Mục lục
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu . .2
I. Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của xuất khẩu hàng hoá . .2
1. Khái niệm xuất khẩu .2
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu . .22.1. Đối với nền kinh tế quốc dân . .2
2.2. Đối với một doanh nghiệp . .4
II.Các hình thức xuất khẩu chủ yếu .4
1. Xuất khẩu trực tiếp .4
2. Xuất khẩu uỷ thác . .4
3. Buôn bán đối lưu .5
4. Xuất khẩu theo nghị định thư .5
5. Xuất khẩu tại chỗ .5
6. Gia công quốc tế . .5
7. Tạm nhập, tái xuất .5
8. Chuyển khẩu .6
III. Nội dung của hoạt động xuất khẩu . .6
1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu .6
2. Tạo nguồn hàng xuất khẩu .6
Chương II: Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam trong
thời gian
qua .6
I. Kim ngạch xuất khẩu .6
1. Giá trị xuất khẩu giầy dép của Việt Nam . .7
2. Xuất khẩu giầy dép theo thành phần kinh tế .8
II.Thị trường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam . .8
III. Tình hình xuất khẩu của Tổng công ty da giầy Việt Nam . .8
1. Cơ cấu thị trường . .8
2. Kim ngạch xuất khẩu sang Châu Âu của Tổng công ty .9
3. Các hình thức xuất khẩu của Tổng công ty .9
4. Cốngản phẩm chủ yếu của Tổng công ty . .95. Kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty theo các đơn vị .10
IV. Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu giầy dép Việt Nam trong thời gian
qua
. .10
1. Những kết quả đạt được .10
2. Những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt độngxuất khẩu giầy dép Việt
Nam
. .10
ChươngIII: Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy dép
của Việt Nam . . .12
I. Định hướng phát triển ngành giầy dép Việt Nam . .12
II.Dự báo về xuất khẩu giầy dép trong những năm tới ở nước
ta
.13
1. Dự báo về thị trường .13
2. Dự báo về nhu cầu giầy dép xuất khẩu giai đoạn 2000-2010 .14
III. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt
Nam
.14
1. Về phía doanh nghiệp .14
2. Về phía nhà nước . .15
Kết luận
23 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xuất khẩu giầy dép Việt Nam – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óp phần làm dịch chuyển nền kinh tế của
các quốc gia đang phát triển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Xuất
khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có điều kiện và cơ hội phát triển. Ví dụ: khi
ngành dệt may xuất khảu phát triển, các ngành liên quan như bông, sợi, nhuộm,
tẩy, hấp sẽ có cơ hội phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản
phẩm, tạo lợi thế nhờ qui mô.
- Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động và tạo thu nhập ổn định cho
người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu
dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy phát triển các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mồi quan hệ kinh tế đối ngoại khác có sự tác động qua lại,
phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, thể hiện mối liên kết trên
toàn thế giới, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm
quốc tế phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này tạo điều kiện
cho ngành xuất khẩu càng phát triển hơn.
2.2 Đối với một doanh nghiệp
- Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào
cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi
hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Trên cơ sở đó, doanh nghiệp phát triển tới một mức độ cao hơn.
- Xuất khẩu tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan
hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước trên cơ sở hai bên cùng có
lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động
kinh doanh, tăng uy tín của doanh nghiệp.
- Xuất khẩu khuyến khích phát triển các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp như hoạt động đầu tư, nghiên cứu phát triển,marketing
II. CáC HìNH THứC XUấT KHẩU CHủ YếU
1. Xuất khẩu trực tiếp
Đây là hình thức xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp
sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu ra
nước ngoài với danh nghĩa là hàng của mình. Với hình thức này doanh nhiệp đứng
ở thế chủ động trong hoạt động kinh doanh, mọi lợi nhuận doanh nghiệp được
hưởng hết. Nhưng doanh nghiệp lại cần có nghiệp vụ ngoại thương cao và linh
nghiệm xuất khẩu.
