MỤC LỤC
1. Lời nói đầu Trang 3
2. Nội dung Trang 4
a) Khái niệm ô nhiễm không khí Trang 4
b) Phân loại ô nhiễm không khí Trang 7
c) Thực trạng ô nhiễm không khí .Trang 12
d) Tác hại của ô nhiễm không khí .Trang16
e) Biện pháp xử lí ô nhiễm không khí Trang 18
f) Xử lí ô nhiễm không khí bằng phương pháp thiêu đốt .Trang 22
3. kết luận .Trang 28
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7806 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xử lý ô nhiễm không khí bằng phương pháp thiêu đốt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng càng lớn, nguồn ô nhiễm không khí càng tăng.
Nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước ngày càng tăng và dự báo trong 25 năm tới còn tiếp tục tăng cao (Biểu đồ 3). Nếu các tiêu chuẩn về chất lượng xăng dầu không được thắt chặt thì chúng ta sẽ phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí đô thị rất nghiêm trọng.
Tiêu thụ xăng dầu là một trong những nguyên nhân phát thải các chất độc hại như CO, hơi xăng dầu (HmCn, VOC), SO2, chì, BTX. Phát thải những chất này liên quan chặt chẽ đến chất lượng xăng dầu. Trong cơ cấu tiêu thụ xăng dầu của quốc gia thì GTVT chiếm tỷ trọng lớn nhất, là nguồn phát thải khí ô nhiễm lớn nhất trong đô thị.
Biểu đồ 3. Nhu cầu xăng dầu của Việt Nam những năm qua và dự báo cho đến 2025
Mảng 3: Thực trạng ô nhiễm không khí.
I/ Tình hình ô nhiễm không khí
Lượng xe máy gia tăng nhanh chóng ở các thành phố là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng như hiện nay. Đây thực sự là một thách thức lớn bởi mỗi năm có tới 600.000 người tử vong do tình trạng ô nhiễm không khí.
Nghiên cứu mang tên “Ô nhiễm không khí đô thị ở các thành phố châu Á” công bố ngày 13/12, cho biết các nhà khoa học cảnh báo rằng tình trạng ô nhiễm không khí đang đe dọa tới sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân châu Á.
Qua khảo sát, phát hiện thấy rằng nồng độ tập trung chất PM10 (có hại cho sức khỏe và cuộc sống của con người) sản sinh từ khói xe máy trong không khí ở một số thành phố đã lên tới mức báo động. Theo tác giả công trình nghiên cứu Dieter Schwela, nồng độ tập trung chất PM10 ở các thành phố châu Á cao hơn nhiều so với châu Âu và Mỹ. Do vậy, 22 nước châu Á là đối tượng nghiên cứu cần có biện pháp giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí do chất PM10.
Giám đốc điều hành Chương trình Định cư con người của LHQ (UN-HABITAT) Anna Tibaijuka cho rằng, châu Á - Thái Bình Dương là khu vực đông dân cư nhất thế giới và được coi là động lực kinh tế của toàn cầu trong tương lai. Chính vì vậy, khu vực này cần thống nhất về tầm nhìn chung trong nỗ lực phát triển bền vững các thành phố như LHQ kêu gọi.
Các thành phố lớn tại Việt Nam như Hà Nội và TP.HCM đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng, đặc biệt là từ bụi mịn.
Ở Việt Nam từ trong nhà ra ngoài đường phố ô nhiễm không khí liên quan đến một nguy cơ không được mấy người quan tâm: đó là nạn ô nhiễm không khí ngay trong nhà do việc đun nấu bằng củi, than và các loại nhiên liệu rẻ tiền mà hậu quả rất đáng sợ.
Hiện trong không khí có rất nhiều chất gây ô nhiễm như bụi, khí CO, SO2, NOx, chất benzen gây ung thư… Trong đó, lượng bụi là cao nhất. Thật ra, bụi rất độc bởi chứa hợp chất thơm đa vòng gây ung thư, và còn nhiều hợp chất nguy hiểm khác chưa được xác định. Đặc biệt, bụi càng nhỏ càng độc hại bởi dễ chui sâu vào phổi như bụi mịn (PM 2,5 - bụi khí dưới 2,5 micron).
