MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
I. Lí luận chung định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ ở Việt Nam 3
1. Khái niệm về XHCN 3
2. Thế nào là nền kinh tế thị trường 3
3.Thế nào thành phần kinh tế : 5
4 . Việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN 5
5 . Cơ cấu sở hữu trong thời kì quá độ ở Việt Nam : 6
5.1 – Quan điểm mới trong việc đánh giá , xem xét cơ cấu sở hữu ở Việt Nam 6
5.2- Các loại hình sở hữu đang tồn tại : 7
5.3. Quan hệ giữa các loại hình sở hữu 8
II. Nền kinh thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 9
1. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. 9
2. Các thành phần kinh tế 13
2.1. Kinh tế nhà nước 13
2.2.Thành phần kinh tế tập thể. 16
2.3. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước 17
2.4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ 18
2.5. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước 19
2.6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 21
III. Những thành quả đạt được và những mặt hạn chế, thách thức 23
1. Những thành quả đạt được 23
2. Những mặt hạn chế và thách thức thời đại với nền kinh tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập ngày nay 28
2.1. Những mặt hạn chế 28
2.2. Những thách thức lớn đối với kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập 28
3. Những mối lo lắng trong quá trình hội nhập kinh tế thời đại nay. 30
IV. Nhân tố và giải pháp khắc phục khó khăn và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN 31
1. Giải pháp khắc phục khó khăn 31
2. Những nhân tố đảm bảo phát triển 32
3. Các đường lối, chủ trương các cách thực hiện của Đảng để phát triển ổn định nền kinh tế nhiều thành phần. 33
4. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa 34
KẾT LUẬN 36
Danh mục tài liệu tham khảo 39
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2513 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất mà toàn bộ nguồn lực sở hữu của nhà nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỉ lệ khống chế.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, việc tổ chức, sản xuất kinh doanh được tiến hành theo hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguôn dự trữ, ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Kinh tế nhà nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như: kết cấu hạ tầng KT – XH, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm, nhưng cơ sở sản suất thương mại”.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bộ hữu cơ với các thành phần kinh tế khác, thể hiện ở các mặt sau, kinh tế nhà nớc tạo động lực về kinh tế để nhà nước có thể thực hiện hiệu chức năng sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những hàng hoá và lâu bền của toàn bộ nền Kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng như giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh…Đồng thời kinh tế nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp và điều tiết vĩ mô của nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính sách xã hội.
Sở dĩ kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo so với các thành phần kinh tế khác là do: kinh tế nhà nước là thành phần dựa trên trình độ xã hội hoá cao nhất, nó không chỉ có ưu thế về học vấn, trình độ, kĩ thuật mà còn có vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển của nền kinh tế nước ta.
Trong thành phần kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ KHKT, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Để làm được điều này phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt đông của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời phát triển các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, các doanh nghiệp cổ phần chi phối có một số ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được Đảng và Nhà nước ta thực hiện theo các hướng.
+ Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải tiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhiều, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước. Ngày nay, Việt Nam đang chủ trương xây dựng các tập đoàn kinh tế về dầu mở, về than… Đây là những công nghiệp then chốt, chủ yếu là nền tảng để phát triển các thành phần kinh tế khác.
+ Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100%.
+ Giáo, bán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ.
+ Sáp nhập, giải thể cho phá sản nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.
Thành phần kinh tế nhà nước có vai trò vô cùng to lớn kinh tế nhà nước đi đầu về năng suất chất lượng, hiệu quả, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh bền vững. Kinh tế nhà nước là nền tảng là điều kiện hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất về nhà nước điều tiết kinh tế. Ngày nay, cùng với kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước đang dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế nhà nước quốc dân.
Qua đó, cho thấy coi nhẹ kinh tế nhà nước cho rằng chuyển sang cơ chế thị trường phải tự hữu hoá tất cả tư liệu sản xuất là sai lầm, nhưng hếu duy trì và phát triển kinh tế nhà nước thiếu cân nhắc kĩ đến hiệu quả kinh tế - xã hội của nó thì cũng không đúng.