2. Xuất khẩu ủy thác
Dưới hình thức này, các đơn vị ngoại thương đóng vai trò là người trung
gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương,
tiến hành những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hóa cho nhà sản xuất và qua
đó thu được một số tiền nhất định. Hình thức xuất khẩu này giúp cho các doanh
nghiệp có thể xuất khẩu những mặt hàng mà họ có khả năng sản xuất nhưng không
có điều kiện xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu được lại bị phân chia.
3.Buôn bán đối lưu
Đây là hình thức giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với hoạt động nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi
có giá trị trừơng. Mục đích của buôn bán đối lưu là tránh những rủi ro do sự biến
động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối.
4.Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá dược thực hiện theo nghị định thư được
ký kết giữa hai chính phủ ( thường với mục đích trả nợ ). Mặc dù hình thức này có
nhiều bảo đảm chắc chắn như khả năng thanh toán cao (do nhà nước chi trả ), giá
cả tương đối cao. Hình thức này ngày nay ít được áp dụng.
5.Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức đang phổ biến. Dưới hình thức này, hàng hóa không nhất
thiết phải vượt qua biên giới quốc qia do vậy giảm được những rủi ro cũng như
những chi phí trong quá trình vận chuyển và bảo quản hàng hóa. Các thủ tục cũng
đơn giản hơn rất nhiều do đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
6.Gia công quốc tế
Hình thức kinh doanh trong đó bên nhận gia công nhập khẩu nguyên liệu
hoặc bán thành phẩm của một bên để biến ra thành phẩm và giao lại cho bên đó,
nhận phía gia công. Đây là hình thức xuất khẩu phổ biến ở những nước đang phát
triển có nguồn công nhân dồi dào để tạo thêm công ăn việc làm, tiếp nhận công
nghệ mà không phải bỏ nhiều vốn và không phải lo thị trương tiêu thụ.
7.Tạm nhập, tái xuất
Hình thức xuất khẩu những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu nhưng chưa
qua chế biến. Hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất khẩu sau dó
sang nước nhập khẩu hoặc có thể đi từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Tiền
sẽ được tái xuất khẩu thu từ nước nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu.
8.Chuyển khẩu
Là hình thức một nước bán hàng hóa cho một nước khác mà không cần làm
thủ tục xuất nhập khẩu. Hình thức này giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí
xuất nhập khẩu.
III. NộI DUNG CủA HOạT ĐộNG XUấT KHẩU
1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Thị trường là yếu tố sống còn và là yếu tố vận động không ngừng, vì vậy
bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu để chỉ ra phương
thức hoạt động của nó như thế nào cho phù hợp để từ đó doanh nghiệp có đối sách
thích hợp trong qúa trình xuất khẩu sang từng loại thị trường. Hoạt động nghiên
cứu thị trường bao gồm:
- Nghiên cứu về môi trường
- Nghiên cứu về giá cả hàng hoá
- Nghiên cứu về cạnh tranh
- Nghiên cứu về nhu cầu
2. Tạo nguồn hàng xuất khẩu
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá, dịch vụ của một công ty hoặc
một địa phương hoặc một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu
được. Để tạo nguồn hàng xuất khẩu các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hay
gián tiếp cho sản xuất, thu gom hoặc ký kết hợp đồng thu mua với những đơn vị
sản xuất.
CHƯƠNGII: THựC TRạNG XUấT KHẩU GIầY DéP CủA VIệT NAM
TRONG THờI GIAN QUA
I. KIM NGạCH XUấT KHẩU
Giầy dép là mặt hàng có sự khác biệt so với những hàng hóa tiêu dùng
khác ví dụ như thực phẩm. Mặt hàng này chỉ phát triển được khi đời sống của
nhân dân đã đạt được một mức nhất định. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xã
hội, những năm gần đây nước ta đang chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần
theo kinh tế thị trường. Nhờ sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế này mà đời sống nhân
dân được nâng cao rõ rệt. Do đó, phát triển và mở rộng sản xuất hàng tiêu dùng có
chất lượng cao là vấn đề được quan tâm hàng đầu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Sau khi nước ta tiến hànhchính sách mở cửa vào năm 1992, ngành da giầy
nước ta đã có bước phát triển mạnh và trở thành một trong số những ngành có
triển vọng xuất khẩu cao. Thời kỳ 1991-1993 xuất khẩu giầy dép đứng hàng thứ
10 trong số cá mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thì đến năm 1994 giầy dép đã
vươn lên hàng thứ 6 và hiện nay giầy dép đứng hàng thứ 3 trong số những mặt
hàng xuất khẩu chỉ sau dầu khí và dệt may.
