MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Phần I : Lý luận chung về xuất khẩu gạo
Hoạt động mở rộng thị trường đối với ngành xuất khẩu gạo 2
Việt Nam
1. Tầm quan trọng đối với việc xuất khẩu gạo đối với Việt Nam 2
2 . Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam trong những năm qua 3
Phần II : Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
1. Mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản 3 - 4
2 . Những thách thức đối với ngành xuất khẩu gạo Việt Nam 4 - 5
3 . Cơ hội xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản 5 - 6
Phần III : Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 7 – 8 - 9
Kết luận 10
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4385 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Trong những năm gần đây, số lượng xuất khẩu hàng lương thực Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn, nhất là đối với ngành xuất khẩu gạo. Việt Nam đã đứng thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Thái Lan.
Mặc dù xuất khẩu với số lượng lớn như vậy , nhưng hạt gạo Việt Nam vẫn còn vắng bóng ở những nước phát triển. Bởi vậy, ngoài việc tăng số lượng và chất lượng xuất khẩu vấn đề thị hiếu của người tiêu dùng từng nước từng khu vực cũng cần phải được quan tâm.
Nhật Bản là một nước công nghiệp phát triển vào loại hàng đầu thế giới. Đây chính là thị trường tiềm năng cho các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam. Vì vậy em đã chọn đề tài ‘ xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Nhật Bản “ để biết xem chúng ta có cơ hội nào để xuất khẩu, chúng ta có chiến lược nào để cạnh tranh lâu dài trên thị trường này.
Do điều kiện và khả năng còn hạn chế em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I : Lý luận chung về xuất khuẩu gạo
Hoạt động mở rộng thị trường đối với nghành xuất khẩu gạo Việt Nam
Tầm quan trọng của việc xuất khẩu gạo đối với Việt Nam
Việt Nam đang từng ngày phát triển, trong một vài năm tới đây nước ta se gia nhập AFTA, hoà nhập với cộng đồng quốc tế. Đẩy mạnh xuất khẩu nói chung là đòi hỏi cấp bách để tăng ngoại tệ và giải quyết vốn cho công nghiệp hoá.
Trong quá trình phát triển kinh tế đó, nghành lúa gạo nước ta đã đột phá, giữ vị trí thứ 2 mặt hàng xuất khẩu sau đầu thô. Việt Nam là một nước Nông nghiệp, sản xuất và xuất khẩu gạo không những giải quyết vấn đề thất nghiệp ở nông thôn mà còn nâng cao đời sống của nhân dân .
Sản xuất gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế về đất đai, về khí hậu, nước, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng xuất khẩu. Cũng chính nhờ những lợi thế đó đã làm cho sản xuất lúa tăng cao, nâng cao sản lượng cho xuất khẩu.
Tình hình xuất khẩu gạo Vịêt Nam trong những năm qua
Từ năm 1996, Việt Nam đã xuất khẩu được 26 triệu tâbs gạo ra gần 20 nước trên thế giới trong đó 15 thị trường ổn định và tập trung. Năm 1998 con số đó đã nâng lên 3.8 triệu tấn, đạt kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Cùng với tăng số lượng, chất lượng cũng ngày càng được cải thiện kéo theo giá trung bình gạo của Việt Nam tăng lên. Chênh lệch giá giữa Việt Nam và Thái Lan đã giảm đáng kể từ 40 – 45 USD /tấn những năm 1990 – 1996 xuống còn 20 – 25 USD/ tấn những năm 1997 – 2000.
Hiện nay gạo Việt Nam đã xuất khẩu gạo sang hơn 80 nước trên thế giới. Thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ chiếm trên 10% trong những năm đầu đã tăng lên gần 20% trong những năm 1998.
Vào đầu tháng 4/2001, giá xuất khẩu của hầu hết các loại gạo giảm mạnh do tiêu thụ kém, nguồn cung toàn cầu cao. Từ đó giá gạo của Thái Lan giảm mạnh , giá gạo của Việt Nam cũng giảm dần kể từ cuối tháng 2/2001 sau một thời gian khá ổn định do vụ mùa bồi thu ở đồng bằng sông Cửu Long không có nguồn thu mới và nguồn cung toàn cầu lớn.