Hiện tại, ở VN chưa áp dụng chỉ tiêu đối với bụi mịn. Mỹ đặt giới hạn 35 microgram/m3, trong khi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) còn đặt tiêu chuẩn thấp hơn là 25 microgram/m3. Theo khảo sát của AIT, lượng bụi mịn trong không khí tại Hà Nội và TP.HCM cao hơn các tiêu chuẩn này nhiều lần, cao nhất lên đến hơn 100 microgram/m3, còn trung bình cũng trên 50 microgram/m3.
Ô nhiễm ở Hà Nội và TP.HCM tuy chưa đến mức như Manila, Bangkok hay nhiều đô thị khác ở Trung Quốc, tuy nhiên cũng đã nghiêm trọng và đáng quan tâm. Còn lượng bụi đã ở mức nguy hiểm.
Khảo sát bằng các trạm quan trắc không khí tại ven các đường giao thông tại Hà Nội cho thấy có tới 40% lượng chất gây ô nhiễm trong không khí xuất phát từ giao thông. Còn lại 20% từ đốt rác thải, rơm rạ, 20% là chất thứ phát (hình thành trong không khí), còn lại từ các hoạt động công nghiệp, đun nấu thức ăn và các nguồn ô nhiễm đến từ khu vực khác (do gió đưa đến).
Tình hình tại TP.HCM cũng tương tự. Ngoài ra, hai nhà máy nhiệt điện ở Thủ Đức và Nhà Bè cũng là nguồn thải khí SO2 vào không khí rất lớn.
Tình trạng ùn tắc giao thông tại Hà Nội và TP.HCM càng khiến mức độ ô nhiễm không khí trở nên nghiêm trọng hơn. Khi nhiều xe đứng một chỗ và nổ máy sẽ thải ra lượng chất ô nhiễm cực kỳ lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người đi đường.
II/ Hiện trạng công nghệ xử lý ô nhiễm không khí tại khu vực.
Trong một thời gian dài hầu hết các nhà máy được xây dựng trước năm 1990 (kể cả các nhà máy được xây dựng trước năm 1975) đã hoạt động với những đặc điểm chung như sau:
- Phần lớn các nhà máy đều cũ, thời gian hoạt động tương đối dài (20 năm).
- Thiết bị lạc hậu, thuộc các thế hệ từ những năm 70 trở về trước.
- Nguyên liệu, nhiên liệu không tốt, nhiều chất thải, tiêu hao lớn.
- Công nghệ lạc hậu không đồng bộ.
- Hầu hết các xí nghiệp đều nằm trong khu dân cư mật độ cao.
- Hầu hết các xí nghiệp đều không có hệ thống kiểm soát và sử lý ô nhiễm môi trường không khí.
Vì vậy mà vấn đề bảo vệ môi trường không khí không được quan tâm đúng mức và gây nên nhiều ảnh hưởng xấu cho môi trường xung quanh.
Từ sau khi có luật đầu tư nước ngoài ra đời đến nay, nhất là sau khi cso luật môi trường (1994) tình trạng trên mới được từng bước cải thiện. Nhiều nhà máy hoạt động từ nhiều năm đã đầu tư lắp đặt các thiết bị xử lý khí thải (các nhà máy thuộc công ty thép miền nam, các nàh máy hoá chất...) một số nhà máy mới xây dựng cũng lắp đặt các thiết bị xử lý không khí theo dạng nhập toàn bộ dây chuyền hoặc thiết kế chế tạo tại việt nam. Có thể kể tên một số công trình xử lý theo các nhóm ngành sau:
- Đối với các nguồn ô nhiễm do đốt nhiên liệu: như phân tích ở trên đây là nguồn ô nhiễm không khí đáng kể nhất nhưng do nhiều nguyên nhân như chi phí đầu tư và vận hành lớn, việc lắp đặt thiết bị xử lý có thể ảnh hưởng đến chế độ làm việc của lò hơi, vận hành phức tạp...nên số nhà máy xí nghiệp tiến hành xử lý khói thải còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, trông khi lẽ ra 100% nguồn ô nhiễm loại này cần phải được xử lý. Các nhà máy lắp đặt thiết bị xử lý khói thải có thể chia làm 3 loại:
+ Các nhà máy dùng dầu f.o làm nhiên liệu cho lò hơi, thuộc loại này phần lớn là các nhà máy, các cơ sở sản xuất có sẵn nằm trong dân cư đông đúc, công suất lò hơi nhỏ (5t/h) như xí nghiệp dựoc phẩm 26, đệt gia định, công ty pesco, cơ sở thuận thiên (tp. Hồ chí minh) hoặc nhà máy mới xây dựng hiện đại như công ty liên doanh tôn phương nam (khu công nghiệp biên hoà).
