Năng suất và chất lượng sản phẩm trong công nghiệp cũng chưa có sản phẩm cạnh tranh . Các sản phẩm chủ yếu tăng trưởng vừa qua ở dạng khai thác tài nguyên như dầu thô , than , đất hiếm .Thép và xi măg chất lượng thấp tiêu thụ nội địa chưa được người tiêu dùng yêu thích . Sản phẩm trong nước của ta ít , không cạnh tranh được với hàng nước ngoài và chưa có nhiều sản phẩm chế biến xuất đi các nước .
Lĩnh vực dịch vụ hoạt động rất sôi động nhưng còn lộn xộn và nảy sinh nhiều mặt trái về xã hội . Việc mua bán , ăn uống , du lịch , khách sạn và cũng rất nhộn nhịp ở thành phố Hồ Chí Minh , Hà Nội và các thành phố khác , còn vùng nông thôn , miền núi do đường xá , phương tiện đi lại và sức mua kém nên chưa có gì đáng kể .
Do thu nhập thấp nên tiết kiệm và đầu tư nội bộ thấp , chưa đủ độ để tạo đà cất cánh . Tỷ lệ mức tiết kiệm gần 20% GDP là thấp và quy mô lại nhỏ . Khó khăn hơn nữa là tổng mức tiết kiệm đó trong dân vẫn chưa huy động được vào đầu tư hoặc đầu tư chưa đúng hướng .
Việc huy động nguồn tiết kiệm trong dân vào sản xuất kinh doanh đang bị cản trở .
Hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh thấp , một bộ phận nguồn lực kể cả sử dụng cho sản xuất và tiêu dùng lãng phí . Hiện tại theo tính toán một đồng vốn Nhà nước tạo được 3,4 đồng doanh thu , tỷ xuất lợi nhuận trên vốn Nhà nước đạt 19,2% .
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3008 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa con người , bởi vì ý thức là ý thức của con người . Bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả . Theo Mác " lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổi bằng lực lượng vật chất " , cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn . Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện thực hiện được các quy luật khách quan thì phải nhận thức vận dụng đúng đắn những quy luật đó , phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động . Cho nên vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người , hình thành mục tiêu , kế hoạch , ý chí , biện pháp cho hoạt động của con người . ở đây ý thức , tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai , thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định .
Vai trò tích cực của ý thức , tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm cho con người hình thành được mục đích , phương pháp , biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình . Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất , thoát ly hiện thực khách quan , mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có , phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động , sáng tạo với ý chí , nhiệt tình cao . Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả . Vì vậy phải phát huy tính năng động , sáng tạo của ý thức , phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan . Đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ , trì trệ , thái độ tiêu cực , thụ động , ỷ lại , ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay .
Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật , của các quy luật tự nhiên và xã hội . Nếu như thế giới vật chất - với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó - tồn tại khách quan , không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan , lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Chính vì vậy , Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách , không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng . Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan , nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế , lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí .
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI , bên cạnh những thành tựu đạt được , chúng ta đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật , cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế . Chúng ta đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần , vi phạm nhiều quy luật khách quan . Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII đã khẳng định :" Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí , vi phạm quy luật khách quan " . Vì vậy , từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng , Đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng là : " Mọi đường lối , chủ Đảng phải xuất phát từ thực tế , tôn trọng quy luật khách quan ". Bài học đó có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước ta . Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã tổng kết 10 năm đổi mới , đề ra những mục tiêu , phương pháp cho thời kì mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước . Trong thời kì mới này phải " lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững " , chúng ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội trong công nghiệp hoá , hiện đại hóa đồng thời phải " khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước , ý chí quật cường , phát huy tài chí của nguời Việt Nam , quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu ... "
Chương 2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta .
1. Vai trò của tri thức khoa học trong nền kinh tế - xã hội .
Trên phạm vi thế giới những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới đẫ làm cho lợi thế so sánh của mỗi quốc gia biến đổi không ngừng , làm thay đổi mối quan hệ giữa các nước , trong đó mỗi nước đều có cơ hội to lớn để tìm ra lợi thế so sánh mới cho mình và đều đứng trước những thách thức mới . Trong điều kiện như vậy các nước phụ thuộc lẫn nhau rất mạnh mẽ .
