Tiểu luận Xu thế FDI thế giới 3 năm gần đây

Mục Lục Trang

I. XU THẾ FDI THẾ GIỚI 3 NĂM GẦN ĐÂY 1

1. Tổng quan tình hình FDI toàn cầu 2

2. Mua lại và sát nhập (M&A) khẳng định là hình thức chủ yếu của FDI trong giai đoạn hiện nay. 7

3. Sức mạnh chi phối dòng chảy FDI toàn cầu của các TNCs ( Công ty xuyên quốc gia) 10

4. Sự nổi lên của các quỹ SWFs như một hình thức mới trong các hình thức đầu tư trực tiếp. 16

5. Dù vẫn tồn tại các rào cản nhưng nhìn chung các chính sách đều được sửa đổi nhằm thu hút FDI. 19

6. Thực tế cụ thể dòng vốn FDI ở các khu vực trên thế giới 3 năm vừa qua. 21

7. Đối diện chướng ngại vật mang tên Khủng Hoảng Kinh Tế Thế Giới 2008, các kịch bản có thế xảy ra cho bộ mặt FDI toàn cầu trong những năm tiếp theo. 32

II. VIỆT NAM NÊN ỨNG XỬ NHƯ NÀO ĐỂ DUY TRÌ THU HÚT FDI TRONG TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI BẤT ỔN HIỆN NAY. 34

 

 

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2336 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xu thế FDI thế giới 3 năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
loại quỹ này có thể xuất phát từ nguồn vốn ban đầu, hoặc có thể là từ các tài khoản tiền gửi nước ngoài, vàng, SDRs và IMF cùng với các tài sản quốc gia khác như: quỹ hưu trí, quỹ dự trữ dầu, hoặc các tập đoàn công nghiệp và tài chính do các ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý tiền tệ kiểm soát. Đây là những tài sản thuộc chủ quyền của một quốc gia và có thể được chuyển sang dự trữ dưới các dạng ngoại tệ mạnh như đồng đô la Mỹ, đồng Yên Nhật hoặc đồng Euro. Hình thức của những khoản đầu tư được chấp nhận sinh ra từ quỹ SWF rất khác nhau ở mỗi nước; những quốc gia đang bị quan ngại về tính lỏng sẽ giới hạn những khoản đầu tư đối với những công cụ nợ công chúng có tính lỏng cao. Một số quốc gia đã tạo ra các quỹ SWF để đa dạng hóa dòng thu nhập của họ. Ví dụ, các nước thuộc Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) trông cậy vào những khoản xuất khẩu dầu lửa để mang lại của cải cho đất nước. Vì vậy, họ sử dụng một khoản tương đối trong quỹ SWF để đầu tư vào những dạng khác của tài sản đó là những tài sản có thể làm chức năng của những tấm chắn bảo vệ khỏi những rủi ro liên quan đến dầu lửa. Lượng tiền trong các quỹ SWF là rất lớn. Vào tháng 5 năm 2007, quỹ của các nước UAE đã trị giá trên 875 tỉ đôla. Các quốc gia có quỹ SWF lớn nhất là UAE (ADIA Abu Dhabi Investment Authority), Singapore (GIC Government of Singapore Investment Corporation), Nauy, Ả rập Saudi, Kuwait, Trung Quốc (CIC China Investment Company Ltd), Nga, Singapore (Temasek Holdings), Mỹ (APFC Alaska Permanent Fund). b. Sự nổi lên của các quỹ SWFs: Được tích lũy lại từ các khoản dự trữ trong những năm gần đây, các quỹ SWFs ( kiểm soát khoảng 5 nghìn tỷ USD ) có khả năng chia sẻ rủi ro và mang về khoản thu mong muốn cao hơn so với các quỹ truyền thống khác được quản lý bởi các nhà chức trách tiền tệ. Mặc dù đã được hình thành từ những năm 1950 nhưng các quỹ SWFs mới chỉ thu hút được sự quan tâm trên phạm vi thế giới trong vài năm trở lại đây khi tham gia vào một vài vi vụ mua lại và sát nhập xuyên quốc gia quy mô lớn và hỗ trợ vốn cho các tổ chức tài chính của các nước phát triển khi khó khăn. Tuy SWFs đầu tư dưới hình thức FDI vẫn còn tương đối nhỏ nhưng đã có sự tăng lên trong những năm gần đây ( xem bảng 2). Trong năm 