Mấy năm qua, khu vực kinh tế nhà nước có chuyển biến tích cực biểu hiện ở: tỉ trọng sản phẩm trong nước tăng nhanh, từ 36%/năm 1991 lên
Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm bớt: tuy nhiên, nó cũng chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chỉ đạo đối với nền kinh tế quốc dân, những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương ứng với năng lực sẵn có. Doanh nghiệp nhà nước chiếm 85% tài sản cố định trong công nghiệp; 100% mỏ khoáng sản lớn, hơn 90% lao động được đào tạo nhưng hiệu quả kinh doanh còn thấp. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra cho khu vực kinh tế nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp cho người lao động về nhận thức quyền làm chù, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việt đổi mới kinh tế nhà nước phải có sự coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm, bổ sung tri thức, nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng XHCN của thành phần kinh tế này.
2.2.Thành phần kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kĩ thuật do người lao động tự nguyện, là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể. Nó bao gồm các đơn vị kinh tế do những người lao động góp vốn, góp sức cùng sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện tập trung bình đẳng cùng có lợi. Là thành phần kinh tế liên kết các thành viên nhằm kết hợp sức mạnh các thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất. Kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế. Không giới hạn qui mô và địa bàn, phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Nòng cốt của thành phần kinh tế tập thể là kinh tế hợp tác xã
Hiện nay, một thực tế đặt ra là nên không củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã để nó cùng với kinh tế nhà nước tạo nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển nền kinh tế thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất khó khăn. Vì vậy, đại hội toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ “phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao”.
Thực tiễn cho thấy: Kinh tế tập hợp phải được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên hưởng lợi theo việc chung. Kinh tế hợp tác xã có nhiều dạng, có những thình thức trở thành lĩnh vực hợp đồng chính của các thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp sứng kết quả liên kết theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh. Kinh tế tập thể có huy động vốn có trong lẫn ngoài.
Những thành phần kinh tế tập thể với mô hình cung ứng khi chuyển qua kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đảm đương vai trò, nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, thành phần kinh tế tập thể được đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sở hữu, quản lí và quan hệ phân phối, áp dụng tiến bộ và công nghệ khoa học mới vào sản xuất, hoạt động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân là ăn lỗ chịu.
Những hợp tác cổ phần sẽ là những thực thể cấu tạo nên thành phần kinh tế tập thể ở tất cả các ngành của nền kinh tế. Đây là giải pháp xuất phát điểm để đổi mới các thành phần tập thể. Song đó không phải là giải pháp duy nhất “ có phép thần tiên” mùa nhiệm chữa được với căn bệnh hiện tất yếu kinh tế phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế nước ta. vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng.
Sự phát triển kinh tế tập thể trong điều kiện nước ta rất cần sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sự hỗ trợ của nhà nước. Bởi vậy, phải “Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và có chính sách khuyến khích, ưu điểm, giúp cho kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả. Thực hiện tốt luật hợp tác xã.
2.3. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự cạn thiệp của nhà nước và các hợp đồng của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước.
Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên doanh sản xuất giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng, khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia đạt được sự kiểm soát và giúp đỡ của nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta đa số là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tập trung trong các ngành dịch vụ (chiếm 64%). Tổng giá trị sản 00hẩm khu vực này tạo ra là 9% GDP. Nó đã góp phần quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, là cấu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát trỉen.
Lênin đã chỉ rõ: Trong một nước tiền nông phải đi xuyên qua CNTB nhà nước tiến lên XHCN. Vận dụng tư tưởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Tuy còn nhiều khó khăn trở ngại trong việc phát triển các liên doanh những triển vọng của nó rõ ràng to lớn, có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng của đầu tư nước ngoài vào nước ta, ý nghĩa của việc phát triển thành phần kinh tế này là việc thu hút vốn công nghệ và kĩ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới, khu vực nhằm từng bước góp phần cấu trúc lại nền kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách.
Không có sự đầu tư của nước ngoài, Việt Nam không thể nhanh chóng cất cánh và rút ngắn sự phát triển thành phần kinh tế này là việc thu hút vốn, đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần tạo môi trường đầu tư thuậnlợi hơn bằng cách đơngiản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng đôi ngũ cán bộ. Trình độ đủ khă năng đảm đương được công việc, nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật ổn định, tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đầu tư nước ngoài.
