Mục Lục
Lời Mở Đầu
Xứ Nghệ - Quê Hương Chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Đôi Nét Về Gia Phong Xứ Nghệ
2.Văn Hóa Ẩm Thực Xứ Nghệ
3.Hồ Chí Minh - Chân Dung Một Con Người
4.Bác Hồ Và Quê Hương Nghĩa Trọng Tình Cao
5.Dấu Ấn Quê Hương Xứ Nghệ Trong Cuộc Đời Hồ Chí Minh.
6.Tổng kết
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4656 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xứ Nghệ - Quê Hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n là đầu mối giao thông quan trọng giữa miền Bắc và miền Nam.Khách đi du lịch theo tuyến quốc lộ 1A ngày càng tăng, lượng du khách đến với Nghệ An theo đó cũng tăng. Thành phố Vinh từ lâu đã hấp dẫn du khách bởi một quần thể khu du lịch với những nét đặc trưng tiêu biểu của một đô thị xứ Nghệ. Đến với thành phố Vinh, du khách có thể tham gia với nhiều loại hình du lịch như: du lịch nghiên cứu, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng…
Cách thành phố Vinh 120km về phía Tây Nam, vườn quốc gia Pù Mát thuộc huyện Con Cuông, nằm trên sườn đông của dải Trường Sơn, dọc theo biên giới Việt Lào. Nơi đây có một số loài động vật, thực vật quý hiếm, cần phải được bảo tồn nghiêm ngặt như: sao la, thỏ vằn, niệc cổ…
Hiện nay, nhiều tổ chức bảo vệ môi trường thế giới cũng như trong nước đang có các dự án để bảo tồn và phát triển vườn quốc gia Pù Mát. Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống tạo thành khu du lịch sinh thái. Nghệ An còn là nơi có nhiều món ăn ngon, đặc sản nổi tiếng như cháo lươn Vinh, cơm Lam, nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn, cam xã Đoài…là những sản phẩm du lịch có sức cuốn hút khách du lịch quốc tế và trong nước.
Thiên nhiên tuyệt vời như vậy, văn hóa, con người Xứ nghệ cũng thật đặc biệt. Nó khiến người khác cũng phải lưu luyến, ghi đậm trong lòng. Xứ nghệ cũng là nơi sớm có con người sinh sống, nơi đã góp phần dựng nên nước Việt ngày nay, góp phần tạo dựng nền văn hóa của dân tộc Việt. Không được thiên nhiên ưu đãi cho ruộng đồng phì nhiêu, mưa thuận gió hòa nên người dân nơi đây đã sớm hun đúc nên một tinh thần nhẫn nại, kiên quyết của một cư dân nông nghiệp chật vật giành lấy một chỗ sống dưới mặt trời.Vì vậy người Xứ nghệ có tiếng là gân guốc, khô khan, rắn rỏi, tư duy thường cứng nhắc rạch ròi. Trước một sự việc, người xứ nghệ thường căng ra suy nghĩ phân tích cho rõ trước sau, phải trái, trắng đen. Cách nói thường nặng nề, thiếu uyển chuyển . Nổi bật của người Xứ nghệ là hành động, hành động đấu tranh đến quên mình. Thế nên người xứ Nghệ cũng có phần hơi khác : chịu gian khổ, chứ nhất quyết không chịu nhục, gan góc có phần bướng bỉnh mưu trí đến liều lĩnh nhưng nổi hơn hết đó là khẳng khái, thẳng thắn, biết quên mình vì nghĩa lớn, ý thức cộng đồng mạnh mẽ, tha thiết yêu quê hương đất nước.
Từ đức tính đó, miền quê này đã sản sinh ra biết bao lãnh tụ kiệt xuất từ vua Mai đến Quang Trung, Phan Bội Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh…Đó là những sao sáng của nước Việt, là niềm tự hào của người dân Xừ nghệ. Đất Xứ nghệ còn tự hào là vùng đất học. Sự học ở đây không chỉ cho hiểu biết mà còn để “đổi đời”, học để “lấy chữ làm sang”.