2007, chỉ có 0.2% tổng lượng vốn của các quỹ này là liên quan đến FDI. Tuy nhiên, trong số 39 tỷ USD đầu tư ra nước ngoài của quỹ này trong suốt hơn 20 năm qua, thì có đến hơn 31 tỷ USD là được thực hiện trong vòng 3 năm lại đây. Các hoạt động gần đây của các quỹ SWFs đã được đẩy nhanh bằng việc tích lũy khoản dữ trự một cách nhanh chóng nhờ vào thặng dư thương mại, thay đổi cơ bản các nguyên tắc kinh tế thế giới và mở ra những cơ hội đầu tư mới tại các công ty mà nền tảng tài chính còn chưa đủ mạnh. Có đến 75% FDI của các quỹ này là đầu tư vào các nước phát triển trong khi đầu tư và các nước Châu Phi và Châu Mỹ Latinh còn hết sức nhỏ giọt. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu là dịch vụ và dịch vụ thương mại.Trong giai đoạn 2006-2007 đầu tư của SWFs vào ngành ngân hàng đã được chú trọng bởi tính ổn định của nó trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, các quỹ này cũng đã gây ra một số phản ứng tiêu cực từ phía công chúng thể hiện qua những lời kêu gọi buộc phải hạn chế hoạt động đầu tư của quỹ đặc biệt là với vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia. Các tổ chức quốc tế như quỹ tiền tệ quốc tế IMF và Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD đang trong quá trình thiết lập những nguyên tắc và hướng dẫn chung liên quan đến các hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp của SWFs. 5. Dù vẫn tồn tại các rào cản nhưng nhìn chung các chính sách đều được sửa đổi nhằm thu hút FDI. Xét trên góc độ chính sách thu hút FDI, cạnh tranh thu hút FDI giữa các nước gia tăng với các biện pháp chính sách được sử dụng như tăng cường mục tiêu hoá đối với dòng vốn FDI, tăng cường xúc tiến đầu tư, các khuyến khích đầu tư, tự do hóa đối với dòng vốn FDI. Trong năm 2006, có 147 thay đổi trong các chính sách về môi trường đầu tư của các nước nhận đầu tư nhằm thu hút FDI (bảng 5). Trong số đó có 74% là các nước đang phát triển. Ví dụ ở Ai Cập, Ghana, Singapore là các biện pháp giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thực hiện các biện pháp xúc tiến như ở Braxin và Ấn Độ. Nhiều nước khác, các chính sách tự do hóa của một số ngành công nghiệp cũng được thay đổi để thu hút FDI, như trong ngành dịch vụ (Italia), truyền thông (Botswana, Cape Verde), ngân hàng (CHDCND Lào, Mali), năng lượng (Albania, Bungari). Mặc dù vẫn tồn tại những lo ngại về sự bảo hộ của các chính sách đầu tư, xu hướng chung của các quốc gia là cải thiện môi trường đầu tư, gia tăng các ưu đãi nhằm thu hút FDI. Xu hướng này tiếp tục được khẳng định trong năm 2007 với trên 100 thay đổi trong chính sách của các nước. Trong số đó có 74 thay đổi trong chính sách của các nước nhằm thu hút FDI. Số các hiệp định về thỏa thuận đầu tư quốc tế (IIAs) tiếp tục tăng nhanh, đến cuối năm 2007 số các thỏa thuận đã lên tới con số 5600. Trong đó, số các hiệp ước đầu tư song phương (BITs) là 2608, 2730 hiệp định chống đánh thuế hai lần (DTTs), 254 hiệp định về tự do hóa thương mại (FTAs) cùng với các thỏa thuận hợp tác đầu tư trong tương lai. Các hiệp định ưu đãi thương mại về các điều khoản xúc tiến đầu tư đã tăng lên gấp đôi trong vòng 5 năm qua. Các nước đang phát triển đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đầu tư quốc tế với cả hai vai trò là nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, các thay đổi nhằm hạn chế FDI cũng đang tăng lên