Chương II
Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
Mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
Mối quan hệ giữa 2 nước đã có khá lâu, tuy nhiên cho đến năm đầu thế kỷ XX quan hệ mới được đẩy mạnh. Dù quan hệ giữa 2 nước trải qua nhiều bước thăng trầm song vẫn được duy trì và tiếp tục phát triển.
Nhật Bản ngày càng chứng tỏ là 1 cường quốc kinh tế, có vai trò lớn trong khu vực và thế giới . Châu á hiện đang là bạn hàng và là đối tác kinh tế chủ yếu của Nhật Bản. Vì vậy, việc mở rộng quan hệ kinh tế với Việt Nam cũng chính nằm trong chiến lược chung đó.
Việc mở rộng tăng cường quan hệ giữa 2 nước không chỉ xuất phát từ lợi ích của Nhật Bản mà còn xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích từ phía Việt Nam. Chính sách đổi mới của Việt Nam thể hiện cả ở những thay đổi căn bản trong đối nội cũng như đối ngoại đã chứng tỏ Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước. Nhật Bản với tư cách là một nước có tiềm năng về kinh tế và có vai trò ổn định và hỗ trợ trong khu vực đã trở thành một đối tác và hướng ưu tiên để mở rộng quan hệ của Việt Nam. Điều này không chỉ nhằm mục đích duy trì môi trường ổn định xung quanh mà Việt Nam còn mong muốn nhận được ự giúp đỡ từ phía Nhật.
Những năm đổi mới vừa qua, hoạt động ngoại thương Việt Nam đã đạt được tăng trưởng và phát triển khả quan. Đóng góp vào kết quả chung đó chắc chắn có ảnh hưởng không nhỏ của ngoại thương Nhật Bản. Các số liệu thống kê cho thấy kim nghạch buôn bán Việt – Nhật năm vừa qua (1997) đã tăng hơn 19.9 lần so với năm 1985. Chỉ riêng 8 năm (1989- 1997) kim ngạch xuất nhập khẩu Việt –Nhật đã đạt 15.2999,3 triệu USD trong đó xuất khẩu 10187.1 triệu USD và nhập khẩu 5096.2 triệu USD, chiếm 49.9% kim ngạch xuất khẩu và 33.3% kim ngạch buôn bán hai chiều. Đó là dấu hiệu cho thấy Nhật Bản không chỉ là thị trường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam mà còn là thị trường nhập khẩu quan trọng đối với nhiều loại hàng hoá Việt Nam trong những năm sắp tới.
Những thách thức đối với ngành xuất khẩu gạo Việt Nam
Điều đáng nói đầu tiên là gạo Việt Nam chiếm quá nhỏ trên thị trường Nhật Bản. Năm 1999 Nhật áp đặt một mức thuế rất cao cho nông sản xuất khẩu, 1kg gạo nhập khẩu là 351 yên. Với mức thuế như vậy thì quả là khó đối với xuất khẩu Việt Nam
Nhìn chung thì thị phần chủ yếu trên thị trường Nhật là Hoa Kỳ, chiếm tới 47,9% gạo nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản. Ngoài những lý do chính trị chúng ta cũng có thể thấy gạo Hoa Kỳ thường là những sản phẩm chất lượng cao, đáp ưng nhu cầu tiêu dùng hiện nay của người dân Nhật Bản. Trong những năm gần đây thì Nhật cũng đã nhập khẩu gạo Trung Quốc do chất lượng gạo xuất khẩu của Trung Quốc đã cao hơn và giá lại thấp.
Chính những điều đó đã làm cho gạo Việt Nam gặp khó khăn trong việc xuất khẩu gạo vào thị trường Nhật. 5 tháng đầu năm 2000 trị giá lượng gạo xuất khẩu sang Nhật Bản là 1.443.661USD, đến nửa đầu năm 2001 lượng gạo xuất khẩu có tăng lên tới 25.404 tấn tương đương với 4.019.916USD.