Thời đại nào cũng vậy, học trò Xứ nghệ cũng đỗ đạt cao, đóng góp cho nhà nước nhiều nhân tài, nhiều nhà khoa học. Khi nói đến xứ Nghệ, người ta thường hay nhắc “ông đồ Xứ nghệ”. Họ là những trí thức được học chữ thánh hiền ,nhưng vì lí do nào đó mà không thể làm quan nên đành quay về nghề dạy học, khăn gói đi khắp bốn phương tìm nơi gieo chữ. Thầy đồ nơi đây còn mang biệt danh “ông đồ gàn”. Gàn của ông đồ Nghệ là bắt nguồn từ ý thức buộc thiên nhiên, buộc hiện thực phải theo lí trí, bắt nguồn từ tính cách của một cộng đồng bất chấp khắc nghiệt của vùng đất khô cằn sỏi đá nhằm “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” để tạo nên sự sống, bắt nguồn từ ý thức biết vượt qua hoàn cảnh bằng lòng quyết tâm nhiều khi đẫm máu…Duy ý chí của người Xứ nghệ. Dù nghèo khó phải tằn tiện khăn áo đi khắp nơi làm nghề gia sư, gõ đầu trẻ để kiếm miếng cơm manh áo với giai thoại “cá gỗ” đeo đẳng suốt hành trình nhưng ông đồ Nghệ không bao giờ hèn kém. Tính gàn không chỉ ở mình ông mà của cả người Xứ nghệ. Thế mới có câu :
“Không đi không biết Nghệ An
Đi rồi mới thấy nói gàn làm sao”
Gàn của người Xứ nghệ chính là trạng thái tâm lý mà ở đó có sự khác biệt, sự xung đột giữa lí trí, và hiện thực, bắt hiện thực phải chiều theo tư duy của lí trí. Đó là thể hiện sự quyết tâm nhưng nhiều khi lại dẫn đến nhận thức và hành động có phần “lệch chuẩn” của người dân nơi đây.
Phải chăng tính gàn, tính cương trực, rắn rỏi, bất chấp là nét chung của người Xứ nghệ. Nhưng cũng không đâu như nơi đây, dù đời sống còn khó khăn mà người ta lại thích bàn chuyện “trên trời”, bàn chuyện văn chương, âu đó cũng là để quên đi những khó nhọc của đời thường.Vậy nên, kho tàng văn học dân gian Xứ nghệ vô cùng phong phú. Qua những câu hò, điệu ví, người Xứ nghệ đã gửi gắm cả tình cảm, kinh nghiệm sản xuất, tri thức cuộc sống đã được cộng đồng tích lũy và được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, chỉ duy nhất ở quê tôi có loại dân ca theo thể thơ năm chữ, nguồn mạch ấy dường như không cạn, dù gjờ đây đã có nhiều loại hình sinh hoạt mới. Đó cũng là vườn ươm cho biết bao nhà văn nhà thơ của đất nước. Không đươc thiên nhiên ưu đãi, nên người quê tôi đã hun đúc một tinh thần để giành lấy sự sống cho cộng đồng rèn cho mình một ý chí vươn lên, rèn cho người Xứ nghệ một tính cách mạnh mẽ, dám xông pha, chịu gian khổ, sẵn sàng hi sinh để cuộc sống tốt đẹp hơn .
Vùng đất trên nắng chói dưới đất khô cằn đã sản sinh những con người nặng ân tình, nghĩa thủy chung, luôn ý thức vì cộng đồng luôn cân nhắc điều ăn lẽ ở của mình đến mức:
“Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm.”