trong vòng vài năm trở lại đây. Trong một vài ngành công nghiệp, các biện pháp nhằm hạn chế sở hữu nước ngoài hay bảo hộ quyền sở hữu của các công ty nhà nước cũng tăng lên. Các chính sách này được thực hiện chủ yếu trong các ngành công nghiệp khai khoáng và các ngành công nghiệp có tầm quan trọng chiến lược. Điển hình ở một số nước: ở Algeria, các hãng dầu mỏ của nhà nước phải nắm trong tay ít nhất 51% cổ phần. Ở Bolivia, bằng các hợp đồng mới các TNCs phải chuyển quyền sở hữu dầu mỏ cho các công ty nhà nước. Trong khi đó ở liên bang Nga, đầu tư nước ngoài bị hạn chế trong các ngành mũi nhọn như công nghiệp vũ khí và công nghiệp khai khoáng, chỉ với một số cổ phần nhất định các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ. Quốc hữu hóa trong các ngành năng lượng và truyền thông đang được đẩy mạnh tại Venezuela. Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện nay, đầu tư nước ngoài toàn cầu khó tránh khỏi xu hướng chung này. Các chính phủ cần có các biện pháp chống lại xu hướng bảo hộ đang có nguy cơ gia tăng trong môi trường đầu tư quốc tế. Dòng vốn FDI đang đứng trước nguy cơ sụt giảm nghiêm trọng trong các dự án ngắn hạn và trung hạn. Đối với nhiều nước, điều này sẽ tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế. Một chiều hướng đang được nhắc tới là nhiều quốc gia trên thế giới đang tìm cách hạn chế FDI. Những nước này đã thông qua hoặc đang cân nhắc nghiêm túc luật hạn chế đầu tư nước ngoài hay giám sát chặt chẽ hơn bằng các quy định của chính phủ. Trong số những nước kể trên có 11 nước - trong đó có Mỹ, Nga, Canađa, Trung Quốc và Đức - hiện tiếp nhận tới 40% FDI của thế giới. Trong khi đó, các nhà kinh tế vẫn khẳng định “tự do hóa đầu tư” là động lực lớn nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới. Ngược lại, xu hướng tăng cường bảo hộ có thể khiến cho cuộc khủng hoảng trên các thị trường vốn toàn cầu trầm trọng thêm và làm giảm đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong những năm tới. Hạn chế đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến tổn thất đáng kể cho hệ thống kinh tế toàn cầu, làm giảm lợi ích của các nhà đầu tư, ở nước chủ đầu tư và cả nước tiếp nhận đầu tư. 6. Thực tế cụ thể dòng vốn FDI ở các khu vực trên thế giới 3 năm vừa qua Châu Phi: Giá cả hàng hoá cao làm tăng lợi nhuận của hoạt động đầu tư. Sau 3 năm tăng mạnh, 2008 Thu hút vốn FDI đạt đỉnh . Năm 2006. Luồng vốn FDI tại Châu Phi năm 2006 là 36 tỷ đô la ,cao gấp 2 lần so với năm 2004 . Có được sự gia tăng này là do Châu Phi đã có sự quan tâm đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên, triển vọng cải thiện lợi nhuận, cũng như môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp. Giá trị mua lại và sát nhập ( M&A) đạt tới con số 18 tỷ đô la, trong đó có một nửa là đại diện của các công ty xuyên quốc gia ( TNCs) từ các nước đang phát triển ở Châu Á. Các dự án đầu tư mới và mở rộng đầu tư cũng có bước phát triển đáng kể. Mặc dù có sự gia tăng như trên, song xét trên góc độ nguồn vốn FDI toàn cầu thì Châu Phi cũng chỉ được chia sẻ ở mức 2.7% năm 2006, giảm so với 3.1% năm 2005 và thấp hơn rất nhiều so với các khu vực đang phát triển khác. Nguồn vốn FDI từ khu vực Châu Phi cũng đạt mức 8 tỷ đô la trong năm 2006, tăng hơn 2 tỷ đô la so với năm 2005. Vốn FDI tăng vọt tại 33 quốc gia Châu Phi , và hầu hết các khu vực ngoại trừ Nam