Tiểu luận Ý nghĩa của vấn đề tích lũy tư bản ở doanh nghiệp Việt Nam

Nội dung:

A.Đặt vấn đề .2

B.Giải quyết vấn đề .3

 I.Lí luận chung về tích lũy tư bản

 1.Phương pháp nghiên cứu .3

 2.Thực chất của tích lũy tư bản .3

 3.Động cơ của tích lũy tư bản .5

 4.Mối quan hệ giũa tích lũy,tích lũy tập trung tư bản .6

 5.Những yếu tố làm tăng quy mô của tích lũy tư bản .8

 II.Ý nghĩa của vấn đề tích lũy tư bản ở doanh nghiệp Việt Nam

 1.Thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam .12

 2.Vai trò của vốn và vấn đề sử dụng vốn hiệu quả .19

 3.Các giải pháp tăng tích lũy .21

 C.Kết luận

 Tài liệu tham khảo

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5991 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ý nghĩa của vấn đề tích lũy tư bản ở doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lsr liên kệt lại với nhau hình thành nên những tập đoàn kinh tế lơnds nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường và mặt khác cũng là sự phá sản .Hơn nữa sự tập trung vốn còn được thực hiện qua con đường tín dụng, chính tín dụng còn làm tăng ưu thế của các bhà doanh nghiệp có vốn lớn nhằm dành quyền củ đọng trong sản xuất kinh doanh,tăng sức cạnh tranh tren thương trường , thôn tính vộn của các doanh nghịêp cạnh tranh . Tích tụ và sư tập trung tuy có khác nhau về nguồn tích luỹ nnhưng npó đèu giúp các doanh nghiệp có đủ vốn để thắng trong cạnh tranh . Hiện nay trên thế giới mô hình KTTT đang được áp dụng rộng rãI và đem lại hiêu quả bên cạnh những mặt hạn chế.Sự cạnh tranh trong nền kinh tế đặc biệt ở các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra ngày càng khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng tích luỹ mở rộng sản xuất thông qua thị trường cổ phiếu , tài chính ,tín dụng tạo một xu hướng giảm tiêu dùng dể có một khoản thu nhập lớn hơn trong tương lai, ở các nước đang phát triển thì vấn đề đạt ra là những khó khăn về kĩ thuật , công nghệ quản lí tiên tiến trình độ chuyên môn , đặc biệt vốn là một yếu tố quyết định đến sự phát triển . Họ phải khắc phục những khó khăn đó , trước mắt điều quan trọng nhất họ phải huy động vốn đầu tư cho phát triển sản xuất. Vấn đề là phải huy dộng vốn ở đâu và như thế nào để đạt được hiệu quả tối ưu, phải chăng chính là từ nội lực:thông qua tiết kiệm trong mọi tầng lớp dân cư mọi tổ choc xã hội , mọi cấp mọi ngàh để đẩy mạnh tích luỹ và huy động từ nước ngoài qua các chương trình viện trợ ,cho vay,liên doanh liên kết. Việt Nam hiện nay cũng gặp nhiều vấn đề trong việc huy động và sử dụng vốn cho quá trình tích luỹ và tái sản xuất mở rộng đó là bài toán khó đặt ra đòi hỏi sự nỗ lực của các doanh nghiệp các thành phần kinh tế. Tóm lại việc nghiên cứu mặt chất lượng TLTB có ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta . Nếu trừu tượng hoá quan hệ TBCN thì các doanh nghiệp của chúng ta cùng phải tích luỹ để mở rộng sản xuất . Nguồn gốc của sự tích luỹ cũng là sản phẩm thặng dư do người lao động tạo ra thành vộn cho các doanh nghiệp vì vậy các doanh nghiệp cần tăng qui mô tích luỹ mở rộng sản xuất làm ăn có hiệu quả . Quy luật chung của sự tích luỹ tư bản. 5. Những yếu tố làm tăng quy mô tích lũy tư bản Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích lũy phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tiêu dùng của nhà tư bản .Nếu tỷ lệ phân chia đó đã cho sẵn thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích lữy sẽ do đại lựơng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do đó những nhân tố quyết định quy mô của tích lũy chính là nhưng nhân tố quyết định của khối lượng giá trị thặng dư Những nhân tố đó là : 1)Một là ,mức độ bóc lột sức lao động. Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công .Khi nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư ,C.Mac giả định rằng sự trao đổi giữa nhân công và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá .Nhưng trong thực tế công nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt một phần tiền công.Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích lũy tư bản . Nâng cao mức độ bóc lột bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động .Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hóa, tức là tăng tích lũy, ảnh hưởng này còn có thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động không đòi hỏi phải tăng thêm một cách tương ứng (không đòi hỏi phải tăng thêm số lượng công nhân ,tăng thêm máy móc, thiết bị mà hầu như chỉ cần tăng thêm hao phí nguyên liệu). 2)Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội. Việc nâng cao năng suất lao động làm tăng thêm giá trị thặng dư ,do đó làm tăng thêm bộ phận giá trị thặng dư được thặng dư hóa .Song vấn đề ở đây là tích lũy khôngchỉ được quyết định bởi giá trị thặng dư mà còn bởi khối lượng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng do giá trị thặng dư chuyển hóa thành .Như vậy, năng suất lao động tăng thêm sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới .Do đó làm tăng qui mô tích lũy . Năng suất lao động cao thi lao động sống sử dụng được càng nhiều lao động quá khứ hơn,lao động quá khứ lại tái hiện lại dưới hình thái có ích mới,chúng làm chức năng tư bản để sản xuất ra tư bản ngày càng nhiều ,do đó qui mô của tư bản tích lũy ngày càng lớn .Như vậy ,năng suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định qui mô của tích lũy . 3)Ba là sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất ,tất cả các bộ phận cấu thành của máy móc đều họat động,tức là máy móc tham gia toàn bộ vào qua trình sản xuất,nhưng chúng chỉ hao mòn dần ,do đó giá trị của chúng được chuyển dần vào từng sản phẩm.Vì vậy,có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng .Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị .Do đó nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển, máy móc càng hiện đại ,phần giá trị của nó chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít thì chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn.Do đó, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ ngày càng nhiều . 4) Bốn là qui mô tư bản ứng trước . Với trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng công nhân bị bóc lột quyết định.Do đó ,qui mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến ngày càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và qui mô tích lũy ngày càng cao. Những trường hợp quyết định qui mô tích lũy mà không lệ thuộc vào tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản và thu nhập.Mức độ bóc lột sức lao động ,sức sản xuất lao động, sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản được sử dụng và tư bản tiêu dùng .Đại lượng của tư bản ứng trước. Nếu tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản và thu nhập đã có sẵn thì rõ ràng là đại lưọng của tư bản tích lũy sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định . Ta biết tỷ suất giá trị thặng dư được quyết định trước hết là do mức độ bóc lột sức lao động .Khoa kinh tế chính trị đánh giá rất cao vai trò đó đến nỗi lắm khi nó đồng nhất với việc đẩy nhanh tích lũy nhờ nâng cao sức sản xuất của lao động ,với việc đẩy nhanh tích lũy nhờ tăng cường bóc lột.Khi nói về sản xuất giá trị thặng dư ,chúng ta luôn nhận định rằng tiền công ít nhất cũng bằng giá trị sức lao động .Nhưng thực tế việc cưỡng ép tiền công xuống dưới mức thấp hơn giá trị sức lao động đóng một vai trò quan trọng .Trong những giới hạn nhất định ,việc đó thực tế đem biến quĩ tiêu dùng cần thiết của công nhân có thể sống bằng không khí thì người ta không