1. Đôi Nét Về Gia Phong Xứ Nghệ
Nghệ An là vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa và truyền thống cách mạng.Với vị trí chiến lược quan trọng, Nghệ An luôn là “ phên dậu của nước nhà”, là “thành đồng ao nóng”, là “then khóa của mọi thời đại”. Từ những thế kỉ trước, Nghệ An là vùng biên viễn của nước Đại Việt, cũng là nơi dân tộc ta đi tiếp cuộc hành trình mở mang bờ cõi về phương Nam. Xa trung tâm nên sự quản lý,ràng buộc của Nhà nước Đại Việt đối với vùng đất này còn khá lỏng lẻo. Suốt cả một thời gian dài, các triều đại phong kiến chưa đủ sức quản lí chặt chẽ và giữ vững an ninh trật tự ở vùng đất này. Vì thế, các cộng đồng dân cư ở đây phần lớn phải tự bảo vệ cho sự bình yên của mình. Mặt khác, do thường xuyên phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt ( nắng, nóng, bão lụt, thiên tai…) nên con người nơi đây đã phải vươn lên bằng sức mạnh của ý chí và nghị lực để tồn tại và phát triển. Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên nét gia phong của người Nghệ An.
Gia giáo, gia pháp, gia huấn, gia lễ, gia phả… được coi là những yếu tố cơ bản để hình thành nên gia phong. Nhưng điều quan trọng là ông bà, cha mẹ, phải sống mẫu mực, phải luôn luôn làm gương cho con cháu và luôn luôn nhắc nhở con cháu sống theo điều hay lẽ phải, tránh những điều xấu điều ác theo những quy định cụ thể của gia phong.
Tùy theo hoàn cảnh sống, tùy theo nghễ nghiệp, theo truyền thống mà gia phong ở những gia đình có nét khác nhau: gia đình trí thức khác gia đình quan chức, gia đình nông dân khác gia đình ngư dân…
Nhưng nhìn chung đều có những quy định đã được phổ biến đó là lòng biết ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ, lòng hiếu để, sự cần kiệm, sự chịu thưong chịu khó. Đó là tình làng nghĩa xóm, lòng yêu quê hương, đất nước. Một trong những điều ở gia phong xứ Nghệ có nội dung đó là :
- Sống có tình nghĩa, khoan dung, độ lượng, cởi mở, trung thực, phải biết lấy tình nghĩa làm chất keo sơn, gắn bó mọi thành viên trong gia đình tạo nên sự đồng lòng để vượt qua mọi thử thách.
- Sống phải khí khái trong sạch, coi thường danh vọng tiền tài “đói cho sạch,rách cho thơm”, ” giấy rách phải giữ lấy lề”, có thể nói, sự khí khái đã trở thành một phương diện cá tính đã in dấu trong gia phong của nhiều gia đình xứ Nghệ. Đôi khi nó còn chứa đựng cả cái “ gàn”, nhưng không phải là thứ gàn dở thông thường đáng ghét mà là một hình thức đặc biệt để bao bọc nhân phẩm con người.
- Phải cần, kiệm biết chịu đựng gian khổ nhưng quyết không chịu nhục, biết tính lo xa bởi vì cuộc sống quá nghèo thiếu và bởi những bất trắc và hiểm họa luôn luôn rình rập và đe dọa, phải biết chi tiêu hợp lý phù hợp với hoàn cảnh của mình.
- Gia phong Nghệ An rất chú ý giáo dục xây đắp truyền thống yêu nước và cách mạng, giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc, dám xả thân vì nghĩa lớn.
- Nét tiêu biểu rất đáng quý và trân trọng được cả nước biết đến và kính nể trong gia phong xứ Nghệ là nêu cao truyền thống hiếu học, coi trọng mục đích và hiệu quả của việc học - tinh thần hiếu học, ý chí sắt đá, thái độ tôn sư trọng đạo là những nếp gia phong cổ vũ người xứ Nghệ khổ học thành tài để làm nên nghiệp lớn.
2. Văn Hóa Ẩm Thực Xứ Nghệ
Không cần cầu kỳ, hoa mỹ để có món ăn ngon. Người dân xứ Nghệ chỉ cần những gì bình thường, dung dị nhất để tạo ra những món ăn cho mình.Tuy vậy, nếu ai đã được ăn những món bình dân nơi đây chắc sẽ còn nhớ mãi. Tất nhiên, người thưởng thức phải thực sự là người bình dân hoặc gắn bó với người bình dân mới cảm nhận được giá trị của món ăn đó.