+ Các nhà máy chế biến hạt điều dùng nhiên liệu là vỏ hạt điều như nhà máy sacafa (tp. Hồ chí minh), nhà máy chế biến hạt điều tây ninh, nhà máy chế biến hạt điều long an.
+ Một số nhà máy dùng các loại nhiên liệu mạt cưa, trấu, bã mía, củi gỗ... Như các nhà máy gỗ long bình (biên hoà), nhà máy giấy thanh bình (tp. Hồ chí minh), nhà máy gạo sấy long an, nhà máy đường bình dương. Thiết bị xử lý trong phần lớn các trường hợp là thiết bị lọc bụi dạng ướt kết hợp với thiết bị hấp thụ hơi khí độc với dung dịch hấp thụ là nước. Hiệu suất xử lý đạt khoảng 80% với bụi tro và 50% với khí SO2 và NO2.
- Đối với ngành công nghiệp liệu kim: công ty thép miền nam là một trong số các đơn vị có sự quan tâm đúng mức đối với các vấn đề xử lý khí thải. Sau thử nghiệm ban đầu đối với việc xử lý khói thải từ lò luyện thép hồ quang của nhà máy thép tân bình bằng kỹ thuật và thiết bị trong nước (sử dụng thiết bị lọc ướt), công ty đã phối hợp với các công ty thuỵ sỹ và ấn độ thiết kế thi công hệ thống xửlý khói thải lò hồ quang cho các nhà máy thép biên hoà và thủ đức theo nguuyên lý thu bụi bằng túi lọc vải có kết hợp khử co. Với vốn đầu tư khoảng 10 tỷ đồng cho 2 nhà máy, các hệ thống nói trên đã hoạt động có hiệu quả, giảm đáng kể tải lượng các chất ô nhiễm không khí. Hiện nay công ty đang tiếp tục triển khai kỹ thuật trên cho các nhà máy còn lại của công ty.
- Đối với công nghiệp mạ kim loại: đây là một ngành công nghiệp đang có xu hướng phát triển nhanh tại khu vực với các chất ô nhiễm không khí điển hình là hơi axit (hcl), khí nh3, bụi. Một số nhà máy lớn trong khu vực như posvina (tp. Hcm), công ty tôn phương nam (khu côgn nghiệp biên hoà 1- đồng nai) đã phối hợp với cefinea xây dựng các hệ thống xử lý với thiết bị hấp thụ 2 bậc, dung môi là nước đạt hiệu quả cao. Một số công ty đang có kế hoạch xây dựng như công ty mạ kẽm vingal (khu công nghiệp biên hoà 2).
- Công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng: đây là ngành công nghiệp với chất ô nhiễm chủ yếu là bụi vô cơ kích thước nhỏ. Ngoại trừ nhà máy xi măng hà tiên được xây dựng từ lâu nên hệ thống xử lý bụi hoạt động không có hiệu quả, gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng, các nhà máy xi măng mới xây dựng đều được trang bị hệ thống lọc bụi hiện đại, hiệu suất cao (hệ thống lọc bụi tĩnh điện) như nhà máy xi măng sao mai. Phần lớn các nhà máy gạch men, sứ vệ sinh mới xây dựng đều sử dụng thiết bị lọc bụi vải có bộ rũ bụi bằng khí nén để thu hồi bụi. Hiệu suất thu hồi cao (90%). Nhiều nhà máy xi măng chưa có hệ thống xử lý đạt yêu cầu (xi măng bình điền, xi măng quân khu 7).