2.4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ
Kinh tế cá thể, tiểu chủ là thành phần kinh tế hoạch động của bản than sản xuất kinh doanh giữa vốn và sức lao động của bản thân là chính. Kinh tế cá thể, tiểu chủ của nông dân, thợ thủ công những người buôn bán, dịch vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, mục đích kinh doanh chủ yếu là nuôi sống mình. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề. Vì vậy kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí, vai trò quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế trong thời kì quá độ ở nước ta.
Đảng và Nhà nước chủ trương giúp đỡ thành phần kinh tế tiểu chủ về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song nó còn có những hạn chế không phù hợp với CNXH. Do đó cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt nhất để nó hoà nhập với các thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế, phát triển đất nước.
2.5. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
- Là các đơn vị kinh tế mà vốn do môt hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đây là thành phần dựa trên sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động thường đầu tư vào những ngành vốn ít lãi cao.
Kinh tế tư bản nhà nước tồn tại dưới hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Năm 1990, 191 bằng việc ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân 91990) và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991 – 2000, đặt cơ sở pháp lí đầu tiên cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân chính quy mô hiện đại.
Về quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, đại hội lần VII của đảng (6 –1991) chỉ rõ “ mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp” “với thành phần kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngnàh nghề pháp luật không cấm”.
Hiện nay có 12109 doanh nghiệp tư nhân với số vốn đăng lí 2234 tỉ đồng. Theo thốngkê, kinh tế ngoài nhà nước mà chủ yếu là kinh tế tư bản nhà nước chiếm 44,02% GDP năm 1999, trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm 8,01%; năm 2002 chiếm 47,79% GDP trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm 9,02%. Công ty trách nhiệm hữu hạn có 5583 công ty với số vốn 3 tỷ đồng.
Nền kinh tế nước ta phát triển có năng động với tốc độ cao hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Mặt khác, việc tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế tư nhân được phát triển đủ lớn để làm tiên đề. Vì vậy trong điều kiện nước ta hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ và năng động của kinh tế tư bản tư nhân có ý nghĩa rất lớn và đòi hỏi phải được đặt trong chương trình nghị sự hàng ngày của chính phủ.
Kinh tế tư nhân kinh doanh hợp pháp cần được chính phủ khuyến khích tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn ra kinh doanh, cần được bảo vệ bằng pháp luật và chính sách những nhà đầu tư tư nhân phải được thực sự bình đẳng trong kinh doanh trước pháp luật, được tôn trọng trong xã hội hiện nay bởi nhiều doanh nghiệp tư nhân vẫn bị coi là kẻ bóc lột, so với các doanh nghiệp Nhà nước họ còn bị thua kém nhiều bề.
Đại hội lần IX của Đảng đã khẳng định các thành phần kinh tế, gồm cả kinh tế tư bản tư nhân kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chính sách của nhà nước ta là khuyến khích TBTN phát triển trong những ngành và lĩnh vực pháp luật cho phép. Nhà nước góp phần vốn đầu tư cùng tư nhân trên cơ sở thoả thuận nhằm tạo thế kinh doanh, tạo lực phát triển xây dựng tình đoàn kết, hợp tác giữa chủ và thợ, phát triển kinh doanh có hiệu quả.
2.6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài, có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Từ năm 1987 đến cuối năm 2002, cả nước có trên 4.500 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng kí là 42 tỉ USD, trong đó vốn đăng kí trên 25 tỷ USD, bằng 60% tổng số vốn đăng ký.