Ví như ở xứ Nghệ có lọai cây giống cọ, gọi là “cây tro”. Cây tro có quả như quả trám, được dùng làm món ăn, người xứ Nghệ gọi là “trấy tro”, tro ăn với bánh đúc rất ngon, đến nỗi người ta bảo nhau : “bánh đúc trấy tro bán bò không kịp”. Loại thực phẩm như vậy có gì cao sang đâu, vậy mà người xứ Nghệ rất thích. Người Nghệ không thích những món ăn màu mè, xào nấu, tô điểm công phu mà chỉ thích những món chân chất thô sơ, mộc mạc. Nào rau muống, cà muối, “măng chua - nước chát”, nào ”bún, giá, cá, ruốc”. Ngay trong cách chế biến, nấu nướng, người xứ Nghệ nấu nướng một cách đơn giản, không cầu kì “chặt to kho mặn” là tác phong quen thuộc của các bà nội trợ. Các thứ để gia giảm họ chỉ thêm những gì dễ kiếm và bình dị nhất. “cá đồng nấu khế, cá bể nấu dưa”, hoặc “cá bống kho tiêu, cá thiều kho mỡ” những nguyên liệu, dụng cụ mà người Nghệ dùng trong việc ăn uống cũng thường là những loại to lớn, gần với thực trạng lớn lao trong thiên nhiên chứ không phải những thứ thanh mảnh như gạo nếp Voi, chè xanh phải là chè cốt, bát đêm xới cơm hay múc nước phải là loại bát to gọi là “đọi nậy”. Ngay khi ăn uống, người dân có cách ăn mạnh mẽ, đôi khi quyết liệt ào ào. Bánh đúc thì phải bẻ ba, cá trích phải cắn ngang. Nhưng không phải ở vùng đất này không có những món ăn cao cấp. Người xứ Nghệ cũng rất thành thạo cách chế biến các thức ăn trong những ngày có cỗ bàn, ngày lễ, Tết. Người ta cũng làm các loại giò hoa, chả lụa rất cầu kỳ, làm các loại bánh trong, bánh lọc… Người ta biết chọn những thức ăn kết hợp với nhau, thành một thứ mĩ vị vừa có giá trị dinh dưỡng, lại vừa là loại hiếm hoi.
Đỏ vàng son, ngon mật mỡ, là chỉ các loại bánh tùng, bánh ngào, có một hương vị rất riêng, khác với các loại bánh mật ở vùng khác.Và đặc biệt, ở Nam Đàn có một loại tương Bần, ngon nổi tiếng cả nước và còn rất nhiều ẩm thực khác.Bên cạnh ăn, thì uống ?
Uống cũng vậy thôi, bát nước chè xanh chiều tối bày trên chiếc chiếu trải giữa đất, hay trên những chiếc chõng tre, để mời bà con chòm xóm quây quần nhấm nháp. Những bát nước ấy là cả nghĩa tình.
3.Hồ Chí Minh –Chân Dung Một Con Người.
Ở Pari có bức tường “Những người làm nên ở thế kỉ 20” có nụ cười Bác Hồ ở đây, giữa những trí tuệ, những tâm hồn lớn ở thời đại chúng ta. Trong một thế giới vẫn còn nhiều bạo ngược và lẫn lộn, đã có một cuộc đời Hồ Chí Minh, một con người Hồ Chí Minh.
Người ta có thể gọi Bác bằng nhiều cách khác nhau : một vị lãnh tụ, một người cộng sản chân chính, một tâm hồn và trí tuệ lớn lao, một con người của những quyết định lịch sử, nhưng trên hết thảy, Hồ Chí Mnh là một người con yêu nước vĩ đại đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ngày 19 tháng 5 năm 1890, cậu bé Nguyễn Sinh Cung cất tiếng khóc chào đời tại quê ngoại làng Chùa, Nam Đàn, Nghệ An. 500 năm trước, chúng ta có người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, 500 năm sau, theo đúng lời sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Đụn Sơn phân giải, Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh”, chúng ta có Hồ Chí Minh.
