MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. Một số vấn đề lí luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 3
II. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 4
1. Khái niệm về lỗi và ý nghĩa của yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 4
2. Hành vi có lỗi và phân biệt hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý 8
2.1 Về lỗi cố ý 8
2.2 Về lỗi vô ý 9
III. Thực tiễn và việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và nhận xét 10
1. Một số vụ việc thực tế áp dụng quy định của pháp luật về việc xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 11
1.1 Vụ việc thứ nhất 11
1.2 Vụ việc thứ hai 12
1.3 Vụ việc thứ ba 14
2. Nhận xét về những quy định hiện hành của pháp luật về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 16
KẾT LUẬN 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5726 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hơp đồng- Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t hại ngoài hợp đồng.
Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng bởi mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Theo đó, khoản 1 Điều 307 BLDS quy định: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổ thất về tình thần” Như vậy, thiệt hại được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là những hành vi mà pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Cơ sở để xác định hành vi trái pháp luật là căn cứ vào các quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật: Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau.
II. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Khái niệm về lỗi và ý nghĩa của yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Lỗi hiểu theo góc độ luật học, từ xưa đến nay có nhiều học giả, trong đó có các luật gia đã quan tâm nhận xét rất khác nhau trong việc xác định yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói riêng.
Trong phạm vi bài viết này, lỗi được thống nhất hiểu là là trạng thái tâm lý của con người có thể làm chủ, nhận thức được hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó mang lại. Việc đánh giá hình thức, mức độ lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng khác với trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình sự, hình thức và mức độ lỗi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định kẻ phạm tội có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó, đối với trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi và mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất kể lỗi đó là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
Xung quanh vấn đề lỗi, một câu hỏi thường được đặt ra đó là: Mọi trường hợp trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng đều tiên niệm có sự thiệt hại, nhưng có phải mọi sự thiệt hại có đều phát sinh trách nhiệm không? Hay sự thiệt hại đó còn cần phải do một lỗi gây ra? Về vấn đề này có hai quan điểm: một quan điểm cố điển cho rằng phải có lỗi mới có trách nhiệm, một quan điểm khác lại chủ trương trách nhiệm khách quan không cần điều kiện lỗi.
Khuynh hướng cổ điển đặt căn bản của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng trên ý niệm lỗi của người gây ra thiệt hại cho người khác. Theo đó, lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại.
Đây cũng là quan điểm của Điều 604 BLDS: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
Giá trị của khuynh hướng cổ điển khi đặt trách nhiệm trên nền tảng lỗi là đã xác định phạm vi của tự do cá nhân: mọi người trong xã hội đều được tự do hoạt động, sự tự do ấy chỉ bị giới hạn bởi quyền lợi của người khác; vậy chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Song trong tình trạng kinh tế xã hội ngày nay, khuynh hướng cổ điển nhiều khi tỏ ra chật hẹp và không che chở được một cách có hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Thực vậy, trong trường hợp thiệt hại xảy ra mà không có ai chứng kiến, hoặc xảy ra mà không do lỗi của ai cả, nếu buộc nạn nhân phải dẫn chứng lỗi, tức là gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường của nạn nhân. Ngoài ra khuynh hướng cổ điển cũng không giải thích được trách nhiệm của người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi về các thiệt hại do họ gây ra.
Khuynh hướng thứ hai đó là khuynh hướng chủ trương trách nhiệm khách quan, không cần điều kiện lỗi. Khuynh hướng này đặt ra trách nhiệm khách quan cho người gây ra thiệt hại, do đó, trong mọi trường hợp, người này đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Khuynh hướng này cũng không thỏa đáng vì bảo đảm sự bồi thường cho nạn nhân trong mọi trường hợp không hẳn là một giải pháp ích lợi cho xã hội. Trên lập trường lợi ích công cộng còn phải quan tâm đến quyền tự do hoạt động của cá nhân, nếu thừa nhận sự bồi thường mà không đòi hỏi lỗi, mọi sự hoạt động của cá nhận sẽ bị tê liệt vì ai nấy đều không khỏi e sợ gây thiệt hại phải bồi thường mặc dầu không phạm lỗi.
Từ những lập luận trên, cùng với thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân Bộ luật dân sự Việt Nam được xây dựng trên cơ sở dung hòa cả hai khuynh hướng trên. Bên cạnh những điều khoản quy định yếu tố lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS Việt Nam cũng áp dụng chế độ trách nhiệm khách quan đối với các thiệt hại do tác động của các phương tiện cơ giới, của súc vật và vật vô tri thức khác. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Ví dụ tại Khoản 3 Điều 627 quy định là: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi”. Hoặc Điều 624 quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi.”