- Công nghiệp chế biến gỗ: hầu hết các nhà máy chế biến gỗ trong khu vực đều có hệ thống thu hồi bụi nhưng khá đơn giản (xyclon đơn), chỉ có khả năng thu hồi bụi có kích thước lớn mà không có khả năng thu hồi bụi tinh từ các công đoạn chà nhám, đánh bóng.
- Công nghiệp thuốc lá: các nhà máy sài gòn, vĩnh hội, đồng nai đã giải quyết khá tốt ô nhiễm do bụi bằng cách lắp đặt các thiết bị lọc túi vải có hiệu suất cao. Tuy nhiên vấn đề ô nhiễm do khói thải và ô nhiễm do mùi chưa được giải quyết. - Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm: ô nhiễm chủ yếu trong loại hình công nghiệp này (bao gồm cả chế biến thứuc ăn gia súc) là bụi và mồ hôi của nhiên liệu. Hiện nay chỉ mới một số nhà máy chế biến thức ăn gia súc do nước ngoài đầu tư xây dựng mới (như cp. Group, cargil) là giải quyết tốt ô nhiễm bụi bằng các thiết bị lọc túi vải.
- Công nghiệp chế biến thuốc trừ sâu: công ty thuốc trừ sâu sài gòn đã cải tiến hệ thống đóng chai đồng thời xây dựng các hệ thống thu hồi khí độc bằng thiết bị hấp phụ và thiết bị hấp phụ bằng than hoạt tính đạt hiệu quả cao. Nhà máy thuốc sát trùng bình triệu cũng xây dựng thiết bị thu hồi bụi và hơi khí độc cho một số công đoạn. - Các ngành công nghiệp khác: trong một số ngành công nghiệp khác, các nhà máy cũng đã tiến hành lắp đặt các hệ thống ô nhiễm không khí chủ yếu là bụi như các nhà máy sản xuất giầy, các nhà máy cao su với hệ thống xyclon đơn.
Qua các kết quả điều tra khảo sát nói trên có thể rút ra một số nhận xét đánh giá sơ bộ về hiện trạng công nghệ xử lý khí thải tại khu vực như sau:
Nhiều các nhà máy thuộc các ngành công nghiệp gây ô nhiễm không khí trầm trọng nhất chưa có hệ thống thiết bị xử lý khí thải hoặc các biện pháp thích ứng để giảm thiểu ô nhiễm không khí (các nhà máy nhiệt điện, xi măng) hoặc thiết bị cũ kỹ, hiệu quả không đáng kể (nhà máy xi măng sài gòn).
Quy mô các công trình xử lý khí thải (trừ các công trình thuộc công ty thép miền nam) phần lớn còn nhỏ, vốn đầu tư cho công trình không cao.
Trình độ công nghệ của phần lớn các công trình xử lý ở mức độ trung bình. Chưa có hoặc có không đáng kể những công trình xử lý áp dụng các phương pháp xử lý tiên tiến nhất nư lọc bụi tĩnh điện, thiêu đốt có chất xúc tác, hấp phụ...điều này cũng phù hợp với trình độ công nghệ và quy mô của nhà máy trong giai đoạn hiện nay.
Hiệu suất các thiết bị xử lý chưa cao do phụ thuộc vào nhiều yếu tốt như chi phí đầu tư, chi phí vận hành, trình độ thiết kế chế tạo, vận hành. Trong đó các yếu tố vốn và vận hành là quan trọng nhất.
Một số công ty, nhà máy, chủ đầu tư đã có những đầu tư thích đáng cho hệ thống xử lý ô nhiễm không khí.