1 Giá trị xuất khẩu giầy dép Việt Nam
Theo số liệu của tổng công ty da giầy Việt Nam, năm 1999 tổng kim ngạch
xuất khẩu xấp xỉ 1,4 USD, tăng 30% so với năm 1998. Góp phần vào sự tăng
trưởng này là một hệ thống các doanh nghiệp, công ty hoạt động có hiệu qủa trong
lĩnh vực sản xuất giầy dép nói chung và xuất khẩu giày dép nói riêng bao gồm:
- Doanh nghịêp quốc doanh trung ương chiếm 25% số lượng sản phẩm và
18,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Doanh nghiệp quốc doanh địa phương chiếm 19,5% số luosjng sản phẩm và
14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 37,5% số lượng sản
phẩm và 52,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong hệ thống doanh nghiệp sản xuất giày dép thì tổng công ty giầy da Việt
Nam là đơn vị dẫn đầu trong vấn đề hướng phát triển sản phẩm và tìm kiếm thị
trường xuất khẩu. Trực thuộc tổng công ty hiện nay là một hệ thống các công ty
con sản xuất giày và thuộc da khá qui mô. Thị trường xuất khẩu của ta là khá rộng
lớn nhưng do nguồn đầu vào còn thiếu nên đầu năm 1999, tổng công ty đã triển
khai thực hiện dự án sắp xếp lại những cơ sở sản xuất da.
2.Xuất khẩu giầy dép theo thành phần kinh tế
Trong năm 1996 và 1997, các doanh nghiệp quốc doanh là những đơn vị
kinh tế có giá trị xúat khẩu giầy dép lớn nhất trong các thành phần kinh tế. Năm
1996 doanh nghiệp quốc doanh chiếm 67,54% và năm 1997 chiếm 57,06% tỷ
trọng xuất khẩu. Điều này chứng tỏ rằng thành phần kinh tế quốc doanh vẫn chiếm
vị trí quan trọng trong sản xuất nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng. Đây có
lẽ là một điều dễ hiểu vì ngành giầy dép có vai trò khá quan trọng trong nền kinh
tế nước ta nên đuuộc đầu tư nhiều và được nhà nước coi trọng.
II THị TRƯờNG XUấT KHẩU GIầY DéP CủA VIệT NAM
Kể từ năm 1980, đồ da Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh do có sự
hợp tác giữa Việt Nam với Liên Xô và một số nước Đông Âu cũ trong hội đồng
tương trợ kinh tế. Các sản phẩm giầy dép theo sự hợp tác này không có sự đảm
bảo về chất lượng cũng như tính cạnh tranh cao do thói quen làm ăn xã hội chủ
nghĩa. Kể từ khi hiệp định này bị bác bỏ thì ngành giầy da nước ta mới có bước
tiến bộ nhất từ sau khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường vào năm 1992.
Hiện nay, các sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Việt Nam bao gồm giầy thể
thao, giầy nữ, giầy da, dép đi trong nhà, sandal chất lượng khá tốt. Sản phẩm
của chúng ta thường được xuất khẩu sang thị trường những nước tư bản như Tây
Âu và Bắc Mỹ. Thị trường chủ yếu của giầy dép xuất khẩu là các nước thuộc liên
minh châu Âu do sản xuất giầy dép tại Châu Âu đang ngày càng giảm sút đồng
thời hàng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam được hưởng ưu đãi theo hệ thống ưu
đãi phổ cập GSP .