Có trên 4178 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng kí khoảng 40,02 tỉ USD, trong đó có 2163 dự án đầu tư đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh với số vốn đăng kí trên 25,4 tỉ USD và 757 dự án đang xây dựng cơ bản với vốn đăng kí trên 9,5 tỏ USD. Năm 2002, vốn đăng kí đạt mức trên 2,6 tỉ USD.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh, bao quát nhiều lĩnh vực, đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như: bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, phục vụ chuyển dịch cơ cấu theo định hướng CNH – HĐH, thu hút công nghệ hiện đại, phương phápquản lí tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, góp phần tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu ở nước ta… Đã có những tập đoàn xuyên quốc gia lớn như của Nhật Bản (Misubishi, Mitsui, Sumimoto…) của Đức (Mercedes – Ben 2, Siemens..), của Mỹ (Mobil, Carterrpila…) của Anh (BP…) đầu tư vào nước ta.
Đầu tư nước ngoài đã chiếm 1 tỉ lệ quan trọng trong tổng sản phẩm trong nước 1995 mới có 6.3%, năm 2000 đó là 13,28%, 2001 là 13,76%, 2002 là 13,91%. Trong tổng số vốn đầu tư phát triển theo giá thực tế, đầu tư nước ngoài chiếm 1995 là 30%, năm 2000 là 18,7%, 2001 là 18,4%, năm 2002 là 18,5%. Năm 2003, nếu tính cả dầu thô, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt khoảng 7,5 tỉ USD, chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Vì vậy thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một chính sách lớn nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Trong thực tế, đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế. Phát huy tác dụng trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Hiện nay nhiều nước xung quanh ta đang đề ra những chính sách có sức cạnh tranh cao để thu hút đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài thường so sánh môi trường đầu tư nước ngoài của từng nước tương quan với môi trường đầu tư trong nước, từ đó quyết định đầu tư. Vì vậy để tiếp tục thu hút và nâng cao hiệu quả của đầu tư nước ngoài, không thể không xem xét lại hệ thống chính sách, nhất là so sánh môi trường đầu tư của các nước trong khu vực để đề ra những chính sách hấp dẫn, tạo lập một môi trường đầu tư có tính cạnh tranh cao, chỉ có như vậy mới có thể tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng cũng như vào vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thế nhưng tại nhiều địa bàn có đầu tư nước ngoài, sự liên kết gắn bó và sức lan toả của đầu tư nước ngoài với kinh tế - xã hội địa phương chưa được thể hiện rõ nét. Nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vẫn phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài để chế biến, trong khi địa phương có đủ sức sản xuất để cung ứng, nhiều linh kiện phục tùng cần phải nhập khẩu vì có chất lượng cao hơn và giá bán hợplí hơn. Nhiều ngành công nghiệp phụ trợ chưa được xây dựng dần đến giá trị gia tăng của nhiều hàng hoá xuất khẩu cao, thường chỉ là giá trị gia công. Khắc phục những nhược điểm trên, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thực hiện gắn bó, có tác động thúc đẩy kinh tế mỗi địa phương cũng như cả .
III. Những thành quả đạt được và những mặt hạn chế, thách thức
1. Những thành quả đạt được
Qua hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam bước vào ổn định và đạt được những thành tựu. Kết quả trong 5 năm từ 1991 – 1995 nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm có tổng sản phẩm đạt 8,2%, kế hoạch 5,5% - 6,5% về sản xuất công nghiệp 13,3%. Nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài thu hút vốn và kĩ thuật của nhiều nước. Cuối 1996 có trên 700 công ty lớn nhỏ đầu tư vào nước ta với 22 tỷ USD. Trong 1.800 dự án, xoá bỏ bao vây cô lập môi trường kinh tế này càng ổn định được cải thiện làm cho phát triển năng động hơn.
Giai đoạn 1999 – 2004 kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể.
+ Nền kinh tế đạt tốc độ phát triển tăng trưởng khá cao. Nhịp độ GDP cả giai đoạn đạt 7,5% trong đó nông nghiệp tăng 4%, công nghiệp tăng 17%, dịch vụ tăng 7%. Đã khắc phục được xu hướng suy giảm do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á.
+ Bằng nhiều biện pháp đã thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài và huy động được một nguồn lớn từ các thành phần trong nước. Tỷ lệ vôố đầu tư so với GDP tăng lên qua từng năm từ 16% (1990) lên tới 28% (2000) và 38% năm 2004. Nhờ vào nguồn vốn của cả trong và ngoài nước đã đẩy cao hơn khả năng đóng góp vào nhịp độ tăng của GDP từ vốn thay vì trước đây đóng góp từ lao động cao hơn nhiều.
+ Duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô. Tốc độ lạm phát giá cả thấp, đời sống kinh tế xã hội nhìn chung ổn định, không để xảy ra những biến động lớn. Tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể từ 7% năm 2000 xuống 5,6% năm 2004. Trước đó tỷ lệ thất nghiệp còn cao hơn nhiều.
+ Xuất khẩu: tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân nhưng năm qua đạt 9,7% trên 1 năm mới chỉ bằng 2/3 kế hoạch (16%/năm) cho dù có cao hơn chút ít so với mức tăng trưởng của các nước đang phát triển Châu Á thời kỳ (1988 – 2002) – 8%/năm.
Đặc biệt ta cần quan tâm tới những thành công rực rỡ của nềnkinh tế nước ta trong năm 2006 vừa qua, đây cũng là tin vui trên con đường phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta trong quá trình hội nhập này.
+ 150 là vị trí của Việt Nam trong tổ chức thương mại quốc tế WTO. Sự kiện này đánh dấu thời điểm hội nhập sâu rộng của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới. Hàng hoá, dịch vụ nước ta có điều kiện thuận lợi hơn để đi ra nước ngoài còn thị trường trong nước cũng mở rộng cho đầu tư và hàng hoá dịch vụ của 149 thành viên WTO còn lại. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, cả nền kinh tế doanh nghiệp và các nền kinh tế WTO sẽ cực kì quyết liệt.
+ 21 nhà lãnh đạo của các nền kinh tế thành viên APEC đến Việt Nam tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 14 tại Hà Nội trong hai ngày 18-19 tháng 11/2006. Với chủ đề: “hướng tới một cộng đồng năng động vì sự phát triển bền vững và thịnh vượng”. Hội nghị các thành viên APEC tập trung 4 vấn đề lớn. Tự do hoá thương mại đa phương, tự do hoá thương mại song phương theo tinh thần minh bạch, thúc đẩy chương trình hành động quốc gia và nâng cao hiệu quả hợp tác trong APEC.
Đây là nơi gặp gỡ của hơn 1.100 lãnh đạo tập đoàn lớn nhất thế giới để cùng trao đổi kinh nghiệm và cơ hội giao thương. Hàng loạt hợp đồng hợp tác kinh doanh trong các lĩnh vực trọng yếu được kí kết với giá trị gần 2 tỷ USD.
+ 8,2% là tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2006. trong hai năm liền Việt Nam giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế này. Điều này cho thấy vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn và đáp ứng nhanh trước những yêu cầu mới của hội nhập kinh tế quốc tế.
+ 10,2% tỷ USD việc thu hút đầu tư trực tiép nước ngoài (FDI) trong năm 2006. Từ khi nước ta ban hành luật khuyến khích đầu tư nước ngoài đến nay đã thu hút 797 dự án được cấp với tổng vốn đầu tư đăng kí là 7,5 tỷ USD. Và 439 dự án tăng vốn với tổng cộng 2,1 tỷ USD tăng 45% so với năm trước và vượt 32% kế hoạch cả năm. Việc này cho thấy Việt Nam luôn là điểm đến đầu tư vốn an toàn, ổn định thân thiện, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện, sâu rộng cởi mở hơn.
+ 4 tỷ 450 triệu USD là số vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. Trong khuôn khổ hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) lần 14, các bên tham gia đã cam kết sẽ tài trợ hơn 4,45 tỷ USD cho Việt Nam trong năm 2007. Vượt xa mwcs 3,7 tỷ USD của năm 2006. Đây là số vốn tài trợ lớn nhất của nước ngoài đối với nước ta từ xưa đến nay. Qua đó thể hiện lòng tin của các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc phát triển đất nước ta trong thời gian dài.
+ 6,6% - 6,8% là con số ước tính về tốc độ tăng giá tiêu dùng cả năm. Đây cũng là mức khả quan nhất trong vòng 3 năm 1ua (2005 – 8,4%, năm 2004 – 9,5%).