Khả năng, trình độ của các cán bộ khoa học ngành môi trwongf và công nhân việt nam hoàn toàn có khả năng thiết kế, chế tạo, vận hành có hiệu quả phần lớn các thiết bị xử lý ô nhiễm không khí nếu có sự đầu tư đúng mức.
Mảng 4: Tác hại của ô nhiễm không khí.
I/ Ảnh hưởng đến sức khỏe.
Ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường được mệnh danh là kẻ giết người thầm lặng. Ô nhiễm không khí không những gây nên các bệnh lý ở đường hô hấp, mà còn ảnh hưởng lên sự phát triển của thai nhi, là nguyên nhân làm chậm phát triển hệ thần kinh, trí não ở trẻ.
Tại hai bệnh viện nhi ở TP.HCM, số lượng trẻ đến khám, điều trị về các bệnh có liên quan đến ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng trong thời gian gần đây, đặc biệt là các bệnh lý ở đường hô hấp. Theo bác sĩ Hà Mạnh Tuấn - Phó giám đốc BV Nhi đồng 1 (TP.HCM): "Các bệnh đường hô hấp thường gặp ở trẻ vào viện đó là: viêm phổi, viêm tai giữa, suyễn... Ô nhiễm không khí trong nhà và ngoài môi trường tại Việt Nam là rất cao, điều này được lý giải bằng việc bệnh lý có liên quan đến ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở trẻ em. Ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến hô hấp, sự phát triển của thai nhi, làm chậm phát triển thần kinh, trí não, tâm thần vận động ở trẻ em".
Một số bệnh có mối liên quan chặt với ô nhiễm không khí đến khám, chữa trị tại Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP.HCM) ngày càng gia tăng như: suyễn (từ 3.074 trường hợp vào năm 1996 tăng lên 11.491 trường hợp vào năm 2005); nhiễm khuẩn hô hấp dưới (từ 2.727 trường hợp vào năm 1996 tăng lên 3.772 trường hợp vào năm 2005); viêm tai giữa (từ 441 trường hợp năm 1996 vào lên 1.999 trường hợp vào năm 2005)... Còn tại Bệnh viện Nhi đồng 2 (TP.HCM), PGS-TS Võ Công Đồng - Phó giám đốc bệnh viện cho biết, trong khi số lượng trẻ mắc các bệnh ký sinh trùng; nhiễm trùng nhập viện ngày càng giảm, thì bệnh lý hô hấp trẻ mắc phải ngày càng gia tăng (chiếm 40% - 50% số bệnh nhi nhập viện điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi đồng 2 trong thời gian qua). Một số bệnh do ảnh hưởng của môi trường, không khí ô nhiễm như: viêm họng, viêm phế quản, viêm phổi, hen phế quản...
Tại TP.HCM, các quận, huyện như: Q.Tân Bình, H.Bình Chánh, H.Hóc Môn, Q.8, Q.11... là những địa bàn chiếm tỷ lệ cao (trên mức 6%) trong tổng số các bệnh đường hô hấp ở trẻ em đến khám và điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng 1. Nguyên nhân là do những quận, huyện trên có mật độ dân cư đông, có nhiều nhà máy sản xuất, phương tiện giao thông... gây ô nhiễm, khiến trẻ em mắc các bệnh đường hô hấp cao hơn những nơi khác.
Theo bác sĩ Hà Mạnh Tuấn, ngoài các bệnh liên quan trực tiếp đến ô nhiễm không khí, một số bệnh có liên quan đến ô nhiễm không khí, đặc biệt là ô nhiễm trong nhà đã được đề cập đến trong nhiều nghiên cứu cũng gia tăng trong thời gian qua tại Bệnh viện Nhi đồng, đó là các bệnh: bại não, lymphoma, bạch cầu cấp, dị tật bẩm sinh. Đây là vấn đề cần phải khảo sát thêm vì mối liên hệ giữa ô nhiễm không khí và các bệnh trên khá phức tạp. Có thể thông qua người mẹ truyền qua nhau thai tác động lên bào thai gây ra các biến đổi, dị tật trên trẻ.