thể mua họ bằng bất cứ giá nào.Do đó ,lao động không mất tiền là một giới hạn theo nghĩa toán học.Không bao giờ có thể đạt tới giới hạn đó tuy rằng bao giờ cũng có thể tiến gần đến nó.Xu hướng thường xuyên của tư bản là muốn hạ tiến điểm xuống điểm hư vô. Tuy rằng trong tất cả các nghành công nghiệp, phần tư bản bất biến (kí hiệu là c)gồm những tư liệu lao động phải đủ cho một số công nhân nhất định do qui mô xí nghiệp,nhưng do phần tư bản bất biến đó hoàn toàn không nhất thiết phải tăng lên theo tỷ lệ với số lao động sử dụng . Một nhân tố quan trọng khác nữa của tích lũy tư bản là mức năng suất của lao động xã hội .Sức sản xuất của lao động tăng thêm thì khối lượng sản phẩm nhất định cũng tăng lên.Thực tế cho thấy nếu năng suất lao động mà tăng lên thì công nhân cuãng trở nên rẻ đi,và do đó tỷ suất giá trị thặng dư cũng tăng lên theo cùng một tỷ lệ với năng suất lao động .Cũng vẫn một giá trị tư bản khả biến(Kí hiêu v) lại vận dụng được nhiều sức lao động hơn và do đó có nhiều lao động hơn. Vì vậy ,khi giá trị của tư bản phụ thêm không thay đổi hay thậm chí giảm xuống tích lũy cũng vẫn được đẩy nhanh.Chẳng những qui mô tái sản xuất được mở rộng về mặt vật thể mà sản xuất giá trị thặng dư cũng tăng lên nhanh hơn giá trị của tư bản phụ thêm. II.ý nghĩa của vấn đế tích lũy tư bản ở doanh nghiệp Việt Nam 1. Thực trạng của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay: Quá trình hội nhập kinh tế buộc doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Điều cần thiết nhất là gắn liền với việc thực hiện lộ trình hội nhập cần phải xây dựng và thực hiện cho được một lộ trình nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế xác định các công việc cụ thể cho từng ngành, từng giai đoạn đồng thời khẩn trương ban hành các chính sách biện pháp cụ thể và tổ chức thực hiện triệt để kiên quyết nhằm thực hiện lộ trình đó. Nền kinh tế thị trường hiện nay đã tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đồng thời có thêm một số loại thị trường mới như thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ… Về vốn dầu tư năm 2000 chính phủ và ngành ngân hàng đã đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư vay vốn song tỷ lệ số doanh nghiệp có số vay ngân hàng vẫn giữ ở mức là 74% trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp đi vay từ nguồn khác tăng lên 63%. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp tư nhân việc đI vay các nguồn vốn cho đầu tư phát triển vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay còn nhiều bất cập về cơ chế xuất khẩu và chất lượng hoạt động nhất là những yếu kiện trong việc ổn định thị trường thiếu linh hoạt và chủ động trong xử lý giá và thiết lập các kênh phân phối cho hàng hoá Việt Nam tỷ lệ hàng gia công còn lớn, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao chiếm tỷ trọng không đáng để dịch vụ cho việc coi trọng như một lĩnh vực đem lại hiệu quả cao cho xuất khẩu. Một vấn đề quan trọng khác có liên quan đến sức cạnh tranh trong doanh nghiệp là chi phí đầu vào của chúng ta qúa cao. Tính chung từ 1996 đến nay chi phí đầu vào tăng 32-42% trong khi tỷ lệ tăng giá đầu ra là 22,82% làm cho tỷ suất doanh lợi bình quân của doanh nghiệp từ 16,8% giảm xuống còn 6,2% thấp hơn xấp xỉ 2 lần so với các nước trong khu vực và 3 lần so với Châu Âu. Vấn đề giá nông sản thấp thu nhập của nông dân ngày càng thu hẹp mặt khác không kém phần quan trọng dẫn các chi phí đầu vào quá cao về điện, xăng dầu, phân bón, thuỷ lợi, cày bừa… mà trong thời gian qua chúng ta quan tâm nhiều hơn đến các biện pháp bảo hộ xử lý đầu ra hơn các biện pháp đầu vào để chi phí sản xuất và bán hàng cho nông dân. Tất cả những điều đó là cho Việt Nam trở thành một nơi đắt đỏ sức cạnh tranh của hàng hoá, và thị trường Việt Nam