Tuổi thơ của cậu bé Cung đã chứng kiến kiếp sống nô lệ lầm than của dân tộc dưới nhiều tầng áp bức. Ngày vua Thành Thái bị thực dân Pháp bắt đi đày, vua đã khẳng khái : “Muôn dân nô lệ từng đàn. Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta”. Khi đó Nguyễn Sinh Cung đang ở Huế cùng cha, trước cảnh đó, cậu đã cúi mặt xuống để không rơi lệ, nhưng cha cậu - nhà Nho yêu nước Nguyễn Sinh Sắc đã nhắc cậu ngoảnh mặt lên nhìn để không quên thù nhà nợ nước vẫn còn chưa trả xong. Từ đó đến mấy chục năm về sau, người thanh niên yêu nước đó không bao giờ cúi mặt nữa, không bao giờ chịu khuất phục trước bất kì sức mạnh nào, kể cả sau này là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc,Văn Ba, Lý Thụy, Hồ Quang, Bác Hồ hay Hồ Chí Minh.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Nhà Rồng với đôi bàn tay trắng. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Rồi anh sang Liên Xô để hoạt động cách mạng Quốc tế. Năm 1924, Lý Thụy sang Trung Quốc, thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Quảng Châu, đồng thời viết cuốn Đường cách mệnh.
Sau 30 năm bôn ba, đến năm 1941, Người trở về Việt Nam, thành lập Mặt trận Việt Minh, từ đây Người là Hồ Chí Minh, trực tiếp lãnh đạo Đảng Cộng Sản Đông Dương và phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Trong thư gửi đồng bào Nam bộ Bác viết :
Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài ,nhưg ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi tổ tiên ta.
Năm 1946, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người khẳng định :
Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ.
Bằng niềm tin sắt đá và nhiệt huyết của mình, Người đã nêu gương sáng của một người Việt sống có lý tưởng :
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
Trí ta đã quyết, lòng ta đã đồng
Tiến lên chiến sĩ, tiến lên đồng bào
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông
Trường kì kháng chiến, nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập, nhất định thành công.
Cuộc đời Bác còn có gì đặc biệt? Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tùng, Bác đã tự nhận là người không có gia đình và không có con nhưng “ gia đình tôi là Việt Nam,con cái tôi là các thanh niên Việt Nam”. Hiếm có vị lãnh tụ nào nếm mật nằm gai chịu khổ cùng quân dân trong những năm kháng chiến, rồi lại sát cánh cùng cả nước dựng xây trong những năm hòa bình như Hồ Chí Minh đã làm. Cho dù không phải tất cả đều diễn ra như mong muốn. Trước những sai lầm nặng nề trong cải cách ruộng đất bởi tính giáo điều bảo thủ và áp đặt Cộng sản. Bác đã khóc nhận trách nhiệm và tự phê bình trước toàn dân :
“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận những khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có, và tìm mọi cách sửa chữa những khuyết điểm đó, như thế mới là một Đảng mạnh dạn, chắc chắn là chân chính”.
Những năm sau khi hiệp định Giơnevơ bị phá vỡ, đất nước bị chia cắt lại phải lo thù trong giặc ngoài, một mặt là sự đành phá khốc liệt của đế quốc Mỹ tại miền Bắc Việt Nam, một mặt là sự chống Cộng điên cuồng của chính quyền tay sai miền Nam Việt Nam, dân tộc ta vẫn kiên cường đi theo con đường đã vạch ra, đấu tranh không mệt mỏi giữa một bên là sức mạnh vật chất kinh khủng và mù quáng với một bên là sự lựa chọn trí tuệ và tình thương của từng con người. Trong những lúc cam go khó khăn nhất đó, Người vẫn vững một niềm tin, bởi đến ngày thống nhất, chúng ta sẽ xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Thế giới đánh giá ra sao về vị Chủ tịch nước này?
Họa sĩ Thụy Điển Eric Johanson nói về Nguyễn Ái Quốc : “ Đó là một con người kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực, một con người uyên bác”.