Nhật Bản là một nước phát triển, nên người tiêu dùng Nhật rất đòi hỏi về chất lượng và giá cả phù hợp. Bên cạnh đó Nhật Bản còn là một nước có mức độ bảo hộ nông sản cao nhất thế giới, để bảo vệ các nhà nông chống lại sự cạnh tranh quốc tế.
Tại Nhật có 3 loại gạo chính: gạo của chính phủ, gạo bán tự do trên thị trường và gạo bán ngoài hệ thống của chính phủ ( gạo người dân tự tiêu thụ và bán trực tiếp cho các đại lý bán buôn, bán lẻ và người tiêu dùng). Xu hướng tiêu thụ gạo suy giảm tại Nhật, mức tiêu thụ bình quân theo đầu người tại Nhật giảm 2,2% trong năm 1998 so với 1997. Đến năm 2000, tông nhu cầu tiêu thụ gạo giảm xuống chỉ còn 9,6- 10,1 triệu tấn và gạo tiêu thụ theo đầu người là 58 – 62 kg.
Bên cạnh đó ngành sản xuất lúa gạo của Việt Nam còn thiếu vốn và thủ tục thanh toán của Ngân hàng còn phiền phức. Để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp đầu mối rất cần vốn để mua lúa tạm trữ với số lượng lớn, tập trung vào thời điểm trong vụ mùa thu hoạch lúa, trong khi đó khả năng cung ứng của các NHTM có hạn, chính sách hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiiệp xuât khẩu và phương thức bảo hành của ngân hàng cũng còn co nhiều điểm chưa hợp lý.
Hiện nay có một vấn để cần phải đề cập tới là chúng ta chưa có nhãn hiệu hoặc nhãn hiệu gạo nổi tiếng, đây chính là vấn đề khó khăn trong việc xuất khẩu của nước ta. Khi chưa có thương hiệu nổi tiếng thì người tiêu dùng khó có thể tiếp cận và ưu thích sản phẩm.
3. Cơ hội xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của Việt Nam
Nhật Bản có thặng dư lớn nhất thế giới do xuất khẩu hàng công nghiệp nhưng lại rất khó khăn trong việc mở rộng thị trương nông sản. Với hy vọng giảm bớt thâm hụt trong cán cân thương mại với Nhật Bản nhiều nước đã yêu cầu Nhật Bản mở rộng cửa thị trường nông sản. Dưới áp lực của Mỹ và WTO, Nhật Bản phải tuân thủ mức nhập khẩu lương thực nhưng lại áp đặt một mức thuế cao.
Việc nước ta và Nhật dành cho nhau tối huệ quốc năm 1999 đã đánh dấu xu hướng ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Quyết định của Nhật Bản đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình tại Nhật, đồng thời tăng thêm uy tín đề hàng Việt Nam thâm nhập vào những thị trường khó tính khác. Với cơ hội như vậy mong rằng trong tương lai xuất khẩu Việt Nam sẽ gặt hái được nhiều thành công.
Chất lượng, chủng loại gạo Việt Nam ngày càng được nâng cao . Nhiều năm qua giống lúa ở Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học trong nước và thế giới hợp tác nghiên cứu để đưa ra canh tác.
Chúng ta có một lợi thế cạnh tranh rất tốt trên thị trường thế giới đó là giá gạo. Do điều kiện thuận lợi về tự nhiên và nguồn lực nên giá gạo Việt Nam thường thấp hơn các nước khác. Cùng với chất lượng, số lượng và thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam, giá gạo Việt Nam đã hạn chế được biến động giá quốc tế bất lợi đối với mình.
Phương thức thanh toán gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là phương thức bằng L/C chiếm trên dưới 76% tổng số gạo xuất khẩu, phương thức hàng đổi hàng những năm qua duy trì ở mức trung bình 14%. Cuôi cùng, phương thức xuất khẩu trả nợ hiện nay thường ở mức trên dưới 8%.