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực sự góp phần không nhỏ vào quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế này , đã làm nảy sinh sự liên kết kinh tế đa dạng , nhiều chiều . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật , một mặt đang làm thay đổi những quan điểm trước đây về một nền kinh tế độc lập , tự chủ , hoàn chỉnh , dẫn thế giới đến một chỉnh thể đầy mâu thuẫn đòi hỏi phải có cách giải quyết mới , mặt khác , dẫn đến sự cấu trúc lại nền kinh tế cả trên phạm vi thế giới lẫn trong nội bộ từng nước .
Nền kinh thế giới chuyển dần sang cơ cấu phát triển theo chiều sâu , đặc biệt là trong công nghiệp cơ cấu đó chuyển dịch khá nhanh về phía những ngành có hàm lượng khoa học , công nghệ và trí tuệ cao , cơ cấu tiêu thụ giảm theo hướng giảm các sản phẩm dùng nhiều lao động và nguyên liệu . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã làm cho vai trò của năng lượng và lợi thế so sánh của nguyên liệu và sản phẩm sơ cấp trong công nghiệp giảm dần , do vậy mà mới có tình trạng chỉ số giá cả các sản phẩm sơ cấp và nguyên liệu trên thị trường thé giới giảm tói 40% so với đầu thập kỷ 80 . Cũng do sự chuyển dịch nhanh chóng đó mà hiện nay đã có tới 11 trong số 28 ngành công nghiệp chính của thế giới đang bị lu mờ , bị coi là đã xế chiều và đang bị các ngành mới ra đời lấn át hoặc thay thế hoàn toàn . Trước tình hình đó để tránh thua thiệt những nước xuất khẩu nguyên liệu và các sản phẩm sơ cấp - mà ở đây chủ yếu là các nước đang phát triển - phải tìm cách nhanh chóng nâng cao năng lực biến đổi tài nguyên thành sản phẩm tiêu dùng cao cấp , muốn như thế thì không có cách nào khác hơn là phải tìm đến tiến bộ khoa học - kỹ thuật .
Như vậy , do tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà yêu cầu phải đổi mới về mặt kinh tế , từ cơ cấu sản xuất cho đến quan hệ giữa các quốc gia , trở thành một tất yếu không thể cưỡng lại được nếu như quốc gia đó muốn tồn tại và không bị nhấm chìm .
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay , một mặt , tạo điều kiện cho sự quản lý sản xuất , quản lý xã hội nhanh nhạy và linh hoạt hơn , mặt khác nó lại cũng đòi hỏi phải có sự quản lý đối với nó nhanh nhạy và linh hoạt như vậy . Vì thế tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực tế là mâu thuẫn với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp . Những thay đổi nhanh chóng trong kỹ thuật và trong công nghệ cũng như trong tổ chức sản xuất , trong các mặt hàng , các sản phẩm được làm ra đòi hỏi phải có cách quản lý linh hoạt , mềm dẻo có hiệu quả cao , nghĩa là để chuyển sang chất lượng mới của sự phát triển thì phải có sự đổi mới sâu sắc và căn bản trong cơ chế quản lý . Một hệ thống kinh tế bị đóng kín , bị giới hạn từ trên xuống dưới , bị hạn chế quan hệ ngang , được điều khiển bằng mệnh lệnh tập trung và quan liêu không tránh khỏi kìm hãm sự phát triển của xã hội , sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho nên tất yếu phải bị thay thế .
Ngày nay việc quản lý xã hội , trong đó quan trọng quản lý kinh tế , quản lý nhà nước , thành công đến mức nào là tuỳ thuộc vào khả năng xử lý thông tin . Không theo kịp những biến đổi hết sức mới trong lĩnh vực này mà khư khư giữ lấy cách quản lý cũ , lạc hậu thì không tránh khỏi bỏ lỡ thời cơ có thể vươn lên để tiến kịp cùng thời đại và thoát ra sự trì trệ .