Còn nhà thơ Xô Viết Oxit Mangdenstand đã viết :
“Cả khuôn mặt Nguyễn Ái Quốc toát lên sự lịch thiệp và tệ nhị, từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải nền văn hóa ở Châu Âu mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai. Qua cử chỉ cao thượng và tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên biển lặng của nền hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”.
Tạp chí TIME đánh giá Bác là một trong những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất của thế kỉ 20.
Cuộc sống riêng của Người cũng có nhiều điểm đáng nói. Quê hương nghĩa nặng tình sâu, nhưng cả một đời vì nước vì non, cho đến khi luống tuổi Bác mới chỉ kịp về thăm quê đôi lần. Khi nhà nước có ý định trùng tu lại khu di tích này có đặt cổng ở phía vườn, lúc Bác về thăm mới chỉ ra rằng xưa kia cổng nhà Bác nằm ở phía này, khung cửi cũ của mẹ Bác - bà Hoàng Thị Loan, đặt ở phía kia. Vậy là suốt mấy chục năm bôn ba, cậu bé Cung vẫn nhớ như in những hình ảnh ngôi nhà nhỏ của ông Phó bảng đã nuôi dưỡng tâm hồn Người ngày nào.
Trong thư gửi anh cả Nguyễn Sinh Khiêm, Bác viết :
Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc Anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc Anh tạ thế tôi không thể lo việc. Than ôi ! Tôi chịu tội bất đễ trước linh hồn Anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước.
Thân sinh Bác, cụ Nguyễn Sinh Sắc, mất tại miền Nam, Bác còn chưa về thăm được.
Tuổi xế chiều, Bác Hồ đã sống nơi đây, đúng như mong muốn của Người được sống trong ngôi nhà nhỏ, có vườn cây ao cá, sớm chiều bầu bạn với các cụ già em nhỏ, xa lánh vòng danh lợi. Cuộc sống vật chất của Người chỉ nhỏ bé vậy thôi, trái ngược với ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
4.Bác Hồ Và Quê Hương Nghĩa Trọng Tình Cao
Quê Bác nằm ở hạ lưu sông Lam của xứ Nghệ, nơi hội tụ của các trung tâm văn hóa vùng Bắc Trung Bộ, nơi phát tích nhiều nền văn hóa cổ, một vùng văn hóa dân tộc học đặc sắc. Bác sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, ở một vùng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mạng.
Vùng quê ấy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước thường xuyên đương đầu với muôn vàn giặc giã, thiên tai, trong khổ đau vẫn gan góc, trong mất mát vẫn kiên cường. Truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương đã ảnh hưởng to lớn và sâu sắc tới tuổi ấu thơ của Bác, đến việc hình thành nhân cách, tư tưởng của Người.
Người yêu quý, giữ gìn, nhập tâm nhiều làn điệu hát ví, hát dặm, hát phường vải của quê nhà. Người ưa lẩy Kiều và đã vận dụng nghệ thuật dân gian này đến độ sáng tạo, tinh tế. Người sử dụng rộng rãi, linh hoạt các thể loại văn học truyền thống, các hình thức sinh họat văn học dân dã như tập Kiều, lẩy Kiều, tập cổ, thơ lục bát, thơ tự vịnh, thơ cổ điển, thơ mừng tuổi, thơ chúc Tết. Trong thơ văn, Người hay dùng tục ngữ ca dao, dân ca, lối nói ví von, so sánh sinh động, dễ hiểu của nhân dân lao động.
Trên con đường hoạt động cách mạng của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt chân lên hầu khắp các châu lục, nhiều quốc gia, nhiều nền văn hóa, thông thuộc nhiều thứ tiếng nước ngoài.Vậy mà một đêm ở Thái Lan xa xôi, Người thốt lên:
“Xa nhà mấy chốc mấy mươi niên
Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”.
Người vẫn giữ cho mình giọng Nghệ nằng nặng, trầm ấm vang vọng của quê nhà. Sau hàng chục năm xa quê, ngày trở lại, Người xúc động nói :
“ Quê hương nghĩa trọng tình cao
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”
Người không quên lối nhỏ vào nhà ngày xưa,cây bưởi trước nhà,cây mít,hàng cau phía sau,chiếc võng tuổi thơ,chiếc rương gỗ nhỏ - của hồi môn ít ỏi của mẹ,khung cửi của mẹ,chiếc phản gỗ và mấy pho sách của cha,những câu chuyện kể của bà.