Khi xác định lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do lỗi cố ý hoặc vô ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt hại được xác định là sự kiện bất ngờ. Sự kiện bất ngờ được qui định tại Điều 11 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được dẫn chiếu vì điều luật này không những được áp dụng trong lĩnh vực luật hình sự, mà còn có ý nghĩa trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại ngoài hợp đồng. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó. Đối với sự kiện bất ngờ thì người gây thiệt hại cũng không bị coi là có lỗi vì họ không thể thấy trước, không buộc phải thấy trước hậu quả xảy ra do hành vi của mình, vì ở đây họ không có đủ điều kiện để lựa chọn tránh sự thiệt hại. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó.
Ngoài ra, đối với người tâm thần, người chưa thành niên dưới 15 tuổi, hoặc người bị người khác cố ý dùng chất kích thích làm cho mất khả năng nhận thức, không điều khiển được hành vi của mình, khi họ có hành vi trái pháp luật mà gây thiệt hại thì cũng không bị coi là có lỗi, từ đó họ cũng không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, lỗi được xem xét là lỗi của người quản lý người gây thiệt hại hoặc lỗi của người đã cố ý dùng chất kích thích làm người khác mất năng lực hành vi dẫn tới gây thiệt hại.
2. Hành vi có lỗi và phân biệt hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý
Hành vi có lỗi, theo quy định tại Điều 308 BLDS thì "Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác: Khoản 1 Điều 308 nói trên quy định lỗi do hành vi không thực hiện nghĩa vụ dân sự thì người có hành vi đó bị coi là có lỗi. Theo quy định của khoản 2 Điều 308 BLDS thì nội dung của khoản này có ý nghĩa viện dẫn trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
2.1 Về lỗi cố ý
Khoản 2 Điều 308 BLDS quy định: “Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra”.
Về mặt khách quan, quy định trên đã dự liệu trường hợp người gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vấn thực hiện, cho dù người đó mong muốn hoặc không mong muốn nhưng đã có thái độ để mặc cho thiệt hại xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình.
Về măt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi gây hại luôn nhằm mục đích có thiệt hại xảy ra cho người khác và được thể hiện dưới hai mức độ:
Mong muốn có thiệt hại xảy ra.
Không mong muốn có thiệt hại, nhưng lại để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Mức độ thể hiện ý chí- hành vi của người cố ý gây thiệt hại trong trường hợp người đó nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện, thì phải chịu trách nhiệm dân sự do lỗi cố ý là nguyên nhân của thiệt hai.
2.2 Về lỗi vô ý
Khoản 2 Điều 308 BLDS quy định: “Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.” Như vậy, lỗi vô ý biểu hiện ở việc người gây thiệt hại không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải thấy trước mà vẫn thực hiện hành vi ấy vì cho rằng hậu quả đó không thể xảy ra. Ví dụ: A có một vườn cây cạnh nhà B một hôm A chặt cây gỗ to để bán. Khi làm việc này, A biết là rất nguy hiểm vì cây gỗ có thể đổ vào nhà B. Nhưng A cho rằng mình có thể chặt cây đổ về phía vườn nhà. Kết quả cây gỗ đó đã đổ vào nhà ông B.
Đối với lỗi vô ý, tùy theo mức độ trầm trọng của nó, cũng có thể phân chia thành lỗi nặng, lỗi nhẹ, lỗi rất nhẹ như trong trường hợp trách nhiệm hợp đồng, nhưng đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, sự phân biệt này không có lợi ích gì trên thực tế, vì trên nguyên tắc một lỗi rất nhẹ cũng đủ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Lỗi vô ý hay lỗi cố ý cần được xem xét trên các căn cứ như thời gian, địa điểm, điều kiện, diễn biến của sự việc, căn cứ vào sự hiểu biết xã hội, nghiệp vụ chuyên môn của người có hành vi gây thiệt hại từ đó kết luận người gây thiệt hại có nhận thức được hành vi của mình hay không và buộc phải nhận thức được hay không. Khác với cách giải quyết trong trách nhiệm hình sự dù đối với lỗi vô ý hay lỗi cố ý thì người gây thiệt hại vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự. Trong trách nhiệm hình sự lỗi vô ý gây thiệt hại nhỏ thì không phải truy cứu trách nhiệm hình sự, còn trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì không vì sự cố ý hay vô ý của người gây thiệt hại mà xét họ có phải bồi thường hay không hoặc là xét ở mức độ tăng hay giảm mà ở đây chỉ xem xét mức độ giảm bồi thường được quy định ở khoản 2 Điều 605 BLDS.