Cùng với những biến đổi về chất lượng trong lực lượng sản xuất , trong kinh tế và trong quản lý xã hội , tiến bộ khoa học - kỹ thuật còn tạo nên những biến đổi ghê gớm trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự , trong việc tạo ra những phương tiện phá hoại và huỷ diệt sự sống , làm gay gắt những vấn đề toàn cầu của thời đại . Sức mạnh quân sự của một quốc gia lúc này không chỉ phụ thuộc vào số lượng lớn binh lính , vào những loại vũ khí thông thường có sức công phá lớn đã từng một thời làm mọi người khiếp đảm mà còn phụ thuộc rất lớn vào các vũ khí dựa trên những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất , thậm chí có khi chỉ phụ thuộc vào một số ít người thuộc các ngành nghề khác nhau từ nhà chính trị cho đến nhà sinh học , y học chuyên nghiên cứu các vi khuẩn gây bệnh , từ nhà vật lý hạt nhân cho đến người điều khiển tên lửa mang đầu đạn hạt nhân . Những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất được sử dụng để sản xuất các loại vũ khí giết người hàng loại .
Chẳng hạn , đứng về mặt kỹ thuật mà xét thì số vũ khí hiện có đã đủ để xoá sạch hoàn toàn nhiều lần toàn bộ sự sống trên trái đất nếu chiến tranh hạt nhân xảy ra . Chỉ riêng một tầu ngầm chiến lược , trong số hàng trăm tàu ngầm hiện có , cũng mang theo tiềm năng huỷ diệt tương đương với mấy cuộc chiến tranh thế giới thứ hai . trong cuộc chiến tranh mới đó không ai có thể tìm thấy phần thắng . Trước nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới có sức huỷ diệt lớn như vậy những người đứng đầu các quốc gia buộc phải đổi mới cách đánh giá , cách nhìn nhận các quan hệ chính trị quốc tế , cách giải quyết mâu thuẫn khu vực và thế giới , đổi mới quan niệm về quốc phòng và an ninh mới . Nếu làm ngược lại chắc chắn không thể tránh được những hậu quả ghê gớm khó lường trước được .
Nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà càng ngày người ta càng tạo ra được nhiều loại nguyên liệu và vật liệu có thể thay thế những thứ từ trước đến nay chỉ có thể dựa vào sự cung cấp của thiên nhiên . Vì vậy tiến bộ khoa học - kỹ thuật đang làm cho ưu thế dưới dạng tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên trở nên tương đối .
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật một mặt tạo thời cơ thuận lợi cho các nước này thoát ra khỏi sự lạc hậu và trì trệ nếu như biết định hướng đúng , nếu có một tiềm năng nhất định nào đó về nguồn vốn và nguồn nhân lực có trình độ cần thiết để tiếp thu các công nghệ tương đối hiện đại . Khi đã có những kĩ thuật và công nghệ mới , tiến bộ thì vấn đề đặt ra tiếp theo là giải quyết việc làm cho số lao động dôi ra , tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm ... Nếu giải quyết tốt chúng thì khả năng hội nhập của các nước này với trào lưu chung của thế giới là hiện thực . Song tiến bộ khoa học - kỹ thuật thời đại chúng ta còn có một mặt khác nghiệt ngã là hoàn toàn có khả năng nhấn các nước kém phát triển chìm sâu hơn trong cảnh lạc hậu và phụ thuộc , đồng thời còn tạo nên một khoảng cách còn lớn gấp bội so với khoảng cách đã từng tồn tại trước đây giữa họ và các nước phát triển nếu như họ không tìm ra con đường thích hợp hoặc cố tình duy trì cách làm ăn cũ , thói quen cũ , không thích nghi với những biến đổi của thời đại .