giảm dần, các nhà đầu tư e ngại, thậm chí một số nhà đầu tư lớn đã rút vốn khỏi Việt Nam… vấn đề là ở chỗ hầu hết các quyền như điện, xăng dầu, bưu chính viễn thông, hàng không… trong thời gian vừa qua các ngành này liên tục tăng giá hoặc duy trì mức giá cao với nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do phải trả nợ đầu tư. Đã đến lúc chúng ta cần có một sự nhìn nhận đi vào thực chất hoạt động và hiệu quả. Qua những con số điều tra cho thấy số doanh nghiệp nhà nước mới thành lập tăng lên đáng kể, tổng doanh thuhàng năm làm ra xấp xỉ 300 tỷ đồng, sự phân bổ doanh nghiệp theo ngành hợp lý hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp nhà nước 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Số doanh nghiệp làm ăn có lãi chiếm 11,3% tổng doanh nghiệp trong đó có 11,3% số doanh nghiệp nhà nước, 69,0% số doanh nghiệp địa phương. Lãi thực hiện năm 1999 là 15.271 tỷ đồng. Đối với khu vực tư nhân khi nhà nước ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp thì đến năm 1995 đã có 15.276 doanh nghiệp và đên năm 1999 số doanh nghiệp được thành lập đã lên đến 30.500 tăng gấp 74 lần so với năm 1001. Tổng vốn đầu tư năm 1991 là 6.430 tỷ đồng đến năm 2000 đã lên đến xấp xỉ 160.000 tỷ đồng. Khu vực kinh tế tư nhân có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân tỷ trọng % của khu vực tư nhân chiếm 22,44% khu vực đầu tư nhà nước 35,4% khu vực doanh nghiệp nhà nước 42,16%. Tuy nhiên vẫn còn nhiều những tồn tại cần phải khắc phục. Số lượng doanh nghiệp nhà nước còn nhiều, quy mô còn nhỏ, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý, sự phân bổ doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ còn chưa hợp lý. Còn tồn tại nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải giải thể hoặc sát nhập với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Hiện nay có 1.822 doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm 30,8% tổng số doanh nghiệp với số lãi luỹ kế là 5.079 tỷ đồng. Doanh nghiệp còn bị ràng buộc vởi chế độ bảo toàn và phát triển với điều kiện đi vay ngân hàng, chế độ tiền lương, tiền thưởng và các quyền lợi thiết thực khác của người lao động. Đại hội Đảng IX đã khẳng định phải chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, tập trung đầu tư cho các mặt hàng có lợi thì xuất khẩu chủ lực, tạo điều kiên cho doanh nghiệp tự do cạnh tranh tìm kiếm thị trường chuẩn bị cho việc tham gia AFTA, APEC… các giải pháp đề ra cho doanh nghiệp hiện nay là hoàn chỉnh chính sách, pháp luật xây dựng môi trường kinh doanh ổn định, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, tăng cường các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân phát triển ổn định và hiệu quả. Tuy nhiên biện pháp cơ bản nhất vẫn là xuất phát từ nội lực của mỗi doanh nghiệp về sự hưng thịnh và phồn vinh của nước ta. Để tiến hành sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần có vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay. Nguồn vốn chủ sở hữu biểu hiện quyền sở hữu của người chủ về các tài sản hiện có ở doanh nghiệp. Các Công ty doanh nghiệp nhà nước thì nguồn vốn ban đầu có thể lấy từ ngân sách nhà nước, các Công ty liên doanh thì các thành viên tham gia góp vốn.