Về ý nghĩa của việc phân biệt hai hình thức lỗi: ta nhận thấy rằng, mặc dù Điều 308 BLDS chia “lỗi” thành hai hình thức - lỗi cố ý và lỗi vô ý nhưng hầu như ý nghĩa của sự phân chia này không được thể hiện trong các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ Điều 615 có nhắc đến lỗi cố ý của người dùng rượu hoặc các chất kích thích khác làm cho người khác lầm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình mà gây thiệt hại là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên đối với mọi trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định cụ thể tại BLDS, việc phân định lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý ảnh hưởng đến mức bồi thường được quy định tại khoản 2 Điều 605, trong đó coi yếu tố lỗi vô ý là căn cứ giảm mức bồi thường khi người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắc và lâu dài của mình. Như vậy, trừ trường hợp quy định tại Điều 615, việc phân biệt lỗi cố ý và lỗi vô ý không có ý nghĩa trong việc xác định hoặc loại trừ trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại.
III. Thực tiễn và việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và nhận xét
1. Một số vụ việc thực tế áp dụng quy định của pháp luật về việc xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1 Vụ việc thứ nhất
A, N, P và T là công nhân của công ty X có mâu thuẫn sâu sắc với B. Một buổi tối, A, N, P và T đến nhà riêng của B để đánh. Khi gặp B và H (bạn Bình) đi chơi về, bọn A, N, P và T chặn đường gây sự. H can ngăn nhưng bọn chúng không nghe T rút dao đâm H một nhát và sau đó cả bốn tên xông vào đấm đá B. B bị đánh bất ngờ, ngã xuống đất và kêu la, sau đó B cố gượng dậy, tay trái xách dép vừa chạy vừa kêu cứu. A và đồng bọn tiếp tục đuổi theo. B chạy được khoảng 50 mét nữa thì bị vấp ngã. A, N, và P xông vào đấm đá B. T dùng dao mang theo chém nhiều nhát vào đầu và người B không chống đỡ nổi bị ngất xỉu tại chỗ. Bà con xung quanh chạy vào can và giải tán đám ẩu đả và đưa B đến bệnh viện cấp cứu.
Hậu quả của vụ án được xác định như sau: Biên bản giám định pháp y số 80/GĐPY-TT ngày 03/10/1997 kết luận B bị thương với tỷ lệ thương tật là 9,86%. T đánh H bị thương, theo biên bảo giảm định pháp y thương tật số 95/GĐPY-TT kết luận H tỉ lệ thương tích là 6%.
Căn cứ vào Điều 604 và Điều 609 BLDS nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Theo điều 604 BLDS 2005: căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“1 người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại thì phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Căn cứ theo điều 609 BLDS 2005: về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Tòa án đã quyết định giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: buộc các bị cáo A, N, P và T phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho B. Trong đó, căn cứ vào mức độ lỗi của từng người mà tòa án quy định quy định cụ thể: A phải bồi thường số tiền là 710.000đ; N phải bồi thường 880.000đ; P phải bồi thường 790.000đ; T phải bồi thường 960.000đ. Ngoài ra, Tòa án cũng yêu cầu T phải bồi thường cho H số tiền là 780.000đ.
Từ những tình tiết của vụ án, có thể nhận thấy hành vi đánh B của A, N, P và T là những hành vi gây thiệt hại hoàn toàn với lỗi cố ý của những người này. Tức là những người này nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác nhưng do thù hận cá nhân mà vẫn thực hiện thực hiện hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Vì vậy xác định trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại của A, N, P và T là hoàn toàn hợp lý; việc tòa án phân chia từng phần nghĩa vụ mà mỗi người này phải thực hiện không làm mất đi bản chất liên đới giữa những người này.
Tuy nhiên, qua vụ án trên ta cũng nhận thấy việc xác định lỗi để xác định mức bồi thường cho từng bị cáo là rất phức tạp. Việc xác định mức bồi thường về dân sự như bản án đã tuyên chỉ là suy đoán về lỗi để xác định mức bồi thường mà chưa có những căn cứ và cơ sở pháp lý chặt chẽ để xác định mức bồi thường. Ta thấy tại sao A, N, P và T đều dùng tay, chân để đánh B, cùng tham gia từ đầu đến cuối, cùng gây ra thương tích cho B nhưng mức bồi thường xác định cho mỗi bị cáo lại khác nhau? Đây là một câu hỏi cần được giải đáp và cần những văn bản dưới luật hướng dẫn đường lỗi xét xử một cách chặt chẽ hơn.