Về phía Nhật Bản, mặc dù sản lượng gạo sản xuất ra cao hơn so với nhu cầu tiêu dùng trong nước nhưng do đầu tư kỹ thuật rất lớn nên giá thành sản xuất gạo ở Nhật Bản rất cao, gấp 9 đến 10 lần so với thế giới. Vì vậy, người dân Nhật đang rất hy vọng được ăn gạo của thế giới trong đó có gạo của Việt Nam với giá rẻ hơn.
Biểu đồ tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật trong 2 năm 2000,2001
Năm 2000 trị giá xuất khẩu sang Nhật Bản là 1443662 USD, đến 2001 lượng gạo xuất khẩu ra thị trường thế giới của Việt Nam là 3800000 trong khi nhập khẩu vào Nhật Bản chỉ có 25404 tấn. Theo chủ trương của chúng ta trong những năm tới chúng ta sẽ tăng lượng xuất khẩu sang Nhật Bản, để làm được điều đó chúng ta phải có những giải pháp tối ưu nhất để có thể thâm nhập vào một thị trường khó tính như Nhật Bản.
Chương III : Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
Trong xu thế hội nhập thế giới, tự do hoá mậu dịch thì vấn đề đặt ra là liệu chúng ta có biện pháp gì để cải thiện và đẩy mạnh xuất khẩu gạo nói chung hay đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nhật nói riêng .
Đầu tiên không thể không nói đến những chính sách và cơ chế của Nhà nước. Chính sách của Nhà nước có tác động rất lớn đến xuất khẩu, nó không chỉ là vai trò trách nhiệm của nhà nước mà còn là công cụ khuyến khích xuất khẩu. Điều đó thể hiện trong chính sách thuế, nếu có một chính sách thuế hợp lý và ổn định sẽ là một động lực tài chính thúc đẩy nâng cao sản lượng xuất khẩu.
Để xâm nhập vào thị trường Nhật Bản, cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước bằng những nỗ lực ngoại giao và chính sách đối ngoại đúng đắn.
Thị trường Nhật Bản đòi hỏi một chiến lược lâu dài với tầm nhìn sâu rộng, trước hết chúng ta phải nghiên cứu rõ thị trường, các đối thủ cạnh tranh, nhu cầu người tiêu dùng, mức giá, kênh phân phối …Hiện nay chúng ta chọn xuất khẩu trực tiếp là con đường xâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Hình thức này chỉ thích hợp với thời kỳ đầu khi quy mô buôn bán còn nhỏ bé và các mặt hàng còn phân tán nhưng dễ tạo ra thế bị động đối với các nhà xuất khẩu do khó năm bắt kịp những thông tin về thị trường, cần áp dụng những hình thức đầu tư trực tiếp liên doanh.
Chất lượng hàng hoá được coi là yếu tố hàng đầu, người tiêu dùng Nhật rất coi trọng yếu tố này. Hiện nay chất lượng lúa gạo Việt Nam đã được cải thiện nhưng bên cạnh các đối thủ cạnh tranh như Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc …chúng ta cũng phải đề ra một giải pháp nghiêm ngặt trong khâu kiểm tra chất lượng hàng hoá.
Thành lập các tổng công ty và các tập đoàn kinh doanh lớn để tăng cường sức mạnh cạnh tranh của mình. Trong điều kiện thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý và khả năng vươn tầm hoạt động ra thị trường thế giới của từng doanh nghiệp còn hạn chế, việc làm này đã giúp các doanh nghiệp trong cùng ngành liên kết để phát huy sức mạnh tổng hợp.
Thành lập tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam là cần thiết để chuyên có nhiệm vụ thu thập và nghiên cứu thông tin thị trường ngoài nước, bố trí triển lãm, tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế nhằm hỗ trợ phát triển các mặt hàng mới.
