượng dân quân tự vệ chúng ta phải xây dựng lực lượng dân quân tự vệ trở thành một lực lượng kiên định vững vàng về chính trị, hoạt động có hiệu quả, thực sự là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở trở thành một nhiệm vụ cấp bách trong toàn Đảng toàn dân.
a-Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ có phẩm chất chính trị vững vàng.
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng, một bộ phận của lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, cho nên tất yếu nó phải mang bản chất giai cấp công nhân . Bản chất giai cấp công nhân thể hiện trong dân quân tự vệ trước hết ở sự giác ngộ chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng ta, kiên định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng XHCN do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã sáng suốt lựa chọn; ở sự kiên định bảo vệ thành quả đấu tranh cách mạng đã giành được, cùng toàn Đảng toàn dân và toàn quân tiếp tục giành thắng lợi trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay.
b-Dân quân tự vệ phải quán triệt những quan điểm cơ bản và tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng đất nước và phát triển kinh tế là trọng tâm, nhưng củng cố quốc phòng, an ninh là vô cùng quan trọng. Các địa phương, các ngành kinh tế không những phải hoàn thành nhiệm vụ kinh tế dân sinh mà còn có nhiệm vụ thực hiện kế hoạch phòng thủ đất nước. Các thành viên của lực lượng dân quân tự vệ là những người trực tiếp lao động sản xuất, công tác ở các địa phương, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp. Đồng thời họ là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân, là một trong những lực lượng nòng cốt của khu vực phòng thủ tỉnh, thành, huyện, quận và của nền quốc phòng toàn dân, của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. ở cương vị của mình, mỗi cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ đang trực tiếp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: họ vừa trực tiếp lao động sản xuất để xây dựng, phát triển kinh tế xã hội, vừa là thành viên hoạt động trong một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân, trực tiếp bảo vệ sự nghiệp xây dựng CNXH cơ sở. Do vậy dân quân tự vệ phải quán triệt quan điểm của Đảng ta về kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, để dân quân tự vệ vừa thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, tích cực tham gia công tác giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, vừa phát huy tốt vai trò nòng cốt trong sản xuất ở cơ sở; phải tỉnh táo, cảnh giác và nhạy cảm chính trị, có nhận thức đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của tình hình, trước những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch. Mỗi thành viên dân quân tự vệ phải luôn nêu cao quan điểm độc lập tự chủ, tự lực tự cường, quan điểm quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân của Đảng để trong mọi hoàn cảnh, kể cả khi địa phương có biến động hoặc khi có chiến tranh.
Nhận thức của dân quân tự vệ về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ tổ quốc phải được thể hiện bằng hành động, thành quyết tâm thực hiện nhiệm vụ chính trị, tích cực hoạt động tham gia bảo vệ địa phương cơ sở; tuần tra canh gác, phối hợp với các lực lượng vũ trang khác trên địa bàn để truy quét tội phạm hình sự, phát hiện, ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu diễn biến hoà bình, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; ngăn chặn các vụ vượt biên, vây bắt truy quét gián điệp, biệt kích xâm nhập, góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Mỗi thành viên của dân quân tự vệ phải quán triệt sâu sắc mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của dân quân tự vệ. Vì ở đó phản ánh những kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng và hoạt động của dân quân tự vệ trong quá trình đấu tranh cách mạng, đấu tranh vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng; nó cụ thể hoá đường lối quân sự của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
c-Tổ chức và hoạt động của dân quân tự vệ phải tuân theo đường lối xây dựng và tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng.
Lực lượng dân quân tự vệ là lực lượng do Đảng tổ chức và lãnh đạo, do đó tổ chức và hoạt động của dân quân tự vệ phải tuân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50077.doc