Như vậy , trong thế giới hiện đại vừa liên kết hợp tác , vừa chứa đầy mâu thuẫn và cạnh tranh với nhau khốc liệt , mọi quốc gia trong đó có chúng ta , nếu muốn giành cho một vị trí xứng đáng hay ít ra để không bị nhấn chìm , đều không thể cưỡng lại xu thế của thời đại là đổi mới mọi mặt trên cơ sở nhận thức , đánh giá và sử dụng đúng đắn , nhanh chóng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất được loài người tạo ra , đồng thời biết khai thác và tạo được những điều kiện cho sự khai thác những nguồn lực khác có thể khai thác .
2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay .
2.1. Những thành tựu của công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội ở nước ta .
2.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước :
Thế giới và nền sản xuất của nó đang chuyển biến hết sức nhanh chóng dưới tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà đỉnh cao mới là những tiến bộ do cách mạng công nghệ , cách mạng tin học mang lại . Nhiều nước đã và đang tiến hành những cải cách rộng rãi , mạnh bạo , đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin .
Tuy nhiên cũng trong bối cảnh đó các nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào tình trạng nặng nề và rút cục bị lạc hậu về nhiều mặt . Nguyên nhân của tình trạng này là không đánh giá đúng đắn và kịp thời những tiến bộ khoa học - kỹ thuật , thiếu những điều kiện cần thiết , thiếu một môi trường dân chủ thực sự để cho con người phát huy mọi khả năng sáng tạo của mình . Có thể thấy rõ điều này qua các chỉ số so sánh cụ thể giữa Liên Xô và Mĩ .
Việt Nam tiến hành đổi mới trong bối cảnh bị cô lập tương đối về kinh tế trong một thời gian dài . Những hỗ trợ kinh tế và tài chính hầu như không đáng kể , nguồn viện trợ vay của Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu bị cắt . Sự phong toả về kinh tế , sự lôi cuốn Việt Nam vào những xung đột chính trị và quân sự đã buộc đất nước phải tiêu hao nguồn lực mà lẽ ra có thể sử dụng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội .
Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta cũng có một số cơ may và thuận lợi : xu thế hoà bình và hợp tác kinh tế quốc tế đang mở rộng , sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại , vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế .
2.1.2. Công cuộc đổi mới và những thành tựu đã đạt được ở nước ta
Đại hội Đảng lần thứ VI ( tháng 12 / 1986 ) đã đưa ra những quan điểm cơ bản trong quá trình đổi mới ở nước ta là :
_Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
_Chuyển nền kinh tế vận hành từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung , quan liêu , bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
_Mở cửa nền kinh tế , đa dạng hoá , đa phương hóa và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới .
_Dân chủ hoá mọi mặt đời sống kinh tế xã hội , tiến tới đổi mới hành chính và xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh .
Nhìn vào một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản , chúng ta thấy những nhân tố ổn định của nền kinh tế đã đạt được hình thành :
Tổng sản phẩm trong nước tăng đều và có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây . Trong gai đoạn 1986 - 1990 bình quân mỗi năm tăng 3,9% ( 1986 tăng 0,3% ; 1987 tăng 3,6 % ; 1988 tăng 6% ; 1989 tăng 4,7% ; 1990 tăng 5,1% ) . Trong giai đoạn 1991 - 1995 bình quân mỗi năm tăng 8,7 % ( 1991 tăng 6% ; 1992 tăng 8,6% ; 1993 tăng 8,1% ; 1994 tăng 8,8% ; 1995 tăng 9,5% ; 1996 tăng 9,34% ) . Tăng trưởng kinh tế năm 1996 vẫn đạt trên mức 9% nói lên sự phát triển ổn định .
Lạm phát bị đẩy lùi và được kiềm chế ở mức thấp .
Tiền đồng ổn định , tỷ giá hối đoái giao động trên dưới 11000 VNĐ/USD .
Cán cân thanh toán trong và ngoài nước được chuyển động theo hướng tích cực . Ngân sách Nhà nước có nguồn thu từ thuế và phí tăng lên .
Quan hệ xuất nhập khẩu đã có những tiến bộ , xuất khẩu hàng năm tăng dần . Năm 1995 xuất khẩu 5,2 tỷ USD , nhập khẩu 7,5 tỷ USD . Năm 1996 xuất khẩu 7 tỷ USD và nhập khẩu 11 tỷ USD . Tỷ lệ xuất so với năm 1995 đã tăng lên nhưng nhập siêu còn lớn .