Báo cáo về "Hiện trạng ô nhiễm không khí tại TP.HCM" của Chi cục Bảo vệ môi trường (Sở Tài nguyên - Môi trường TP.HCM) mới đây cho thấy, không khí tại TP.HCM ngày càng bị ô nhiễm, chủ yếu bởi khí thải từ các nguồn giao thông vận tải và công nghiệp như: hoạt động giao thông (với gần 2,4 triệu xe hai bánh gắn máy và hơn 241 ngàn ô tô các loại tại TP.HCM); rồi các hoạt động sản xuất; công trình xây dựng; lượng người gia tăng... Do vậy, nồng độ bụi trong không khí ven đường ở TP.HCM luôn vượt mức cho phép, nhất là vào các tháng nắng.
Ở góc độ ô nhiễm không khí ngay chính trong nhà, bác sĩ Hà Mạnh Tuấn cho rằng: "Khói thuốc lá là yếu tố rất quan trọng gây ô nhiễm không khí trong nhà, gây tác hại chính lên hệ hô hấp của trẻ em, đặc biệt trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển của phổi. Khói thuốc là nguyên nhân làm trẻ bị nhiễm khuẩn ở đường hô hấp dưới; làm khởi phát và làm nặng cơn suyễn; làm giảm chức năng của phổi và còn làm tăng nguy cơ viêm tai giữa. Ngoài ra, người mẹ trong lúc mang thai sống nhiều trong môi trường có khói thuốc lá sẽ dẫn đến tác hại lên thai nhi như: sanh non, nhẹ cân, chậm phát triển về tâm thần, dị tật, ít hơn là dẫn đến một số bệnh ung thư ở trẻ". Nghiên cứu cho thấy, 5% trẻ em trong nước bị ảnh hưởng sức khỏe bởi tiếp xúc (thụ động) với khói thuốc lá. Đó là chưa nói đến ô nhiễm trong nhà do các chất đốt từ đun nấu, các chất xịt, tẩy rửa... là những nguyên nhân gây nhiễm khuẩn đường hô hấp cho trẻ em. Ô nhiễm không khí gây tác hại lên sức khỏe, nhất là sức khỏe trẻ em. Đặc biệt, trẻ dưới 5 tuổi là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, bởi cơ thể trẻ đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển, đồng thời ở lứa tuổi này trẻ hoàn toàn bị thụ động trước các ảnh hưởng có hại của môi trường do người lớn gây ra. Vì vậy, mỗi người cần góp phần làm giảm ô nhiễm không khí để bảo vệ sức khỏe, nhất là cho con em chúng ta.
II/ Ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động sản xuất.
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù". Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và các cánh đồng.
Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO2, đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH4 là 13%,, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%...
Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60 °C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C.
Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40 °C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng.
Mảng 5: Biện pháp xử lí ô nhiễm không khí.
I/ Một số đề xuất đối với vấn đề bảo vệ môi trường không khí trong khu vực
Khống chế và giảm thiểu ô nhiễm không khí, bảo vệ môi trường không chỉ đơn thuần là kết quả của việc xây dựng, lắp đặt các thiết bị xử lý mà phải là kết quả tổng hợp của nhiều biện pháp khác nhau.
1/ Biện pháp quy hoạch.
Đây là một biện pháp có thể coi là quan trọng hàng đầu nhằm khống chế và giảm thiểu tác hại của ô nhiễm không khí. Việc giải quyết tốt quy hoạch tổng thể ngay từ khi thành lập dự án nhà máy, khu công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Khi quy hoạch bố trí mặt bằng cho các nhà máy hoặc các khu công nghiệp, ngoài các yêu cầu về kinh tế, kỹ thuật, giao thông vận tải, mối quan hệ giữa các vùng các bộ phận, dự án nhất thiết phải chú ý đến những vấn đề môi trường theo những yêu cầu như sau:
Phân cụm các nhà máy: Các loại hình công nghiệp khác nhau có mức độ gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễn không khí của các nhà máy cũng khác nhau. Vì vậy khi bố trí các nhà máy cần chú ý việc phân chia thành các nhóm ngành có mức ô nhiễm nặng, trung bình, nhẹ hoặc ít ô nhiễm để bố trí thành các cụm gần nhau. Ví dụ có thể bố trí thành các cụm như:
• Các nhà máy có nguy cơ gây ô nhiễm không khí như các nhà máy sử dụgn nhiều nhiên liệu là dầu f.o: Nhà máy xi măng, nhà máy điện, nhà máy hoá chất, nhà máy sản xuất tôn tráng kẽm...