Phi. 10 nhà máy hàng đầu ở Châu Phi nhận tới 90% vốn, 8 trong số đó nhận được 1 tỷ đô la vốn FDI. Các hoạt động M&A trong lĩnh vực đầu tư mới và mở rộng các dự án đóng vai trò quan trọng ở các nước nhận đầu tư, đặc biệt là ở Ai Cập và Nigeria. Ở Ai Cập - nơi nhận đầu tư nhiều nhất trong khu vực, nguồn vốn đổ vào lớn hơn 10 triệu đô la , 80% trong số đó được sử dụng cho việc mở rộng và đầu tư mới cho các dự án phi dầu khí . Nam Phi là một bằng chứng điển hình cho sự sụp giảm nguồn vốn đầu tư FDI , nhưng công bằng mà nói , Nam Phi cũng là nơi tạo ra hầu hết các nguồn vốn đầu tư của Châu Phi. Sau 2 năm liên tiếp từ chối , các nghiên cứu tìm ra các nguồn tài nguyên dự trữ mới đã được tiến hành với số tiền lên đến 8 tỷ đô la nhằm mục đích tăng thêm nguồn vốn FDI cho các nước kém phát triển nhất ở Châu Phi (LDCs) . Và kết quả là , các nước LDCs chiếm đến 23% nguồn vốn FDI đầu tư vào khu vực - một dấu hiệu đi lên rõ rệt so với năm 2005. Trong số các nước LDCs thì Burundi, Cape Verde, Djibouti, Ethiopia, Gambia, Guinea- Bissau, Madagascar, Somalia và Sudan được xem là có sự gia tăng lớn nhất trong việc thu hút nguồn vốn FDI vào các hoạt động khai phá các mỏ dầu mới và khai khoáng. Năm 2007. Tại Châu Phi , nguồn vốn FDI chảy vào năm 2007 tăng lên đến 53 tỷ đô la( theo nguồn hồ sơ mới). Giá cả hàng hóa trên thị trường tăng làm tăng lợi nhuận của các nhà đầu tư – cao nhất trong khu vực đang phát triển giai đoạn 2006-2007 và giúp cải thiện môi trường đầu tư vốn vào. Các quốc gia kém phát triển ở Châu Phi (LDCs) cũng đã đăng ký các năm tăng trưởng trong nguồn vốn FDI của mình. Một tỷ lệ lớn các dự án FDI được triển khai trong năm 2007 đã được liên kết với việc khai thác các nguồn lực tự nhiên . Giá cả hàng hoá tăng vượt bậc đã giúp Châu Phi có thể duy trì một cách tương đối cao các nguồn FDI từ bên ngoài với con số 6 tỷ đô la năm 2007. Mặc dù luồng vốn vào có cao hơn song xét trong nguồn vốn FDI toàn cầu thì Châu Phi được chia sẻ vẫn ở vào khoảng 3%. Các công ty xuyên quốc gia(TNCs) từ Hoa Kỳ và Châu Âu là các nhà đầu tư chính trong khu vực, tiếp sau là các nhà đầu tư Châu Phi , đặc biệt là các nhà đầu tư Nam Phi . Các công ty xuyên quốc gia(TNCs) đến từ Châu Á tập trung chủ yếu ở lĩnh vực khai thác dầu khí và có sở hạ tầng. Triển vọng tăng luồng vốn vào FDI trong năm 2008 được hứa hẹn là khả quan bởi hàng hoá vẫn đang ở mức giá cao. Điều này báo hiệu năm thứ 4 liên tiếp tăng trưởng của hoạt động FDI. Các cuộc khảo sát gần đây của UNCTAD cho thấy hầu như tất cả các công ty xuyên quốc gia(TNCs) đều duy trì hoặc thậm chí tăng mức độ đầu tư hiện tại của họ tại Châu Phi . Năm 2008. Bất chấp khủng hoảng kinh tế thế giới, dòng vốn FDI chảy vào châu Phi vẫn tiếp tục tăng tới 16%, đạt khoảng 62 tỷ đô. b. Đông Á, Nam Á , Đông Nam Á: cả luồng vốn vào và ra đều tăng rồi chững lại trong năm 2008, khi ảnh hưởng của khủng hoảng ngày càng sâu rộng. Năm 2006. Luồng vốn FDI vào khu vực Nam Á , Đông Á , Đông Nam Á được duy trì theo hướng đi lên trong năm 2006, tăng khoảng 19% chạm mức 200 tỷ đô la . Luồng vồn FDI có sự gia tăng theo cấp độ khu vực, cụ thể tại Nam và Đông Nam Á có thể thấy luồng vốn tăng ổn định, trong khi tại Đông Á thì tốc độ tăng chậm hơn . Trung Quốc và Hồng Kông (Trung Quốc) giữ vị trí là nước nhận đầu tư nhiều nhất trong khu vực, tiếp sau là Singapore và Ấn Độ . Lần đầu tiên trong