đối với Công ty cổ phần hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn thì nguồn vốn được huy động bởi các cổ đông. Ngoài ra nguồn vốn này có thể bao gồm các quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng, vốn đầu tư xây dựng cơ bản. nguồn vốn vay: nguồn vốn này rất cơ bản và chiếm tỷ lệ đáng kể bởi nó không chỉ bổ sung cho việc mở rộng sản xuất mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc hoàn trả các khoản nợ hết hạn và giảm số lượng vốn vay. Nguồn vốn này được hình thành từ việc vay tín dụng ngân hàng dưới hình thực tín dụng ứng trước. Trong đó doanh nghiệp được sử dụng trong một thời gian nhất định doanh nghiệp có thể phải dùng thế chấp hoặc không dùng thế chấp. Một hình thức vay nữa là phát hành trái phiếu: chỉ riêng doanh nghiệp nhà nước, Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có quyền vay vốn bằng các phát hành trái phiếu. Doanh nghiệp có thể vay bằng tín dụng thương mại đó là hình thức vay lẫn nhau của các ngân hàng thương mại. Tình hình thu hút vốn đầu tư trong doanh nghiệp thành tựu và hạn chế: Trước đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp của một nền kinh tế chỉ huy, Việt Nam không có thị thị trường tài chính. Mọi nguồn lực đều được tập trung vào tay nhà nước để phân phối theo kế hoạch cho từng dự án đầu tư và từng doanh nghiệp. Những năm đổi mới đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Tổng 5 năm 1991 - 1995 ước tính huy động vốn đầu tư cho phát triển toàn xã hội khoảng 15 đến 16 tỷ USD, trong đó phần của nhà nước chiếm gần 43% bao gồm cả đầu tư từ ngân sách nhà nước, tín dụng đầu tư nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư, phần vốn đầu tư của các doanh nghiệp được hình thành và hoạt động hiệu quả, phần lớn ở dạng quy mô vừa và nhỏ nhưng có một số doanh nghiệp tư nhân ở quy mô lớn. Thực tế, nguồn vốn mà các doanh nghiệp đã tích luỹ và huy động là khá đa dạng và phong phú. Việc bản thân doanh nghiệp làm ăn phát đạt đã tạo cho tình hình tài chính của họ trở nên mạnh mẽ là tiền đề cho việc tích luỹ cho mở rộng sản xuất. Mặt khác đáp ứng cho nhu cầu phát triển của doanh nghiệp đã sử dụng các công cụ huy động đạt hiệu quả đó là việc các doanh nghiệp vay lẫn nhau song tỷ lệ này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng là thị trường vốn chủ yếu cho tình hình hiện nay và có ý nghĩa đặc biệt đối với các doanh nghiệp. Hệ thống ngân hàng huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi của dân cư thông qua hệ thống các quỹ tiết kiệm và các hợp tác xã tín dụng. Thị trường trái phiếu và cổ phiếu là hiện tượng mới ở Việt Nam, đây cũng là bước khởi đầu mới cho việc lập thị trường chứng khoán. Công cụ này cũng được doanh nghiệp sử dụng trong việc huy động vốn đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước còn tiến hành phát trái phiếu lãi suất 21%/năm một số doanh nghiệp khác thuộc các ngành điện, xi măng, giao thông, xây dựng đang lập đề án để phát hành trái phiếu. Trái phiếu và cổ phiếu Công ty do các doanh nghiệp được cổ phần hoá phát hành. Hiện nay đã có khoảng 100 Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu song các Công ty này có số vốn nhỏ, lượng cổ đông vì hạn chế còn loại cổ phiếu do các doanh nghiệp phát hành gắn với hai hình thức cổ phần hoá. Một hình thức tư nhân hoá một phần vốn của doanh nghiệp bằng cách phát hành và bán cổ phiếu, hình thức khác là giữ nguyên vốn của doanh nghiệp nhà nước nhưng phát hành cổ phiếu để huy động thêm. Cho tới nay mới chỉ có hình thức đầu được thực hiện, 23 doanh nghiệp có đề án xin Chính phủ cho phép cổ phần hoá, trong đó đã có 5 doanh nghiệp thực hiện xong cổ phần hoá. Con số cụ thể của viện Kinh tế Trung ương đến năm 1998 tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp do Trung ương quản lý 6.800 tỷ đồng chiếm 84% phân theo thành phần doanh nghiệp thì doanh nghiệp quốc doanh tổng số vốn đầu tư 589 dự án số vốn đầu tư 6.781 tỷ đồng chiếm 83%, doanh nghiệp dân doanh tổng số dự án 374 dự án huy động 1.425 tỷ đồng chiếm 17%. Như vậy tổng số vốn là 8.106 tỷ đồng. Cho đến năm 2000 tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp quốc doanh là 5.232 tỷ đồng của doanh nghiệp dân doanh là 7.173 tỷ đồng nâng tổng số vốn đầu tư là 12.406 tỷ đồng. Vốn nước ngoài: thành tựu huy động vốn của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và