• Các nhà máy ít có nguy cơ gây ô nhiễm không khí như các nhà máy cơ khí, nhựa, chất dẻo, chế biến gỗ, các nhà máy lắp ráp các sản phẩm điện cơ điện tử...
• Các nhà máy không gây ô nhiễm như các nhà máy may mặc, sản xuất dụgn cụ học sinh, dụng cụ y tế, đồ dùng gia đình, các nhà máy giày dép...
Khoảng cách bố trí: Khoảng cách bố trí giữa các cụm nhà máy hoặc giữa các nhà máy là yếu tố quan trọng vì nó là yếu tố bảo đảm cho sự thông thoáng giữa các công trình. Mặt khác khoảng cách hợp lý sẽ loại trừ hay hạn chế lan truyền ô nhiễm giữa các nhà máy hoặc các cụm nhà máy, tạo điều kiện tách ly, chống lây lan hoả hoạn...tuy nhiên, trong khu công nghiệp vì nhiều lý do khác nhau biện pháp này khó có thể tuân thủ triệt để.
Vị trí bố trí: Vị trí nhà máy có ảnh hưởng rất lớn tới tình trạng ô nhiễm không khí khu vực xung quanh. Khi bố trí các nhà máy thì phải chú ý các yêu cầu sau:
• Khu công nghiệp phải được bố trí ở cuối hướng gió chủ đạo so với khu hành chánh - dịch vụ - thương mại.
• Trong khu vực có nhiều nhà máy thì các nhà máy gây ô nhiễm nặng phải bố trí ở sau hướng gió so với các nhà máy ít ô nhiễm hoặc ô nhiễm nhẹ.
• Các nhà thấp tầng bố trí đầu hướng gió, nhà cao tầng ở cuối hướng gió.
• Trong cùng nhà máy cũng phải quan tâm bố trí các bộ phận cho hợp lý như bố trí riêng biệt các khi sản xuất, khu phụ trợ, khu kho bãi, khu hành chính và có dải cây xanh ngăn cách các khu hành chính với các khu khác. Các hệ thống ống thải khí của nhà máy cần tập trung vào một khu vực tạo thuận lợi cho việc giám sát xử lý.
• Khu vực bố trí trạm máy điện dự phòng, khu xử lý nước thải tập trung, sử lý rác thải là những nơi phát sinh khí độc hại, gây mùi, cầ được đặt ở cuối hướng gió chủ đạo, có khoảng cách ly thích hợp.
Vùng cách ly vệ sinh khu vực: vùng cách ly vệ sinh công nghiệp là vùng đệm giữa các nhà máy, khu côgn nghiệp với khu dân cư. Kích thước của vùng cách ly công nghiệp được xác định theo khoảng cách bảo vệ về vệ sinh và các tiêu chuẩn nhà nước cho phép. Phần lớn các nhà máy, các khu công nghiệp tập trung ở khu vực hiện nay có khoảng cách ly vệ sinh là rất nhỏ.
2/ Biện pháp quản lý.
Các dự án nhà máy, khu công nghiệp tập trung trước lkhi triển khai thực hiện phải xây dựng báo cáo đánh giá tác động môi trường (đtm) giải trình các phương án khống chế ô nhiễm môi trường và được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trong quá trình xây dựngvà hoạt động của khu công nghiệp, phải chịu sự giám sát của cơ quan quản lý môi trường.
3/ Biện pháp kỹ thuật khống chế ô nhiễm không khí.