bảy năm nguồn vốn vào Trung Quốc giảm. Hồng Kông( Trung Quốc) thu hút được 43 tỷ đô la FDI, Singapore là 24 tỷ đô la và Ấn Độ là 17 tỷ đô la . Luồng vốn đầu tư FDI từ khu vực này hầu như tăng khoảng 60% tức 103 tỷ đô la, cao hơn so với các nhà đầu tư từ các khu vực và các nền kinh tế khác. Nguồn vốn FDI nhiều nhất trong khu vực là từ Hồng Kông (Trung Quốc) vào khoảng 60% tức 43 tỷ đô la. Trung Quốc đã khẳng định vị trí của mình là nhà đầu tư chính trong khu vực và Ấn Độ cũng đang nhanh chóng tìm cách bắt kịp. Sự vươn lên của Trung Quốc cũng như Ấn Độ được coi là nguồn lực quan trọng của đầu tư FDI có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs) của Châu Á trong việc tìm cách thu hút FDI từ khu vực. Nguồn vốn FDI đầu tư từ Trung Quốc và Ấn Độ tiếp tực tăng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh tại Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á đã tạo động lực thúc đẩy việc tìm kiếm đầu tư nguồn vốn đầu tư FDI cho khu vực này. Trong thời gian tới, khu vực này sẽ càng trở nên hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Indônêsia và Việt Nam đang có kế hoạch cụ thể để cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng. Trong suốt đầu năm 2007, giá trị của việc mua lại và sát nhập( M&A) trong khu vực tăng gần 20% cao hơn so với khoảng thời gian tương ứng của năm 2006. Nguồn vốn đầu tư FDI từ khu vực dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng. Năm2007. Nguồn vốn FDI đổ vào Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á cao hơn so với trước đây , đạt con số 249 tỷ đô la năm 2007. Hầu hết các khu vực và các nền kinh tế đều nhận được nhiều đầu tư hơn. Tồn tại sự hợp tác có lợi giữa các doanh nghiệp kinh doanh , xa hơn nữa là hướng tới hội nhập kinh tế khu vực , nhằm mục đích cải thiện môi trường đầu tư và nguồn lực của từng quốc gia đóng góp vào khu vực. Trung Quốc và Hồng Kông ( Trung Quốc) vẫn tiếp tục là hai điểm đến dẫn đầu trong khu vực. Trong khi đó, Ấn Độ- nước tiếp nhận đầu tư nhiều nhất tại Nam Á- và hầu hết các thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN) cũng thu hút một số lượng lớn hơn vốn đầu tư FDI. Nhìn chung, triển vọng thu hút thêm nhiều nguồn vốn đầu tư FDI cho khu vực này khá hứa hẹn. Duy trì tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh dân số, tạo môi trường đầu tư thuận lợi và tạo nhiều cơ hội đầu tư mới là các yểu tố góp phần giúp khu vực này thu hút hiệu quả nguồn vốn FDI trong năm 2007. Nguồn vốn đầu tư FDI từ khu vực Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á cũng đạt mức cao mới, vào khoảng 150 tỷ đô la, cho thấy sự phát triển nhanh chóng của nguồn vốn đầu tư từ các quốc gia đang phát triển. Dòng vốn trong nước, quốc tế , và khu vực có tính năng đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên , các doanh nghiệp đang đầu tư thuận lợi tại các quốc gia phát triển thì lại rất ít quan tâm đến việc mua lại và sát nhập( M&A). Năm 2008. Khu vực này vẫn may mắn duy trì được mức tăng trưởng dương trong thu hút FDI với mức tăng 3,3%, đạt 316 tỷ đô. Nhưng chỉ là điều tồi tệ nhất vẫn đang chờ ở trước mắt. c. Tây Á: Đỉnh cao 2007 và tụt dốc thê thảm 2008. Năm 2006. Trong năm 2006, đầu tư FDI đổ vào 14 quốc gia ở khu vực Tây Á tăng 44% đạt 60 tỷ đô la , mức cao chưa từng thấy. Tư nhân hoá các lĩnh vực kinh tế phát triển trong năm 2006 đã cải thiện môi trường kinh