là cơ sở cho các doanh nghiệp. Theo con số của Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư trong năm 1988 - 1995 thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tổng cộng: 18.464 triệu USD, vốn đầu tư dăng ký: 5.863 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện viện trợ chính thức phát triển ODA cho Việt Nam bình quân mỗi năm đạt khoảng 480 triệu USD. Thực thế những năm qua cho thấy tiềm năng vốn từ nước ngoài tuy vốn lớn nhưng việc khai thác và sử dụng còn nhiều bất cập, việc phân bổ các dự án ODA dàn trải, thời gian thẩm định kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình thực hiện. Khối lượng vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đã có hàng ngàn doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài của 62 nước và nhà đầu tư ở Việt Nam. Ngày càng có nhiều tập đoàn lớn có năng lực tài chính và công nghệ cao đến đầu tư tại Việt Nam, quy mô vốn bình quân của một dự án tương đối lớn trong đó có các dự án đầu tư với số vốn hàng trăm triệu USD. Ban đầu xây dựng được một số cơ sở công nghệ quy mô lớn và có trình độ công nghệ cao như dầu khí, thông tin viễn thông, điện tử cao cấp tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các dự án có vống đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động đã trực tiếp tạo ra hơn 300 ngàn việc làm mới, hơn một triệu việc làm trong các ngành xây dựng và các ngành dịch vụ khác. Ngoài ra còn tạo điều kiện kích thích đào tạo cán bộ kỹ thuật cán bộ quản lý và công nhân lành nghề. Đạt được những kết quả đó không phải không còn nhiều hạn chế. Việc vay vốn đầu tư ngân hàng của doanh nghiệp đòi hỏi quá nhiều giấy tờ thậm chí nhiều ngân hàng còn từ chối việc cho vay với lý do là khách hàng mới. Chính vì vậy doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn vốn khác ngoài ngân hàng có tính rủi ro cao. Lãi suất lớn, hoặc gian dối với cán bộ ngân hàng để vay vốn hậu quả là doanh nghiệp đầu tư trong tình trạng bất ổn định, thiếu chắc chắn, kém hiệu quả, thậm chí đã xảy ra một số vụ đổ bể gây thiệt hại cho xã hội. Từ chính sách đến thực tế còn một khoảng cách lớn và các biện pháp đầu tư, các cam kết về đổi mới thủ tục hành chính trong lĩnh vực này vẫn chưa được thực hiện là bao nhiêu, khu vực quốc doanh vẫn được khuyến khích hơn đầu tư mở rộng mặc dù về mặt kinh tế, đầu tư mở rộng có tác dụng trực tiếp tăng hiệu quả nền kinh tế, tăng quy mô vốn cá biệt. Thị trường chứng khoán ở giai đoạn hiện nay đã được hình thành và hoạt động được một thời gian nhưng hầu hết các Công ty sử dụng việc phát hành chứng khoán để huy động vốn nguyên nhân là do các doanh nghiệp chỉ huy động vốn dưới hình thức này khi mà họ cần mở rộng quy mô lớn, việc phát hành chứng khoán phải qua nhiều thủ tục giấy tờ. Trong nội bộ Công ty họ vẫn không muốn chia sẻ quyền sở hữu và quyền kiểm soát cho các cổ đông. Về vốn để huy động vốn nước ngoài, thực sự chưa đem lại hiệu quả. Trước hết, khối lượng vốn đầu tư thực hiện của FDF trong năm 2001 có biẻu hiện chững lại, theo ước tính của Bộ kế hoạch và đầu tư con số này chỉ đạt 2,2 tỷ USD : tăng hoảng 3,2 % so với năm 2000, khá thấp kể từ năm 1994 trở lại đây. Ước tính trong năm 2001 chỉ có khoảng 409 dự án quy mô vừa và nhỏ hoàn thành xây dựng cơ bản, bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Trong hình thức đầu tư BOT nơi tập trung khá nhiều dự án lớn mới đạt 3%. Đặc biệt tình trạng không chấp hành nhgiêm chỉnh chế độ thống kê báo cáo các tình hình cơ sở và những ách tắc trong việc triển khai thực hiện dự án còn do nhiều vướng mắc trong kinh doanh. Với phát triển ODA việc công tác quản lý và sử dụng chưa tốt nhất là khâu chuẩn bị và tổ chức thực hiện. Vốn ODA không được hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho các chương trình đặc biệt. Khó khăn chung cho việc huy động vốn nước ngoài chủ yếu là do chính sách hai giá và việc áp dụng nhiều loại chi phí khác nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhất là các cước hàng không, giá điện, phí quảng cáo… đang là trở ngại lớn cho việc thu hút vốn. Cân đối ngoại tệ cho các đự án đầu tư nước ngoài đang là vấn đề nổi lên nhiều dự án triển khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, khả năng đáp ứng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại hạn chế nhất là thời điểm cuối chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. 2.Vai trò của vốn và vấn đề sử dụng vốn hiệu quả. Vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội và tiến bộ xã hội. Nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng tiến độ khoa học kỹ thuật phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu và đẩy mạnh tốc độ kinh tế nhờ đó đời sống nhân dân ngày một nâng cao, các nguồn lực về con người, tài nguyên được khai thác hiệu quả hơn, từ đó tác động manh đến cơ cấu kinh tế của đất nước, được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đại hội Đảng IX đã đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp, tiến ra nhập các tổ chức thương mại WTO, AFTA…và hội nhập với thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng toàn dân, mọi cá nhân, mọi tổ chức trong nền kinh tế, đặc biệt phải nhấn mạnh vai trò chủ đạo của doanh nghiệp; vấn đề đặt ra là phải sử dụng nguồn vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Nhiều yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao, không những thế vốn còn để tăng cường, để mở rộng sản xuất kinh doanh, để đầu tư cho lĩnh vực vào công nghệ mũi nhọn, để mở rộng ảnh hưởng trên thị trường của doanh nghiệp. Thực tế đặt ra cho các doanh nghiệp là phải huy động vốn, việc này phụ thuộc vào chính sách huy động vốn của Nhà nước và khả năng của từng doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cần phải thực hiện tiết kiệm dồn tiền cho mở rộng sản xuất ở thời kì tiếp theo. Tiết kiệm trong mọi cơ quan của quá trình sản xuất là rất cần thiết bởi nó quyết định trực tiếp đến sự phát triển và mở rộng sản xuất vì vậy vấn đề là làm sao tiết kiệm một khẩu hiệu, phương châm cho mọi doanh nghiệp vì một cuộc sống trong tương lai sẽ trở lên đầy đủ và hạnh phúc hơn nữa. Việc xây dựng cơ sở sản xuất và mua sắm trang thiết bị phải được sự cân nhắc kĩ càng bởi vì khi một quyết định trong đầu tư không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí gây thất thoát tài sản. Các doanh nghiệp cũng phải xem lại bộ máy hành chính và bộ máy hoạt động, tránh tình trạng cồng kềnh, rườm rà, chồng chéo nên gây cản trở việc thực hành tiết kiệm. Yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là phải phân bố một cách hợp lí giữa tiêu dùng và tích lũy, nhận thấy vai trò của việc tiết kiệm đối với sự phát triển để trở thành phong trào thúc đẩy quá trình tích tụ vào tập trung vốn để phát triển bền vững. Trong các dự án đầu tư doanh nghiệp phải lựa chọn các dự án và phương án sản xuất kinh doanh khả thi có hiệu quả biểu hiện ở chỗ nhà doanh nghiệp đổi mới công nghệ thúc đẩy phát triển sản xuất, doanh nghiệp tự tìm tòi nghiên cứu đầu tư tài lực, trí tuệ để nghiên cứu tạo ra những tư liệu lao động kỹ thuật hiện đại có khả năng tạo ra năng suất cao. Hơn nữa, thông qua chuyển giao mà công nghệ có thể di chuyển giữa các quốc gia. Ngày nay xu hướng hội nhập tạo điều kiện cho hoạt động này trở nên thuận lợi và rõ ràng. Để thuận lợi cho quá trình đầu tư doanh nghiệp nên tiến hành các loại quỹ tiết kiệm nguồn vốn này cho doanh nghiệp có thể sử dụng ngay khi cần thiết hoặc để dùng góp vốn ki

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28295.doc
Tài liệu liên quan