Điểm nổi bật là thuế thu nhập khẩu giá xăng trong nước được điều chỉnh theo biến động của thị trường thế giới vẫn tài trợ giá giá dầu. Tình trạng giá vàng và đô la mỹ trên thị trường khu vực tư nhân khiến nhiều người dân đổ xô mua vàng và đô la mỹ tạo nên cơn sốt giá không đáng có đã đựơc nhanh chóng giải toả trên thị trường chứng khoán tổng giá trị vốn hoá toàn cầu đạt khoảng 160.000 tỷ đồng xấp xỉ 10 tỷ USD bằng 15% so với tổng USD trong khi mục tiêu đề ra chỉ là 6% GDP. Mục tiêu nâng quy mô thị trường chứng khoán lên tới mức khoảng 20-30% GDP năm 2010 đang dần trở thành hiện thực.
+ 40 tỷ USD là tổng kim ngạch xuất khẩu mà Việt Nam được trong thời gian qua tăng 22% so với mục tiêu 16% đề ra. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu chung các doanh nghiệp khối đầu tư nước ngoài chiếm 29,921 tỷ USD, doanh nghiệp 100% vốn trong nước đóng góp 15,184 tỷ USD.
+ 220.000 tỷ đồng 13,8 tỷ USD là tổng mức vốn hoá của toàn thị trường chứng khoán ở Việt Nam năm 2006 tăng gấp hơn 20 lần so với cuối năm 2005. Và bằng khoảng 17% tổng sản phẩm quốc nội (GDP năm 2006 vượt ra so với mục tiêu đạt 5% GDP. Mà các nhà quản lí đặt ra hồi đầu năm. Đến nay đã có 68 cổ phiếu giá niêm yết gần 11,5 nghìn tỷ đồng trong đó có nhiều cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp lớn như FPT, VNM… Đây là sự kiện đáng nhớ đối với thị trường chứng khoán được xem là lĩnh vực đầu tư mới mẻ đối với Việt Nam.
+ 4,7 – 4,8 tỷ USD là lượng kiều hối gửi về nước (năm 2006 lớn hơn rất nhiều lần so với các năm trước, được coi là đột biến ngoài dự đoán).
- Riêng trong năm 2006 Việt Nam đã thu hút đầu tư 10 dự án FDI lớn nhất.
1. Công ty thép P0500 với 1,126 tỷ USD
2. Công ty TNHH Ty Coons Worl wide Steel Việt Nam: 256 triệu USD
3. Công ty TNHH Intel Products Việt Nam 1 tỷ USD
4. Công ty TNHH phát triển THT: 314 triệu USD
5. Công ty TNHH Winvest Investment Việt Nam: 300 triệu USD
6. Công ty TNHH điện tử Meiko: 300 triệu USD
7. Công ty TNHH cảng Container Trung tâm Sài Gòn: 249 triệu USD
8. Khu liên doanh đô thị An Khánh: 211,9 triệu USD
9. Công ty TNHH Booyung: 171 triệu USD
10. Công ty TIG Phong Phú: 65,5 triệu USD
* Hoạt động xuất nhập khảu
Năm 2006 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 39,3 tỷ USD tăng 22,1% so với năm 2005 đạt 104,9% kế hoạch. Nếu so với đề án phát triển xuất khẩu 2006 – 2010) thì đạt 103,1% chỉ tiêu) bình quân đầu người về xuất khẩu đạt 482,8 USD/người/năm. Đối với nhập khẩu kim ngạch cả năm đạt trên 44,4 tỷ USD tăng 20,1% so với năm 2005 vượt 4,5% so với kế hoạch.
- Cơ cấu chủ thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu
Trung bình
2001-2005
2005
2006
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Doanh nghiệp FDI
52,3%
26,3%
57,5%
57,7%
36,8%
Doanh nghiệp
trong nước
47,7%
73,7%
42,5%
42,3%
63,2%
Theo: tổng hợp từ báo cáo các năm của bộ Thương Mại
- Bảng chỉ tiêu kim ngạch xuất nhập khẩu trong cả nước
Bình quân
2001-2005
2005
2006
Tăng trưởng kim ngạch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35963.doc