Tỷ lệ tăng dân số giảm dần từ 2,33% năm 1991 xuống còn 2% năm 1995 , năm 1996 tỷ lệ này đã xuống dưới 2% nhưng tỷ lệ tăng dân số vẫn lớn nếu không kiềm chế được thì đây là cản trở lớn cho phát triển . Số người có việc làm đã tăng lên , từ 30,97 triệu người làm việc năm 1991 đến năm 1995 con số này là 34,68 triệu người . Năm 1996 số người có việc làm vẫn tiếp tục tăng lên , nhưng tỷ lệ thiếu việc làm vẫn đang còn lớn .
Mức sống dân cư được cải thiện , GDP đầu người năm 1991 là 273 USD . Năm 1996 mức sống đã tăng lên nhưng còn một bộ phận dân cư ở nông thôn và miền núi đời sống vẫn còn khó khăn .
Đổi mới , cải cách về kinh tế , nhưng không gây rối loạn về xã hội hoặc đổ vỡ về chính trị như ở nhiều nước khác . Chính sự ổn định về chính trị và xã hội là điều kiện hết sức quan trọng cho việc triển khai và đẩy tới công cuộc đổi mới về kinh tế ; ngược lại những kết quả của công cuộc đổi mới về kinh tế lại là tiền đề cho sự ổn định về xã hội và đổi mới về chính trị .
ổn định chính trị do một chính Đảng lãnh đạo thu hút được quần chúng .
2.1.3. Những hạn chế của công cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mới của nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế :
Xét trên tổng thể , nền kinh tế nước ta hiện vẫn chưa thoát rả khỏi tình trạng tái sản xuất giản đơn và nhiều mặt còn mất cân đối nặng nề . Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người mới đạt khoảng 200 USD .
Sự tăng trưởng kinh tế tuy đang phát triển , nhưng đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp sự tăng trưởng đang bị giới hạn , nếu không có đầu tư lớn về khoa học và công nghệ . Sự tăng trưởng vừa qua chủ yếu là do đổi mới cơ chế , do hỗ trợ đầu tư nước ngoài và do đầu tư của các công trình lớn trước đây được huy động . Năng suất trong nông nghiệp chủ yếu là do tăng diện tích , tăng vụ do đổi mới cơ chế và luật đất đai kích thích người lao động làm việc có năng suất . Do thiếu sự đầu tư của khoa học - kỹ thuật nên sản phẩm nông nghiệp chất lượng thấp . Trong khi đó tốc độ tăng dân số vẫn chưa được kiềm chế nên thu nhập đầu người kể cả lương thực , thực phẩm thấp , làm cho tích luỹ nội bộ chậm .
Năng suất và chất lượng sản phẩm trong công nghiệp cũng chưa có sản phẩm cạnh tranh . Các sản phẩm chủ yếu tăng trưởng vừa qua ở dạng khai thác tài nguyên như dầu thô , than , đất hiếm ...Thép và xi măg chất lượng thấp tiêu thụ nội địa chưa được người tiêu dùng yêu thích . Sản phẩm trong nước của ta ít , không cạnh tranh được với hàng nước ngoài và chưa có nhiều sản phẩm chế biến xuất đi các nước .
Lĩnh vực dịch vụ hoạt động rất sôi động nhưng còn lộn xộn và nảy sinh nhiều mặt trái về xã hội . Việc mua bán , ăn uống , du lịch , khách sạn và cũng rất nhộn nhịp ở thành phố Hồ Chí Minh , Hà Nội và các thành phố khác , còn vùng nông thôn , miền núi do đường xá , phương tiện đi lại và sức mua kém nên chưa có gì đáng kể .
Do thu nhập thấp nên tiết kiệm và đầu tư nội bộ thấp , chưa đủ độ để tạo đà cất cánh . Tỷ lệ mức tiết kiệm gần 20% GDP là thấp và quy mô lại nhỏ . Khó khăn hơn nữa là tổng mức tiết kiệm đó trong dân vẫn chưa huy động được vào đầu tư hoặc đầu tư chưa đúng hướng .