Người nhớ và ghi sâu công đức người thầy khai tâm của mình,những kỉ niệm với người bạn câu cá,nhà ông thợ rèn,những buổi trưa thả diều,chăn trâu, đánh trận giả….
Người nhớ và nhắc cho ca sĩ quê nhà hai câu cuối của một bài hát dân ca về cách phát âm,cách luyến láy một số từ giọng Nghệ khi hát xướng.
Trong bữa ăn thường nhật,Người ưa món tương,món nhút,quả cà giòn tan mằn mặn của quê xa.
Quê hương Người có rất nhiều truyền thống quý báu, mang đặc trưng văn hóa Xứ nghệ khó lẫn. Tuy nhiên, con người con người vùng đất ấy cũng có những hạn chế khó tránh khỏi. Để khắc phục những hạn chế ấy, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ nhân dân tỉnh nhà rằng : phải biết phát huy lòng yêu nước, tinh thần bất khuất trước địch họa, thiên tai, cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình, giản dị, mộc mạc, ngay thẳng trong điều ăn lẽ ở.
Đồng thời cũng phải biết khắc phục tâm lý nông dân sản xuất nhỏ, manh mún, hẹp hòi, tiết kiệm quá thành hà tiện, ít giao tiếp nên dễ kém năng động, chỉ ham cái lợi trước mắt mà không lo cái lợi to lớn lâu dài, kiên định không đúng cách dễ trở thành bảo thủ, quan liêu, duy ý chí.
Hồ Chí Minh là tấm gương thanh cao về nếp sống giản dị, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, dĩ công vi thượng. Nếp sống đó không chỉ có ở Người khi hoạt động cách mạng bí mật, gian khổ, hiểm nguy mà giữ nguyên vẹn khi Người là chủ tịch nước yêu kính của dân tộc.
5. Dấu Ấn Văn Hóa Xứ Nghệ Trong Cuộc Đời Hồ Chí Minh
Con người làm nên xã hội. Gia đình làng xã là thành tố của địa phương, của đất nước. Gia đình, làng xã gắn bó với vận mệnh của quốc gia. Vì vậy lẽ đương nhiên lịch sử đất nước cũng mang trong mình lịch sử của một địa phương. Đồng bào dân tộc, giang sơn đều gói gọn trong một từ Tổ quốc linh thiêng.
Huyện Nam Đàn trong lịch sử Việt Nam là vùng đất “ trùng lai danh thắng địa” và “ cổ lai đa hào kiệt”. Nam Đàn có dòng sông Lam, núi Đại Huệ, có ruộng lúa, vồng khoai, hồ sen, lũy tre xanh, con đường đỏ, tiếng chào hỏi, ngọn gió thổi, cánh diều bay…tự bao đời vẫn vậy mà sao cứ náo nức, bịn rịn, tự hào, thân thương mỗi khi nhắc đến.