Tóm lại thi trường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam la một thị trường rộng
lớn với đủ các thị hiếu nhưng đều có chung một yêu cầu chất lượng cao, mẫu mã
đẹp và đa dạng.
III. TìNH HìNH XUấT KHẩU GIầY DéP CủA TổNG CÔNG TY DA
GIầY VIệT NAM
1 Cơ cấu thị trường của tổng công ty da giầy Việt Nam
Thị trường châu Âu chiếm tỷ lệ lớn trong số các thị trường xuất khẩu của
tổng công ty 75%. Bởi vì đây là thị trường mà tổng công ty có quan hệ từ lâu, các
sản phẩm đã trở lên quen thuộc, người tiêu dùng đã hình thành thói quen trong tiêu
dùng đối với sản phẩm. Mặt khác, sản phẩm của công ty xuất sang các nước châu
Âu được hưởng chính sách ưu đãi phổ cập thuế quan GSP.
Trong những năm gần đây tỷ trọng xuất khẩu của tổng công ty sang thị
trường này có phần suy giảm do một vài lý do khách quan và chủ quan, ví dụ: như
công ty đang tiến hành mở rộng một số thị trường mới nen không tập trung được
hoàn toàn vào thị trường này và Trung Quốc, Inđônêsia đã xâm nhập vào thị
trường này một cách mạnh mẽ.
2. Kim ngạch xuất khảu sang châu Âu của tổng công ty
Giá trị xuất khẩu của tổng công ty tăng mạnh từ năm 1996 đến 1997 song vì
những lý do kể trên đã giảm đáng kể vào hai năm tiếp theo1998 đến 1999. Năm
1998 giảm 3,6176 triệu sản phẩm tương tương 9,2277 triệu USD so với năm 1997.
Năm 1999 số lượng sản phẩm co tăng lên chút itsong về giá trị lại giảm đi đáng
kể. Đây là những khó khăn thách thức đặt ra cho tổng công ty trong thời gian tới.
3.Các hình thức xuất khẩu của công ty
Hình thức gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu chính của tổng công ty
da giầy Việt Nam. Hình thức này luôn chiếm tỷ trọng lớn từ 45,43% năm 1997
đến 52,03% năm 1999 trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Với hình thức này tổng
công ty có ưu thế là không phải quan tâm đến nguồn nguyên vật liệu, mẫu mã sản
phẩm, thị trường tiêu thụ đồng thời tổng công ty khó có thể lắm bắt nhu cầu thị
trường và thụ động trong việc cải tiến mẫu mã và đặc biệt là thu nhập thấp. Mặt
hàng chính của tổng công ty là giầy nữ, giầy vải và giầy thể thao, thời gian gần
đây tổng công ty có thêm sản phẩm dép các loại.
4.Các sản phẩm chủ yếu của công ty
Sản lượng tiêu thụ các mặt hàng chình của công ty tuy có giảm bớt song
vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Mặt hàng giầy nữ giảm liên tục vào năm 1997 và 1998
(năm 1997 giảm 391.000 đôi so với năm 1996, năm 1998 giảm 1.726.000 đôi so
với năm 1997) nhưng năm 1999 lại bắt đầu tăng 210.000 đôi so với năm 1998.
Các mặt hàng khác cũng có những thay đổi nhất định vào các năm nhất là hai mặt
hàng chủ lực là giầy vải và giầy thể thao. Điều này thể hiện cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu của tổng công ty đang có sự thay đổi, mặc dù chưa rõ nét nhưng là một dấu
hiệu báo trước để tổng công ty chuẩn bị cho việc chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu phù hợp với nhu cầu của thị trường.