Vấn đề tạo vốn cũng là một vấn đề bức xúc. Để giải quyết nguồn vốn, Nhà nước phải có chính sách huy động tốt hơn nguồn vốn hiện có nằm trong nông nghiệp để tạo tích luỹ từ nội bộ nông nghiệp. Nhà nước cần ban hành các chính sách khuyên khích làm giàu mở rộng và phát triển sản xuất, khuyến khích tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư cho sản xuất. Nhà nước cần có nhiều hình thức huy động vốn trong nước và cả nước ngoài, đồng thời đưa ra luật pháp bảo hộ vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh nông nghiệp và những lợi thế chính đáng của chủ đầu tư.
Nâng cao việc đào tạo lao động kỹ thuật trong nông nghiệp. Lao động khu vực nông thôn nước ta chiếm khoảng 60,9% tổng lao động xã hội. Nông nghiệp nước ta phát triển gần như tự phát, với lực lượng lao động được đào tạo ở tỷ lệ thấp. Trong toàn ngành nông nghiệp lao động qua đào tạo chỉ chiếm khoảng 7,8% còn lại trên 90% chưa đào tạo.
Với lực lượng lao động chiếm tỷ lệ thấp như vậy, chính quyền địa phương cần phải tăng cường giáo dục và đào tạo để nâng cao lượng lao động kỹ thuật vì lợi ích của địa phương, từ đó đề ra các giải pháp và cụ thể hoá các chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ phù hợp với đặc điểm điều kiện của từng địa phương.
Để nâng cao chất lượng và số lượng trong sản xuất gạo, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng trong sản xuất và xuất khẩu. Đổi mới công nghệ không những nâng cao được chất lượng sản phẩm mà còn tăng sản lượng sản xuất. Hiện nay công nghệ sản xuất nông nghiệp của chúng ta đang còn lạc hậu, lỗi thời, vì vậy biện pháp trước mắt là đầu tư đổi mới công nghệ phù hợp với sự phát triển hiện nay của thế giới và khu vực.
Hiện nay chung ta chưa thực sự sử dụng hết nguồn lực trong Nông nghiệp : 10 tr ha đất trồng, đồi núi trọc chưa được khai phá và đưa vào sử dụng, khả năng tăng tăng sản lượng rất hạn chế. Để tăng sản lượng thì vấn đề đặt ra là phải khai phá những vùng đang bị bỏ hoang, đầu tư thiết bị, kinh phí để những vùng đồi núi trọc thành những mảnh ruộng màu mỡ , thích hợp cho phát triển nông nghiệp.
Kết luận
Trong những năm gần đây, mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản ngày càng thắt chặt hơn, Nhật Bản ngày càng đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn. Với Việt Nam, Nhật Bản là một bạn hàng lớn và có mức viện trợ ODA lớn nhất.
Với mục tiêu phát triển kinh tế, Nhật Bản sẽ là một thị trường xuất khẩu quan trọng, nhất là ngành xuất khẩu gạo Việt Nam. Cùng những chiến lược lâu dài, chắc chắn gạo Việt Nam sẽ có vị trí xứng đáng trên thị trường Nhật và quốc tế góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Trong tiểu luận này em đã đề cập tới tình hình và một số giải pháp cho xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Nhật. Nhưng do khả năng còn hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo.
Tài liệu tham khảo
Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tạp chí Thương mại
Tạp chí Ngoại Thương
Tạp chí kinh tế thế giới
Tạp chí nghiên cứu Châu á
Giáo trình quản lý nghiệp vụ và kinh doanh thương mại quốc tế
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Phần I : Lý luận chung về xuất khẩu gạo
Hoạt động mở rộng thị trường đối với ngành xuất khẩu gạo 2
Việt Nam
Tầm quan trọng đối với việc xuất khẩu gạo đối với Việt Nam 2
2 . Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam trong những năm qua 3
Phần II : Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam sang
thị trường Nhật Bản
1. Mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản 3 - 4
2 . Những thách thức đối với ngành xuất khẩu gạo Việt Nam 4 - 5
3 . Cơ hội xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản 5 - 6
Phần III : Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam sang
thị trường Nhật Bản 7 – 8 - 9
Kết luận 10
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100165.doc