doanh. Kinh tế trong khu vực tăng trưởng mạnh đã khuyến khích đầu tư, giá dầu cao đã thu hút được ngày càng nhiều khối lượng đầu tư FDI vào dầu, khí đốt và các ngành công nghiệp sản xuất có liên quan. Một số công ty mua lại và sát nhập lớn và các dịch vụ tài chính tư nhân của Thổ Nhĩ Kỳ là nơi tiếp nhận đầu tư nhiều nhất ở Tây Á vào khoảng 20 tỷ đô la. Saudi Arabia là nước tiếp nhận đầu tư lớn thứ hai với 18 tỷ đô la ( tăng 51% so với năm 2005) , theo sau là Tiểu Vương Quốc Ả Rập . Dịch vụ vẫn là ngành thu hút , chi phối hoạt động thu hút đầu tư FDI của khu vực Tây Á, một tỷ lệ lớn FDI được đầu tư cho hoạt động tài chính là kết quả của chính sách tư nhân và tự do hoá của một số nước trong khu vực. Bằng sự cố gắng của mình, các quốc gia trong khu vực đã đa dạng hoá hoạt động sản xuất dầu và thành công trong việc thu hút nhiều hơn nguồn vốn FDI chảy vào các khu vực sản xuất. Trong suốt nửa đầu năm 2007, giá trị của các vụ mua lại và sát nhập( M&A) tăng vào khoảng 3% so với khoảng thời gian tương ứng năm 2006. Nguồn vốn FDI đầu tư từ khu vực Tây Á tăng 5% , đạt mức mới cao hơn 14 tỷ đô la trong năm 2006, đó là kết quả tương ứng của việc giá dầu tăng cao. Giá trị các vụ mua lại và sát nhập của các doanh nghiệp trong khu vực đạt tổng số 32 tỷ đô la, trong đó 67% là liên quan đến các doanh nghiệp của Tiều Vương quốc Ả Rập, các nhà đầu tư lớn thứ hai của Tây Á. Năm 2007. FDI ở Tây Á tăng 12% đạt 71 tỷ đô la, đánh dấu một bước phát triển mới và một năm thứ năm tăng trưởng liên tiếp. Dòng vốn đổ vào khu vực tập trung chủ yếu ở ba quốc gia : Saudi Arabia , Thổ Nhĩ Kỳ, Tiểu Vương Quốc Ả Rập. Môi trường đầu tư được cải thiện trong năm 2007 đã thu hút FDI từ các quốc gia thành viên của Hội đồng hợp tác Vịnh (GCC) . Lấy ví dụ như Qatar có nguồn FDI đầu tư vào đáng kể -nhiều hơn gấp 7 lần so với năm 2006. Luồng FDI đầu tư từ khu vực năm 2007 , liên tục tăng liên tiếp cho đến năm thứ 4 là 44 tỷ đô la - gấp gần 6 lần so với năm 2004. Hội đồng hợp tác Vịnh (GCC) (Kuwait, Saudi Arbia, Tiểu Vương quốc Ả Rập , Bahrain và Oman) cung cấp đến 94% vốn đầu tư FDI của khu vực , điều này cho thấy phần nào việc các quốc gia mong muốn đa dạng hoá hoạt động sản xuất dầu và khí đốt thông qua đầu tư của SWFs. Nguồn vốn FDI trong khu vực có ý nghĩa quan trọng , đặc biệt là với các quốc gia giàu dầu mỏ , chính sự phát triển của các dự án đầu tư mới và sự gia tăng giá trị của các hoạt động mua lại và sát nhập (M&A) đã xác nhận điều này. Năm 2008 : dòng vốn FDI vào khu vực này sụt giảm đáng kể với mức tăng trưởng -21,3%, chỉ đạt 56 tỷ đô. Các nguyên nhân trực tiếp có thể kể đến là do cầu thế giới về dầu chững lại (do khủng hoảng kinh tế), giá cả leo thang, doanh thu của các quỹ xuất khẩu sụt giảm ( do giá dầu rớt thê thảm). d. Châu Mỹ Latinh và các nước Caribbe: Dòng vốn FDI đổ vào liên tục tăng do nhu cầu về nguồn nguyên liệu. Đầu tư mới lấn át M&A, lợi nhuận tái đầu tư cao. Năm 2006. Dòng chảy FDI tới Mỹ Latinh và khu vực Caribe tăng khoảng 11%, đạt mức 84 tỷ $. Braxil và Mehico đã duy trì vị trí đứng đầu về tiếp nhận vốn FDI ( với 19 tỷ $ mỗi nước), tiếp sau đó là đến Chile, đảo Virgin thuộc liên hiệp Anh và Colombia. Sự ứ đọng luồng vốn FDI đi vào trong khu vực là do: ở Nam Mỹ, sự gia tăng luồng vốn FDI đăng kí diễn ra ở đa số các nước, nhưng cũng có những dấu hiệu không tốt về sự sụt giảm ở Colombia và