DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUỸ BHXH 3
1.2. Đối tượng, mục đích của BHXH. a, Đối tượng của BHXH 3
1.3. Chức năng của BHXH. 4
2.Quỹ BHXH. 6
2.1. Khái niệm. 6
2.2. Đặc điểm của quỹ BHXH 6
2.3. Nguồn hình thành quỹ BHXH. 8
3. Nội dung của quản lý quỹ BHXH. 10
4.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư quỹ BHXH 13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỸ BẢO HỂM XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ KHI HOẠT ĐỘNG ĐẾN NAY. 15
1. Vai trò của hoạt động đầu tư quỹ BHXH. 15
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư quỹ BHXH. 16
3.Thực trạng hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam từ khi bắt đầu đi vào hoạt động đến nay. 18
4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư quỹ BHXH 28
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỸ BHXH 29
I, Một số kiến nghị đối với hoạt động đầu tư quỹ BHXH 29
II, Điều kiện để thực hiện các kiến nghị trên. 34
KẾT LUẬN 37
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung của quản lý quỹ BHXH.
Quản lý quỹ BHXH có 3 nội dung:
Quản lý hoạt động thu quỹ BHXH. BHXH thu từ các đối tượng sau:
Thu từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động
Xuất phát từ các quan điểm BHXH, nguồn tài chính dùng để tài trợ trang trải cho các khoản chi trả trợ cấp BHXH về cơ bản được lấy từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Đóng góp của người lao động được xác định theo một tỉ lệ phần trăm nhất đinh so với tiền lương, còn mức đóng góp của người sử dụng lao động được xác định bằng một tỉ lệ so với tổng quỹ lương được bảo hiểm.
Về nguyên tắc mức đóng của ngừơi lao động và người sử dụng lao động cần phải được xác định một cách cụ thể, không được quá thấp nhưng cũng không được quá cao.
Thu từ nhà nước.
Nhà nước đóng góp vào quỹ BHXH dưới các hình thức: bù thiếu, tài trợ cho một hoặc một vài chế độ BHXH. Nhà nước luôn có đóng góp nhất định cho quỹ BHXH từ ngân sách nhà nước. Đây là một nguồn thu quan trọng để hỗ trợ các hoạt động chi trả trợ cấp cho người lao động, giúp quỹ BHXH thực hiện tốt các vấn đề xã hội.
Thu từ hoạt động đầu tư.
Thu từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH góp một phần quan trọng để trang trải các khoản chi của quỹ đặc biệt là các khoản chi dài hạn. Lãi suất của hoạt động đầu tư sẽ được sử dụng để trả lương cho bộ máy BHXH, góp phần bù đắp phần trượt giá của đồng tiền và đảm bảo tăng trưởng cho quỹ, giảm gánh nặng đóng góp cho người lao động và người sử dụng lao động.
Thu từ các nguồn khác như thu do sự đóng góp của những người hảo tâm, từ các tổ chức phi chính phủ; thu từ tiền phạt BHXH của những người, tổ chức không tuân thủ pháp luật BHXH trong việc thực hiện nghĩa vụ BHXH; thu từ việc thanh lý tài sản cố định của cơ quan BHXH.
Việc quản lý thu qũy BHXH có vai trò quan trọng hàng đầu bởi lẽ có thực hiện tốt khâu này mới có một quỹ BHXH lớn để từ đó đáp ứng được khả năng chi
trả BHXH; đồng thời đảm bảo công bằng giữa những người tham gia BHXH, đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu chính sách BHXH đã đặt ra. Ngoài ra quản lý thu BHXH tốt sẽ góp phần tăng cường cho hoạt động xây dựng các công trình phúc lợi xã hội.
Muốn thực hiện tốt khâu này cần xác định và quản lý chính xác được số lượng đối tượng đóng BHXH đảm bảo thu đúng thu đủ tránh thất thoát.
Quản lý hoạt động chi quỹ BHXH.Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau:
+ Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH
+ Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
+ Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
Chăm sóc y tế
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tuổi già
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp sinh đẻ
Trợ cấp khi tàn phế
Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng).