Để khống chế và giảm thiểu ô nhiễm không khí phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau bao gồm:
Biện pháp công nghệ: đây là biện pháp được coi là cơ bản, vì nó cho phép hạ thấp hoặc loại trù chất ô nhiễm không khí có hiệu quả nhất. Nội dung chủ yếu của biện pháp này là hoàm thiện công nghệ sản xuất và sử dụng chu trình kín.
+ Biện pháp công nghệ bao gồm sử dụng những công nghệ sản xuất không có hoặc có rất ít chất thải. Nó cũng bao gồm việc thay thế các nguyên liệu, nhiên liệu không độc hại hoặc ít độc hại hơn như thay thế nhiên liệu nhiều lưu huỳnh như khí đốt, thay dầu có hàm lượng lưu huỳnh cao bằng dầu có hàm lượng lưu huỳnh thấp... Nó cũng bao gồm cả việc sử dụng các phương pháp sản xuất không sinh bụi hoặc như thay thế phương pháp gia công nhiều bụi bằng phuương pháp gia công ướt ít bụi, thay việc đốt bằng ngọn lửa bằng việc đốt điện....
+ Biện pháp sử dụng chu trình kín có tác dụng loại trừ các chất ô nhiễm không khí ngay trong quá trình sản xuất bằng cách sử dụng tuần hoàn bộ hoặc một phần các khí thải một lần nữa để sản xuất thải ra ít độc hoặc không độc. Bao kín các thiết bị máy móc, cũng là một yêu cầu nghiêm ngặt để bảo vệ môi trường.
Biện pháp quản lý và vận hành: việc vận hành và quản lý thiết bị máy móc cũng như quá trình công nghệ cũng là một biện pháp để khống chế ô nhiễm không khí, nghiêm túc thực hiện chế dộ vận hành, định lượng chính xác nguyên vật liệu, chấp hành đúng quy trình công nghệ sẽ làm cho lượng chất thải giảm xuống và có điều kiện quản lý chặt chẽ nguồn và lượng thải.
Sử dụng cây xanh để hạn chế ô nhiễm không khí: cây xanh có tác dụng rất lớn trong việc hạn chế ô nhiễm không khí như hút bụi, giữ bụi, lọc sạch không khí, hút tiếng ồn và che chắn tiếng ồn, giảm nhiệt độ không khí, một số loài cây có thể hấp thụ các kim loại nặng như chì, cadmium...ngoài ra một số các loại cây xanh rất nhạy với ô nhiễm không khí cho nên có thể dùg cây xanh để làm vật chỉ thị nhằm phát hiện chất ô nhiễm không khí. Vì vậy cần trồng nhiều cây xanh trong khuôn viên và xung quanh chu vi các nhà máy, dọc các đường giao thông, trong khu đệm giữa các khu công nghiệp, thương mại và dân cư. Tỷ lệ diện tích cây xanh trên diện tích khu công nghiệp phải đạt từ 15 - 20%.
Biện pháp sử dụng thiết bị xử lý ô nhiễm không khí: trong nhiều trường hợp các biện pháp nói trên chưa đủ để làm giảm ô nhiễm không khí trong môi trường, hoặc không kinh tế thì biện pháp kỹ thuật và thiết bị để xử lý các chất ô nhiễm không khí trước khi thải ra. đối với biện pháp này chúng tôi có một số kiến nghị cụ thể như sau:
+ Bắt buộc tất cả các nhà máy, xí nghiệp có khí thải ra môi trường vượt tiêu chuẩn cho phép đều phải lắp đặt các hệ thống xử lý. điều này vừa nhằm mục đích bảo vệ môi trường, vừa tạo nên sự công bằng cho các nhà máy xí nghiệp, khi lưu ý rằng chi phí đầu tư và chi phí vận hành hệ thống xử lý khí thải có thể làm tăng đáng kể giá thành sản phẩm.
+ Trừ một số ít nhà máy hiện đại, vốn đầu tư lớn có thể ứng dụng các công nghệ xử lý tiên tiến nhất, các nhà máy còn lại có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xử lý ô nhiễm không khí bằng phương pháp thiêu đốt.doc