1.2 Vụ việc thứ hai
N là lái xe làm hợp đồng cho công ty du lich X. N là lái xe du lịch và đã lái xe 20 năm. Một lần khi đang xuống đèo, thấy một ô tô xuất hiện ở chiều ngược lại, theo quán tính, N giảm ga, “rà phanh” để giảm tốc độ, nhưng không ngờ xe bị mất phanh. N giật phanh tay, khoá máy, cuối cùng là về số để giảm tốc độ nhưng mới về đến số 3 thì xe đã rời khỏi mép đường và lao xuống vực. N cho biết, chiếc xe bị tai nạn hiệu Isuzu còn mới, trước khi khởi hành N đã kiểm tra kỹ chiếc xe và trong hành trình trước khi bị tai nạn xe không có trục trặc kỹ thuật. Tai nạn làm chết 10 người, nhiều người bị thương, xe ô tô hỏng toàn bộ.
Trong tình huống này, thiệt hại do tự bản thân hoạt động của chiếc xe gây ra. N không có lỗi trong việc điều khiển vì tình huống quá bất ngờ, nằm ngoài sự kiểm soát của N. Theo Điều 623 BLDS 2005 xe ô tô là phương tiện giao thông vận tải cơ giới – là nguồn nguy hiểm cao độ. Trong trường hợp này, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo Điều 623 BLDS 2005 và Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Trong trường hợp trên, N là người đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ do Công ty X giao cho. Công ty X vẫn đang nắm giữ, quản lý, khai thác, hưởng công dụng, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ, vì vậy, không phải N là người được chuyển giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để khai thác, hưởng lợi. Vì vậy, Công ty X là chủ sở hữu chiếc xe phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp nào chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Trường hợp chủ sở hữu đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, khai thác, như cho thuê, cho mượn, bán trả góp nhưng trong thời gian người mua chưa trả hết tiền…;
Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại như người bị thiệt hại cố ý lao vào xe để tự tử…
Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết;
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị người khác chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật mà chủ sở hữu không có lỗi khi nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Như vậy, trong tình huống này, N không phải bồi thường thiệt hại, N là người đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ do Công ty X giao cho. Công ty X vẫn đang nắm giữ, quản lý, khai thác, hưởng công dụng, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ, vì vậy, không phải N là người được chuyển giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để khai thác, hưởng lợi. Vì vậy, Công ty X là chủ sở hữu chiếc xe phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.3 Vụ việc thứ ba
Chiều 1 – 4 - 2009, ông Trần văn Toàn, 48 tuổi (trú tại Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội), đến Siêu thị điện máy Trần Anh để bảo hành máy tính. Sau đó, từ tầng bốn ông Toàn đi thang máy xuống tầng một của siêu thị ra về. Khi cửa thang máy ở tầng bốn vừa mở, ông Toàn bước vào và… rơi thẳng xuống nóc ca-bin thang máy đang nằm ở tầng trệt! Lập tức, ông được đưa đến Bệnh viện Bạch Mai cấp cứu trong tình trạng vỡ xương chậu, gãy hai ngón tay ở bàn tay phải. Sau đó, ông Toàn phải lần lượt điều trị bệnh ở bệnh viện Trung ương quân đội 108 Viện Chấn thương chỉnh hình quân đội.
Sau sự cố này, ông Toàn đã gửi đơn yêu cầu Siêu thị điện máy Trần Anh phải bồi thường các thiệt hại phát sinh liên quan đến sức khỏe của mình. Theo ông Toàn, thang máy trên thuộc loại bán tự động, dễ gây tai nạn cho người sử dụng nhưng Siêu thị điện máy Trần Anh đã không có sự cảnh báo cần thiết (như dán bảng nội quy ngay tại cửa thang máy…). Ngoài tầng trệt có người ngồi trực, các tầng còn lại trống trơn, ai muốn đi sao cũng được.
Ngày 12-8, trong cuộc họp hòa giải tại Công an phường Láng thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Phía ông Toàn đòi công Ty Trần Anh bồi thường 70 triệu đồng. Thế nhưng phía công ty Trần Anh chỉ đồng ý hỗ trợ và thanh toán cho ông Toàn những chi phí điều trị ngoài chế độ bảo hiểm y tế.