Venezuela. Hai biểu hiện tạo nên đặc điểm của luồng vốn FDI vào trong khu vực là : các hình thức đầu tư mới trở nên quan trọng hơn các hình thức M&A xuyên biên giới, và các hình thức tái đầu tư từ lợi nhuận kinh doanh ngày càng trở lên quan trọng hơn. Lĩnh vực sản xuất lại nhận được nguồn vốn lớn nhất, vốn vào lĩnh vực dịc vụ chỉ tăng nhẹ. Trong ngành dịch vụ, TNCs tiếp tục rút lui khỏi khu vực phục vụ lợi ích công cộng, chủ yếu là từ ngành công nghiệp điện. Khu vực công nghiệp cơ bản tiếp tục hấp dẫn nhà đầu như nhờ có các mặt hàng có giá cả cao. Luồng vốn FDI đi ra chủ yếu đầu tư vào các ngành công nghiệp khai khoáng, sau đó là lĩnh vực sản xuất từ các nguồn tài nguyên và truyền thông. Dòng vốn FDI đầu tư ra ngoài của Brazil là lớn nhất trong khu vực, đạt mức 28 tỷ$ - mức cao nhất từ trước tới nay- lần đầu tiên vượt trội so với luồng vốn FDI đầu tư vào. Đó chủ yếu là do việc mua được công ty Inco ( nhà sản xuất Nikken của Canada) bởi công ty khai thác CVRD, vụ giao dịch lớn nhất từ trước tới nay được tiến hành bởi một công ty của nước đang phát triển. Nhiều công ty đến từ các nước khác, đặc biệt là từ Argantina, Chile, Mexico và Venezuena, cũng tăng cường tìm kiếm cơ hội cho mình trong quá trình quốc tế hoá FDI. Xu hướng can thiệp lớn hơn của Mỹ vẫn tiếp tục diễn ra trong năm 2006, nhưng không giống như năm ngoái khuynh hướng này diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực khái khoáng, nó chuyển sang các ngành công nghiệp khác như truyền thông và điện lự, đặc biệt là ở Bolivia và Venezuena. Ở Venezuena, một hợp đồng đã được đàm phán với Verizon, AES và CMS (đều là các doanh nghiếp của Mỹ) nhờ đó ba doanh nghiệp này đồng ý từ bỏ ài sản của họ cho chính phủ, trong khi đó chính phủ Bolivia đang có kế hoạch mua lại Emresa Nacional de Telecomunications (Entel), kiểm soát bởi Telecom Italia. Ngược lại, chính phủ của Colombia đang tiến hành chương trình thúc đẩy đầu tư FDI và giảm quy mô của lĩnh vực công cộng, bao gồm cả ngành công nghiêp khai khoáng. Năm 2007. Dòng vốn FDI đổ vào khu vực này trong năm 2007 đã tăng lên tới 36%, với mức kỉ lục là 126 tỷ $. Sự tăng trưởng mạnh nhất diễn ra ở các nước Nam Mỹ, lên tới 66%, với dòng vốn đổ vào khoảng 72 tỷ $, phần lớn số tiền này được đầu tư vào các ngành công nghiệp khai khoáng và các ngành sản xuất dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Dòng FDI vào các nước Trung Mỹ và Caribbean tăng 30% với con số tuyệt đối 34 tỷ $ bất chấp sự suy thoái kinh tế của Hoa Kì. Có được sự tăng trưởng mạnh mẽ như trên phần nào được giải thích bởi sự phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực khai khoáng, sắt thép, và ngân hàng, những ngành không được định hướng phát triển vào thị trường Hoa Kì. Dòng vốn FDI đầu tư từ những nước này ra ngoài đã giảm khoảng 17% còn 52 tỷ $, điều này phản ánh sự giảm dần về với mức độ “bình thưởng” hơn của Brazil trong việc đầu tư ra nước ngoài so với những năm trước. Các tập đoàn đa quốc gia tại khu vực Mỹ Latinh (chủ yếu từ Mexico và Brazil ) đang tiếp tục quá trình quốc tế hóa, cạnh tranh trên các ngành công nghiệp chính như dầu khí, gas, xi măng, sắt thép, thực phẩm và nước giải khát. Thêm vào đó rất nhiều các tập đoàn, công ty trẻ tuổi đang dần nổi lên trong các lĩnh vực mới như công nghệ phần mềm, các sản phẩm hóa dầu, nguyên liệu hữu cơ… Với ngành công nghiệp khai khoáng, lĩnh