5.Kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty theo các đơn vị
Tình hình xuất khẩu của các đơn vị thuộc tổng công ty từ năm 1996 đến
năm 1999 có nhiều biến động lớn. Sau khi kim ngạch xuất khẩu tăng vào năm
1997 thì hầu hết các đôn vị đều có kim ngạch xuất khẩu giảm vào hai năm tiếp
theo 1998 và 1999. Mức giảm cao nhất của năm 1998 so với năm 1997 là của công
ty da Sài Gòn(giảm tới 25,82%). Bước sang năm 1999, mức giảm kim ngạch xuất
khẩu lớn nhất thuộc về các đơn vị phụ thuộc (giảm đến 27,28%) so với năm 1998.
IV. ĐáNH GIá KếT QủA CủA HOạT ĐộNG XUấT KHẩU GIầY DéP
VIệT NAM TRONG THờI GIAN QUA
1. Những kết qủa đạt được
Xuất khẩu giầy dép mở ra một thị trường quốc tế rộng lớn cho nước ta, kim
ngạch xuất khẩu giầy dép ngày càng cao, năm 1993 mới chỉ là 118 triệu USD, năm
1994 là 244 triệu USD, năm 1995 là 388 triệu USD và đến năm 1400 triệu USD.
Xuất khẩu giầy dép phát triển đã góp phần tăng tích lũy ngoại tệ cho đất nước, giải
quyết việc làm cho hàng ngàn lao động. Có dược thành qủa này là do chúng ta đã
tận dụng những lợi thế của các nước đang phát triển, có tiềm năng về lực lượng lao
động và nguồn tài nguyên thiên nhiên nên các đối tác nước ngoài rất ưu thích
trong việc hợp tác với nước ta trong lĩnh vực này. Mặt khác nước ta đã có uy tín
khá lớn trong lĩnh vực xuất khẩu giầy dép.
2. Những hạn chế trong hoạt động xuất khẩu giầy dép Việt Nam và
nguyên nhân
Trong hoạt động xuất khẩu giầy dép, bên cạnh những ưu điểm chúng ta cũng
có những hạn chế. Về phía khách quan có thể nói rằng hoạt động xuất khẩu giầy
dép nước ta đang gặp những khó khăn .
Trong những năm trước đây, khi thị trường Liên Xô chưa tan vỡ và thị
trường Đông Âu còn ổn định thì hình thức gia công để xuất khẩu phát triển cao ,
không chỉ riêng nước ta mà các nước khác trong khu vực có điều kiện tương tự
như chúng ta cũng phát triển ngành giầy dép để tận dụng nhứng điều kiện thuận
lợi của họ. Do đó chúng ta phải cạnh tranh gay gắt với những nước đó về mọi mặt:
mẫu mã, giá cả, chất lượng.
Khó khăn về nguồn nguyên liệu. Hiện nay là một khó khăn cho toàn bộ
ngành xuất khẩu giầy dép của nước ta. Các đối tác nước ngoài dù liên doanh với
chúng ta hay đặt hàng gia công xuất khẩu đều rất hiếm khi cung cấp nguyên vật
liệu cho các doanh nghiệp Việt Nam để sản xuất. Hầu như phía Việt Nam đều phải
tự lo về phần nguyên vật liệu. Khó khăn của chúng ta chính là khó khăn trong thu
mua nguyên vật liệu hoặc nguyên vật liệu không đảm bảo chất lượng. Da trâu, da
bò trong nước chỉ mới đáp ứng được gần 50% nhu cầu của ngành da giầy, lượng
còn lại phải nhập khẩu là chủ yếu.
Về phía chủ quan mà nói thì có những hạn chế sau
- Sự thiếu vốn và công nghệ: Theo tính toán của tổng công ty da giầy Việt
Nam, từ năm 1991 đến nay, bình quân mỗi doanh nghiệp nhà nước chỉ mới đầu tư
khoảng 8 triệu USD. Đây là số vốn đầu tư hết sức nhỏ nhoi so với công ty nước
ngoài và để đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỉ USD vào năm 2000, ngành giầy da cần
phải đầu tư 565 triệu USD thế nhưng hiện nay chưa thấy nguồn vốn nào khả
quan.Tình trạng thiếu vồn ngặt nghèo khiến cho không ít doanh nghiệp buộc lòng
phải bua thiết bị với công nghệ lỗi thời ngay cả khi khách hàng đặt hàng cao cấp
có lợi nhuận cao, chúng ta cũng đủ khả năng thực hiện.