Ngày 17-10, tại buổi hòa giải lần hai ở Công an quận Đống Đa, phía ông Toàn đã nâng mức bồi thường lên hơn 100 triệu đồng, bao gồm các khoản mất thu nhập, thuê người chăm sóc, tinh thần giảm sút… Lần này, phía Công Ty Trần Anh tiếp tục giữ nguyên cách hỗ trợ đã nêu ở trên. Ông Hoàng Văn Hùng, Phó giám đốc Công Ty Trần Anh đưa ra lý do đó là: “Công Ty Trần Anh không thể đáp ứng những yêu cầu trên của gia đình ông Toàn vì tai nạn xảy ra ngoài mong muốn của đôi bên”. Do không thương lượng được nên phía ông Toàn đang chuẩn bị nộp đơn khởi kiện công ty Trần Anh.
Trong trường hợp trên, lý do mà công ty Trần Anh đưa ra đó là “tai nạn nằm ngoài mong muốn của đôi bên” để từ đó không chấp nhận bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe cho ông Toàn là không hợp lý. Bởi lẽ, căn cứ vào Điều 627 BLDS: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng” .
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ được loại trừ trong trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Trong trường hợp này, phía công ty Trần Anh hoàn toàn có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đến sức khỏe cho ông Toàn. Lỗi ở đây được suy đoán là lỗi vô ý do công ty Trần Anh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng quản lý thang máy dù biết thang máy có thể gây ra nguy hiểm cho người sử dụng nhưng đã không có những biện pháp đảm bảo an toàn cần thiết như dán bảng nội quy ngay tại cửa thang máy, cử nhân viên trực ở các cửa thang máy…vì cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra.
Thiệt hại về sức khỏe đối với ông Toàn là hậu quả tất yếu do hành vi không áp dụng các biện pháp an toàn cần thiết trong việc quản lý thang máy. Do vậy, đã có đẩy đủ điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Căn cứ vào Điều 604, Điều 609 và Điều 627 BLDS thì công ty Trần Anh phải bồi thường cho ông Toàn toàn bộ thiệt hại.
2. Nhận xét về những quy định hiện hành của pháp luật về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thứ nhất, theo nguyên tắc chung thì lỗi là điều kiện cần thiết để áp dụng trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Chính vì vậy mà quy phạm về trách nhiệm do có lỗi được đưa vào Bộ Luật dân sự. Khoản 1 Điều 308 Bộ Luật dân sự (BLDS) quy định rằng, người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Mặc dù pháp luật dân sự coi lỗi là điều kiện tiên quyết để áp dụng trách nhiệm dân sự nhưng lại không đưa ra định nghĩa rõ ràng về lỗi. Điều này đã gây ra một số bất cập trong việc xác định trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Ngoài ra, trong khoa học pháp luật Dân sự hiện nay, còn tồn tại những quan điểm trái chiều nhất định trong việc định nghĩa lỗi. Vì vậy, có thể thấy rằng cần thiết phải có một định nghĩa chung, thống nhất và đúng đắn về lỗi trong các quy định của pháp luật Dân sự.
Thứ hai, Đoạn cuối Điều 617 BLDS qui định trách nhiệm hỗn hợp nhưng trách nhiệm hỗn hợp được loại trừ "nếu thiệt hại xảy ra hoàn tòan do lỗi của người bị thiệt hại, thì người gây thiệt hại không phải bồi thường". Theo qui định trên, hình thức lỗi của người bị thiệt hại không cần phải xác định, mà lỗi hiểu theo nghĩa "hoàn tòan" thuộc về người bị thiệt hại. Áp dụng qui định này trong việc giải quyết việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phù hợp với hoàn cảnh luật định.
Thứ ba, thiệt hại xảy ra hoàn tòan do lỗi của người bị thiệt hại, thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. Lỗi của người bị thiệt hại có thể do vố ý hoặc cố ý nhưng phải xác định được lỗi đó hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại, theo đó người gây thiệt hại phải là người hoàn toàn không có lỗi thuộc hình thức này hay hình thức khác, ở mức độ này hay ở mức độ khác thì người có đó không phải bồi thường. Người gây thiệt phải chứng minh được là mình hoàn toàn không có lỗi, mà lỗi hoàn toàn thuộc về phía người bị gây thiệt hại. Mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra luôn luôn xác định được trong một thiệt hại cụ thể. Nhưng trách nhiệm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hơp đồng- một số vấn đề lí luận và thực tiễn (bài lớn HK DS module 2).doc