Việc huy động nguồn tiết kiệm trong dân vào sản xuất kinh doanh đang bị cản trở .
Hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh thấp , một bộ phận nguồn lực kể cả sử dụng cho sản xuất và tiêu dùng lãng phí . Hiện tại theo tính toán một đồng vốn Nhà nước tạo được 3,4 đồng doanh thu , tỷ xuất lợi nhuận trên vốn Nhà nước đạt 19,2% .
Việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ nước ngoài còn gặp khó khăn nhiều mặt . Tỷ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 khoảng 30% GDP đòi hỏi phải có nguồn đầu tư trực tiếp FDI và tài trợ từ nguồn ODA đều đặn để bù đắp sự thiếu hụt khoảng 6 -7% GDP do nguồn tiết kiệm trong nước còn ít .
Khuôn khổ pháp lý và trình độ quản lý từ vĩ mô và vi mô theo cơ chế , thị trường còn nhiều bất cập , thiếu đồng bộ . Đặc biệt sự tương đồng luật pháp của ta với các nước trong kinh doanh còn cách xa nhau . Sự hiểu biết và thi hành luật pháp khó khăn , nhũng nhiễu . Thủ tục hành chính phiền hà làm ách tắc luật lệ , chính sách , cơ chế quản lý và gây ra những tiêu cực xã hội .
Kết cấu hạ tầng còn quá lạc hậu . Mạng lưới giao thông vận tải , thông tin liên lạc chưa được mở mang , chất lượng lại thấp . Hiện hay chỉ có 12% đường bộ được đánh giá là đường tốt , gần 50% đướng sắt không đảm bảo kỹ thuật . Sân bay bến cảng chưa đáp ứng yêu cầu . Điện thoại bình quân 1000 dân mới có 1,8 máy , ngang hàng với những nước lạc hậu nhất trong khu vực .
Mặc dầu kim ngạch xuất khẩu tăng đáng kể trong mấy năm qua , song nhìn chung quy mô của kinh tế đối ngoại còn nhỏ , hiệu quả còn thấp , chưa đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước .
Tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức bùng nổ , điều đó vừa làm triệt tiêu mọi cố gắng và thành quả đạt được trong phát triển kinh tế , vừa làm gay gắt thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất gay gắt .
Trình độ dân trí nói chung thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và so với nhiều nước khác trên thế giới . Chất lượng giáo dục và đào tạo còn chưa cao , cả nước còn khoảng 12% ( 8 triệu người ) mù chữ . ở nước ta , tính bình quân trong 1000 người dân mới có 2 sinh viên . Tay nghề đội nhũ lao động chưa cao , trong công nghiệp cấp bậc thợ bình quân chưa đạt 3,5/7 bậc . ở nông thôn , trong số 25 triệu lao động chỉ có 1,5 triệu có trình độ phổ thông trung học ; 0,67 triệu lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp và 0,25 triệu có trình độ cao đẳng , đại học và trên đại học . Trong thương nghiệp có gần 50% lao động chưa được học tập buôn bán .
Sức dân với tư cách là yếu tố quan trọng trong nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đang có những dấu hiệu đáng lo ngại . Trong các tầng lớp nhân dân lao động còn nhiều người ăn chưa đủ no và thiếu dinh dưỡng . Bình quân mới đạt 1950 kilo calo/người /ngày . ở nông thôn , số liệu điều tra ở miền Bắc cho thấy mức tiêu dùng lương thực , thực phẩm bình quân đầu người/tháng tính bằng calo đều dưới mức nhu cầu tối thiểu : về lương thực đạt 93,1% ; thịt các loại 55,4% ; cá các loại 56% . Điều đáng lo ngại là có tới 36% số trẻ em ở nước ta đang bị suy dinh dưỡng . Công tác phòng chống và chữa bệnh cho nhân dân , nhất là miền núivà ở tuyến xã xuống cấp nghiêm trọng . Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho tỷ lệ trẻ em chết cao so với số trẻ sơ sinh ở vùng miền núi .