Mỗi một con người, dù đó là ai - là một người bình thường hay là một vĩ nhân, đều có một quê hương. Quê hương là nơi mỗi chúng ta được sinh ra và đón nhận những dấu ấn đầu đời. Những dấu ấn, cảm nhận đó đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi chúng ta, từ đó hình thành nên những tâm tư tình cảm, tư tưởng, phong cách của mỗi người trong cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta cũng vậy, Bác được sinh ra và sống những năm tháng tuổi thơ ở quê hương xứ Nghệ. Đây là một miền quê nghèo, người dân quanh năm phải chống chọi với thời tiết khắc nghiệt để sinh sống và chống giặc ngoại xâm để bảo vệ quê hương. Chính vì vậy, con người xứ Nghệ luôn có những đức tính cần kiệm, yêu lao động, đặc biệt là tinh thần yêu nước nồng nàn, sự đoàn kết, yêu thương, nhân ái. Bên cạnh đó, con người ở đây còn có tinh thần lạc quan, ham học hỏi để khắc phục thiên nhiên, cải tạo cuộc sống. Mạng đậm dấu ấn văn hóa của núi Hồng, sông Lam, những làn điệu dân ca, câu hò ví dặm…đã tạo nên những nét độc đáo, riêng biệt không thể lẫn với bất kì vùng nào. Sống trong một miền quê trù phú về văn hóa, tiếp xúc và cảm nhận được những tình cảm quê hương - từ nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được lắng nghe những điệu hò, câu ví qua giọng hát của bà, của mẹ, tiếp xúc với những tình cảm xóm làng. Lớn lên được sự chỉ bảo, dạy dỗ nghiêm khắc của cha, sự yêu thương của mẹ và nhất là sự kèm cặp của ông ngoại nên dấu ấn văn hóa xứ Nghệ càng thấm sâu vào trong tư tưởng, tình cảm của Người. Dấu ấn xứ Nghệ ấy trong Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp một phần rất lớn trong việc hình thành phong cách của Người.
Cụ thể, dù bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước, dù trong lao tù của thực dân hay trong gian khổ của cuộc trường kỳ kháng chiến nhưng lúc nào Người cũng luôn đau đáu nỗi nhớ về quê hương - nơi có những người thân yêu nhất của mình. Với Người, tình cảm quê hương là những gì thiêng liêng nhất.
Những cán bộ, nhân viên, chiến sĩ…có vinh dự được sống gần gũi với Người đều có chung một nhận xét : “từ thuở niên thiếu cho đến lúc về già, từ người thanh niên yêu nước đến khi trở thành lãnh tụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mang đậm phong cách quê hương xứ Nghệ qua từng lời nói, việc làm.
Trong tư tưởng tình cảm của Hồ Chí Minh, sự giản dị đơn sơ trong cuộc sống là sự chí công vô tư, vượt lên hết thảy mọi sự ham muốn vật chất đời thường và đó cũng là sự cần kiệm trong cuộc sống - một đức tính tốt đẹp của người dân xứ Nghệ.
Sau khi giải phóng Thủ đô, cuối năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh về sống và làm việc tại Phủ chủ tịch. Lúc đầu Thường vụ Trung ương Đảng sắp xếp cho Người ở tại ngôi nhà trước đây của Toàn quyền Pháp - một ngôi nhà sang trọng và đầy đủ tiện nghi. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khước từ và chọn cho mình một ngôi nhà của một công dân thợ điện để làm việc cho gần gũi với anh em và các đồng chí của mình. Sau này nơi ở của Người ngôi nhà sàn đơn sơ giữa vườn cây ao cá giản dị đã đi vào huyền thoại.
Những đồng chí có dịp được ở gần Người, khi tận mắt chứng kiến bữa ăn của một vị Chủ tịch nước đều nhận xét : Người vẫn nhớ những món ăn đạm bạc của quê hương. Trên mâm cơm vẫn bát canh, quả cà, miếng cá kho hoặc thịt kho, tuyệt nhiên không thấy những món ăn đặc sản xa cách với người lao động.
Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “dùng cơm với Cụ hàng trăm lần, lần nào cũng thấy Cụ tém vén không để rơi một hạt cơm nào bởi vì Cụ trọng công đức của người lao động đã làm ra hạt lạc, hạt gạo. Chuyện nhỏ, đức lớn hài hòa ở một con người”.
Cách ăn mặc của Người cũng thật giản dị, thanh tao từ quần áo Người mặc, đôi dép cao su Người đi đều đã mang đậm dấu ấn cần kiệm của văn hóa xứ Nghệ.
Trong bảo tàng Hồ Chí Minh hiện nay vẫn lưu giữ bộ quần áo kaki Người mặc lúc sinh thời. Trước đây, khi thấy Người mặc bộ quần áo kaki cũ, các đồng chí phục vụ có ý đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Dấu ấn quê hương xứ nghệ trong con người chủ tịch Hồ Chí Minh.doc