- Không có hệ thống phân phối trực tiếp tại các thị trường nước ngoài và lãng
quên thị trường trong nước: Cái yếu cơ bản của doanh nghiệp da giầy Việt Nam là
không có hệ thống phân phối trực tiếp tại các thị trường tiêu thụ, nên thường
xuyên phải bán sản phẩm của mình cho các công ty trung gian với giá rẻ. Mặt
hàng giầy đang chiếm ưu thế trên thị trường Việt Nam là giầy Trung Quốc được
nhập vào qua nhiều đường khác nhau. Một điều khá quan trọng là để hoạt động
xuất khẩu một mặt hàng có hiệu qủa và tạo được uy tín thì mặt hàng đó cần phải
chiếm lĩnh thị trường trong nước.
- Tính chất nội hoá trong từng đôi giầy vẫn còn qúa ít: Nguyên liệu da, giả
da và các phụ liệu khác như dao cắt, keo dán, khóa chủ yếu phải nhập ngoại. Da
nội địa chỉ để sản xuất giầy cấp thấp hoặc chỉ được dùng làm da lát hoặc da cao
cấp thì phải nhập cả da mũ, da đế.
Qua các phân tích ở trên, ta có thể thấy rằng xuất khẩu giầy dép ở nước ta là
một lĩnh vực tuy còn nhiều khó khăn nhưng đã là một lĩnh vực có tiềm năng. Vì
vậy để phát huy hết những thuận lợi và hạn chế những khó khăn trong hoạt động
xuất khẩu giầy dép, nỗ lực tự hoàn thiện mình song song với sự hỗ trợ của nhà
nước là cần thiết.
CHƯƠNG III: MộT Số BIệN PHáP NHằM THúC ĐẩY HOạT ĐộNG
XUấT KHẩU GIầY DéP CủA VIệT NAM
I. ĐịNH HƯớNG PHáT TRIểN NGàNH GIầY DéP VIệT NAM
Trong chiến lược phát triển đền năm 2010, ngành giầy da đã xác định mục
tiêu “hướng ra xuất khẩu” để thu hút ngoại tệ, tự cân đối các điều kiện để sản xuất
và phát triển. Với mục tiêu đó ngành giầy da sẽ tập trung vào những quan điểm
sau
- Quan điểm hướng ra xuất khẩu và chuyển từ gia công sang mua nguyên vật
liệu, bán thành phẩm đảm bảo nâng cao hiệu qủa, tăng nhanh tích lũy, nâng cao
chất lượng và đa dạng hoá những mặt hàng xuất khẩu.
- Ưu tiên phát triển những cơ sở sản xuất nguyên liệu phụ, hóa chất phục vụ
cho ngành nhằm tiết kiệm ngoại tệ, hạn chế sự phụ thuộc và tạo thế chủ động trong
sản xuất kinh doanh.
- Tăng cườnh phối hợp chặt chẽ với bộ phận thuộc da
- Coi trọng thị trường nội địa, khai thác tối đa năng lực nhằm khai thác nhu
cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước lẫn tiêu dùng quốc tế.
- Chú trọng khâu thiết kế và triển khai những mẫu mã mới đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của thị trường nội địa cũng như quốc tế.
- Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành
nghề để đảm bảo sự tiếp thu nhanh chóng chuyển giao công nghệ, phấn đấu làm
chủ trong sản xuất và không phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài.
- Chú trọng đầu tư chiều sâu để đồng bộ hoá các dây chuyền sản xuất, bổ
sung các thiết bị lẻ, thay thế những thiết bị lạc hậu, đổi mới công nghệ làm tăng
sản lượng, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và
hạn chế ô nhiễm môi trường.
Vói quan điểm định hướng trên, ngành giầy da Việt Nam cần có chiến lược
phát triển tập trung mọi nguồn lực về khoa học công nghệ và nhân lực để có thể
thực hiện dược những mục tiêu đề ra.