Tình hình xã hội còn diễn biến phức tạp . Số người không có hoặc thiếu việc làm ngày càng gia tăng . ở thành thị 6-7% số người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm mà phần đông là thanh niên , ở nông thôn , thời gian lao động mới được sử dụng 60-70% , nếu quy đổi 30-40% còn lại thì có tới 8-9 triệu người thiếu việc làm .
Sự phân tầng xã hội . phân hoá giàu nghèo diễn ra khá phổ biến và phức tạp ở cả thành thị và nông thôn . Nếu chia các dải phân tầng xã hội thành 5 nhóm đều nhau , mỗi nhóm bằng 20% dân số thì hệ số chênh lệch giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất ở nước ta năm 1994 là gần 7 lần .
Chất lượng giáo dục đào tạo thấp so với yêu cầu . Mục tiêu , nội dung , chương trình , phương pháp dạy và học , sách giáo khoa , thi cử , cơ cấu đào tạo , trình độ quản lý có nhiều thiếu sót , trong giáo dục và đào tạo có nhiều hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại . Chi phí học tập cao hơn so với khả năng thu nhập của dân nhất là của người nghèo . Giáo dục và đào tạo ở vùng sâu , vùng sa còn nhiều khó khăn . Công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng . Phát luật và kỷ cương xã hội không nghiêm . Trật tự và an toàn xã hội chưa được bảo đảm , thậm chí có mặt còn xấu di , đạo đức bị xói mòn . Nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác nhau như lừa đảo , trốn thuế , lậu thuế , làm hàng giả , cá cược , số đề , mê tín , dị đoan ... đang phát triển .
Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá , xây dựng và bảo vệ Tổ quốc . Sự phát triển của khoa học chưa thực sự gắn với những nhiệm vụ thực tiễn cuộc sống đặt ra , đồng thời nhiều phương hướng phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu , thậm chí không có nhiều dự án kinh tế - xã hội trở thành không hiện thực , ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ phát triển kinh tế , xã hội nói chung mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của khoa học , kỹ thuật nói riêng .
Môi trường đô thị , nơi công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng .
2.1.4.Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới ở nước ta
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học và sản xuất hiện đại, khoa học ngày càng có vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội . Có tình hình đó là vì trong điều kiện hiện nay khoa học ngày càng tác động mạnh mẽ , sâu sắc đến sự phát triển của kinh tế - xã hội . Khoa học không chỉ phát hiện ra những quy luật của hiện thực mà còn chỉ ra những con đường khả dĩ để vận dụng các quy luật ấy vào thực tiễn cuộc sống vì lợi ích con người .
Trong lĩnh vực kinh tế ,có thể nói rằng , điều kiện khách quan cho sự liên kết giữa khoa học , kỹ thuật và sản xuất là khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Trong điều kiện hiện nay , sự liên kết giữa khoa học , kỹ thuật và sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với việc vận dụng có hiệu quả khoa học , kỹ thuật vào sản xuất . Điều đó là dễ hiểu bởi vì khoa học , tri thức khoa học là yếu tố chung có mặt trong mọi thành phần của lực lượng sản xuất . Sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật , việc vận dụng các thành tựu của khoa học vào đời sống một mặt có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển mọi thành của lực lượng sản xuất . Mặt khác , trong điều kiện hiện nay , khoa học là sản phẩm tinh thần của sự phát triển xã hội , ngày càng tam gia tích cực vào quá trình sản xuất . Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và của tiến bộ xã hội , khoa học ngày càng biểu thị dưới dạng một thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ quá trình biến khoa học từ lực lượng sản xuất tiềm năng thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Tuy nhiên cần phải thấy rằng khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp dựa trên những tiền đề nhất định . Những tiền đề đó là :
1. Sản xuất phải đạt được một mức độ phát triển nhất định . Trong điều kiện sản xuất thấp kém , mối liên hệ khoa học và thực tiễn chủ yếu đi theo con đường từ khoa học đến thực tiễn , nghĩa là người ta tìm cách chủ yếu vận dụng những thà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.DOC