vực mà lượng FDI đổ vào tăng khá cao như một kết quả tất yếu của sự tăng giá cả của các hàng hóa, thể hiện một bức tranh tương phản giữa 2 lĩnh vực khai thác quạng và dầu khí, ga. Trong lĩnh vực khai thác quạng, quy mô FDI có vẻ tăng nhanh hơn vì không có các công ty nhà nước tham gia vào lĩnh vực này ngoại trừ 1 trường hợp là công ty Codelco ở Chile. Ngược lại, với sự hiện diện của các công ty nhà nước, cùng với vị trí thống trị, sự độc quyền của nó trong lĩnh vực dầu khí, gas phần nào gây ra những rào cản giới hạn cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài, điều này được thể hiện rất rõ nét vào năm 2007, rất nhiều nước trong đó bao gồm Bolivia, cộng hòa Venezuela và Ecuador đã chấp thuận và thực hiện sự thay đổi chính sách nhằm mục đích tăng thuế, tạo ra các rào cản hay ngăn cấm các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Năm 2008. Như một sự tương phản với bức tranh kinh tế toàn cầu xấu đi, thu hút FDI vào khu vực châu Mỹ Latinh và các nước Caribbe vẫn đạt mức tăng trưởng 13%, mà nhân tố đóng góp chủ yếu là ở các quốc gia Nam Mỹ. Bên cạnh đó, các nước Trung Mỹ và Caribbe – sân sau phụ thuộc vào nền kinh tế đang suy thoái Mỹ, không tránh khỏi giảm sút trong thu hút FDI. e. Đông Nam Âu và khối CIS : 7 năm tăng trưởng liên tục trong thu hút FDI bất chấp khủng hoảng kinh tế thế giới Năm 2006. Luồng vốn FDI chảy vào Đông Nam Âu và khối CIS tăng khoảng 68%, tới mức 69 tỷ $ - một dấu hiệu nhảy vọt của dòng tiền vào so với hai năm trước đó. Top 5 nước nhận đầu tư nhiều nhất ( Liên bang Nga, Romania, Kazakhstan, Ukraina, Bungarit xếp theo thứ tự) chiếm 82% tổng lượng vốn chảy vào khu vực. Luồng vốn vào Liên Bang Nga tăng gần gấp đôi đạt 28.7 tỷ $, trong khi luợng vốn đổ vào Romany và Bungary tăng lên đáng kể, trong sự mong đợi về tiến trình gia nhập EU vào ngày 1-1-2007 và nhờ vào một loạt các tiến trinh tư nhân hoá. Luồng vốn FDI đi ra từ khu vực tăng lên trong năm thứ 5 liên tiếp, đạt mức 18.7tỷ $. Dường như tất cả vể thể hiện ra bên ngoài như trên của FDI đã phản ánh sự mở rộng ra bên ngoài của các TNCs Nga, đặc biệt là một vài doanh nghiệp khai thác tài nguyên lớn đang tim cơ hội trở thành những doanh nghiệp toàn cầu và và một vài ngân hàng đang mở rộng xâm nhập vào trong các nước khác thuộc CIS. Trong khi ngành dịch vụ đặc biệt thu hút rất sôi động bởi sự gia tăng các hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng, ngành công nghiệp cơ bản nhận được luồng vốn rót vào nhiều hơn như là kết quả của sự tăng cầu đột biến về tài nguyên thiên nhiên. Trong số một vài nước có nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên của khối CIS, như Liên bang Nga, chinh quyền liên bang vẫn tiếp tục duy trì sự kiểm soát của nó trong những ngành kinh tế chiến lược. Trong một vài nước thuộc Nam Âu, luồng vốn FDI liên quan đến các chính sách tiếp tục là sợi dây liên kết trong tiến trình (hay mong muốn) được gia nhập EU của họ, và với mục tiêu từng bước tư nhân hoá những doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Năm 2007. Cũng như hầu hết các khu vực khác, dòng vốn FDI đổ vào và đầu tư từ khu vực này ra nước ngoài đã chạm tới mức chưa từng thấy trong lịch sử. Lượng FDI đổ vào đã tăng liên tiếp trong 17 năm và chạm mức 86 tỷ $, tăn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXu thế FDI thế giới 3 năm gần đây.doc
Tài liệu liên quan