II. Dự BáO XUấT KHẩU GIầY DéP TRONG NHữNG NĂM TớI ở NƯớC TA
1. Dự báo về thị trường
Mỹ, châu Âu và Nhật Bản là ba thị trường nhập khẩu giầy dép lớn nhất thế
giới. Chỉ tính riêng trong năm 1996, tổng giá trị nhập khẩu giầy dép của Mỹ là trên
12 tỷ USD. Trong thời gian tới, nhất là sau khi hiệp định thương mại giữa Việt
Nam và Mỹ đươc hoàn chỉnh, Việt Nam sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc thì
lúc đó hàng hóa Việt Nam sẽ dễ dàng hơn trong việc xâm nhập thị trường Mỹ, kim
ngạch buôn bán giữa hai nước sẽ tăng lên nhiều và triển vọng của giầy dép xuất
khẩu của Việt Nam sang Mỹ là sáng lạn.
- Thị trường châu Âu: Đây là thị trường lớn với dân số hàng trăm triệu người
và có sức tiêu thụ giầy dép cao (khoảng 6-7 đôi/người/năm). Hàng năm toàn bộ
châu Âu nhập khẩu một khối lượng lớn giầy dép nhưng nhu cầu giầy dép mẫu mốt
thời trang chiếm tỷ lệ khá cao (trên 65%) và yêu cầu chất lượng cao. Châu Âu có
xu hướng tiêu dùng giầy da do đời sống kinh tế phát triển, vì vậy đây cũng là thị
trường có tiềm năng cho ngành thuộc da phát triển.
- Thị trường SNG và Đông Âu: Đây là thị trường có dân số đông, mức tiêu
thụ bình quân là 5-6 đôi/ người/ năm nhưng có xu hướng tiêu dùng các loại giầy
dép phổ thông với chất lượng không qúa cao.
- Thị trường Bắc Mỹ : Đây là thị trường có mức tiêu thụ 6-7 đôi/người / năm
và ưu thích tiêu dùng những loại giầy dép có mang nhãn mác của những hãng nổi
tiếng, kiểu dáng đẹp và có tính quốc tế cao. Nhu cầu tại Bắc Mỹ cho giầy da thời
trang là khá cao (khoảng 70%).
- Thị trường các nước trong khu vực: Khu vực Đông Nam A là khu vực sản
xuất giầy dép chủ yếu của thế giới nên mức tiêu dùng chỉ ở mức dư thừa của hàng
xuất khẩu.
2. Dự báo về nhu cầu giầy dép xuất khẩu giai đoạn 2000-2010
Trong những năm tới, nhiều quốc gia sẽ trở thành quốc gia phát triển, nhu
cầu tiêu dùng da giầy ở những nơi đó sẽ tăng. Những nước này sẽ mất đi lợi thế
giá nhân công rẻ và các lợi thế khác do phải đưa nền kinh tế hướng theo nền công
nghiệp hiện đại. Các nước này sẽ mất đi những ưu đãi về thuế quan dành cho
những nước đang phát triển và Việt Nam nên tận dụng ưu thế của mình.
Hiện nay khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam là to
lớn cùng với vị trí ngày càng cao của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
quốc tế, sự ưu đãi của nhà nước, triển vọng cho ngành xuất khẩu giầy dép của
nước ta là rất to lớn.
III. M ộT Số GIảI PHáP THúC ĐẩY HOạT ĐộNG XUấT KHẩU GIầY
DéP CủA VIệT NAM
1. Về phía doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ thị trường tiêu thụ sự tồn tại của doanh
nghiệp là do thị trường quyết định vì vậy các doanh nghiệp cần xác định rõ.
- Nhu cầu thi trường hiện tại.
- Dự báo nhu cầu thị trường trong tương lai.
- Khả năng chiếm lĩnh thị trường.
- Khả năng cạnh tranh trên thị trường của sản phẩm.
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích thị trường, doanh nghiệp dần xác định được
quy mô sản xuất hàng năm. Đồng thời doanh nghiệp cần tính đến những yếu tố.
- ảnh hưởng thu nhập đến nhu cầu thị trường.
- Anh hưởng của giá cả đến nhu cầu thị trường.
- Các ảnh hưởng khác đột biền đối với nhu cầu thị trường.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải tính đến khả năng sản xuất
của nước nhập khẩu và cả nước nhập khẩu khác xâm nhập vào thị trường đó. Tất
cả những việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải có bộ phận nghiên cứu có hiệu qủa.
Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến uy tín của
mình trên thị trường quốc tế. Giai đoạn hiện nay là giai đoạn cạnh tranh quyết liệt
vì vậy chữ tín cũng là lợi thế. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tránh tình trạng
xuất khẩu những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn dẫn đến bên đối tác phải hủy hợp
đồng như trương hợp công ty Thăng Long trước năm 1993.
Nâng cao nghiệp vụ kinh doanh đặc là nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập
khẩu. Nghiệp vụ kinh doanh là toàn bộ những biện pháp và phương pháp nhằm
kích thích nhu cầu thị trường, vì vậy nếu áp dụng những biện pháp hợp lý trong
nghiệp vụ kinh doanh thì sẽ đạt hiệu qủa cao trong tiêu thụ sản phẩm. Đối với mặt
hàng giầy dép có thể sử dụng những biện pháp sau:
- Sử dụng hệ thống cửa hàng để tiêu thụ sản phẩm.
- Nâng cao khả năng tiêu thụ thông qua quảng cáo, trưng bày mẫu.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng thông qua hệ thống đại lý.
- Tăng cường mở rộng các mối quan hệ với các đối tác nước ngoài.
Mặt hàng giầy dép là loại tiêu thụ rộng rãi dưới nhiều hình thức: Trang bị
hàng loạt hay chỉ là nhu cầu cá nhân. Vì vậy doanh nghiệp cần phải tăng cường
mở rộng hơn nữa các quan hệ với những đối tác nước ngoài để tìm hiểu nhu cầu
nhập khẩu của những tổ chức cũng như nhu cầu của từng cá nhân.
2.Về phía nhà nước
Nhà nước cần có một số chính sách khuyến khích đầu tư, giành một số vốn
ưu đãi đầu tư vào ngành giầy dép và có biện pháp bổ sung vốn lưu động cho doanh
nghiệp hoặc giành khoản vay ưu đãi cho các doanh nghiệp giầy dép nhằm tạo điều
kiện cho họ có khả năng về vốn từ đó hoạt động có hiệu qủa hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các doanh nghiệp trong ngành da giầy đang
hoạt động trong tình trạng thiếu vốn và công nghệ thì ngày càng có nhiều những
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài xuất hiện nhằm khai thác nguồn lao động dồi
dào của chúng ta đồng thời hưởng những ưu đãi cho xuất khẩu. Các doanh nghiệp
Việt Nam mới gượng dậy được sau sự sụp đổ của những thị trường truyền thống
nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình cạnh tranh với họ. Vì vậy nhà nước nên có
biện pháp bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam.
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động linh hoạt, các cơ
quan nhà nước cần có sự thống nhất phối hợp khi đưa ra các quyết định liên quan
để tránh gây phiền hà chậm trễ, tốn kém không cần thiết anh hưởng đến hoạt xuất
khẩu.
KếT LUậN
Trong nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, đi cùng với nó là
sự xuất hiên của nhiều ngành nghề kinh doanh. Để đứng vững trong môi trường
cạnh tranh khắc nghiệt này, mỗi doanh nghiệp phải tạo cho mình chỗ đứng và tìm
ra hướng phát triển cho mình. Xu thế chung khắp mọi nơi là mọi người đều đỏ dồn
vào những lĩnh vực kinh doanh mang lại lợi nhuận cao. Sản xuất v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_xuat_khau_giay_dep_viet_nam_thuc_trang_va_giai_pha.pdf