Tuy nhiên khi xây dựng các chế độ BHXH cần phải dựa vào những cơ sở kinh tế - xã hội như: Cơ cấu kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao động, hệ thống tài chính của quốc gia đó,… Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: tuổi htọ bình quân của người lao động, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong,
độ tuổi sinh đẻ của lao động nữ, môi trường lao động,...Và đối với từng chế độ cần phải có mức trợ cấp hợp lý với mức đóng.
Việc quản lý chi quỹ BHXH cần phải đảm bảo nguyên tắc là chi đúng, chi đủ và kịp thời đảm bảo công bằng cho các đối tượng hưởng. Các khoản chi chí cho sự nghiệp quản lý BHXH đòi hỏi phải tiết kiệm và hiệu quả .
Quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
Đây là hoạt động rất quan trọng góp phần cho việc quản lý quỹ BHXH đạt hiệu quả cao. Mục đích của hoạt động này là để trang trải chi phí cho việc quản lý BHXH, góp phần làm tăng trưởng quỹ BHXH.
4.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư quỹ BHXH
- Hiệu suất đầu tư quỹ BHXH.
Hiệu suất Tổng số tiền lãi đầu tư
đầu tư Tổng số tiền đem đầu tư
Hiệu suất đầu tư cho biết hiệu quả của hoạt động đầu tư. Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá kết quả của hoạt động đầu tư có tốt hay không. Nếu hiệu suất đầu tư quỹ BHXH càng gần tới 1 thì hoạt động đầu tư quỹ càng hiệu quả và ngược lại nếu càng gần về 0 thì hiệu quả càng thấp, và chỉ tiêu này sẽ là dấu hiệu cảnh báo cho hoạt động đầu tư để từ đó cơ quan BHXH sẽ có những điều chỉnh nhất định.
Hiệu quả sử dụng quỹ BHXH.
Hiệu quả sử tổng số tiền đem đầu tư
dụng quỹ tổng quỹ tại thời điểm đem đầu tư
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng nguồn quỹ BHXH trong hoạt động đầu tư. Nếu chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ càng có nhiều tiền nhàn rỗi từ quỹ được sử dụng đầu tư vào nền kinh tế, chứng tỏ việc sử dụng quỹ là có hiệu quả
Tỉ suất lợi nhuận trên tổng quỹ BHXH
tổng lãi đầu tư
T =
tổng quỹ tại thời điểm tính lãi
Chỉ số này cho biết hoạt động đầu tư đóng góp vào quỹ bao nhiêu % và cho biết hiệu quả sử dụng nguồn quỹ BHXH để đầu tư.
Hiệu quả xã hội của hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
Chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu nhỏ như
+ Số người có việc làm do hoạt động đầu tư quỹ BHXH mang lại, và tốc độ tăng số lao động này qua các năm. Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội quan trọng của hoạt động đầu tư quỹ BHXH cho thấy sự đóng góp của nó vào vấn đề giải quyết việc làm cho xã hội. Chỉ tiêu này cho biết số tuyệt đối và số tương đối về lao động trong hoạt động đầu tư quỹ, đồng thời cho biết quy mô bộ máy quản lý đầu tư của quỹ BHXH.
+ Số tiền lãi từ hoạt động đầu tư quỹ đóng góp vào quỹ BHXH, tỉ lệ số tiền lãi trên số người lao động tham gia quỹ BHXH và tỉ lệ % số tiền lãi đó so với tổng quỹ. Chỉ tiêu này cho biết hoạt động đầu tư đóng góp bao nhiêu cho người lao động tham gia BHXH, cho biết lợi ích mà hoạt động đầu tư quỹ mang lại là bao nhiêu so với số tiền mà họ đóng góp.
Các chỉ tiêu này là những căn cứ quan trọng để cơ quan BHXH có những điều chỉnh phù hợp sao cho hoạt động đầu tư được hiệu quả hơn.
Trên đây là những lý thuyết cơ bản làm căn cứ để BHXH Việt Nam làm căn cứ tiến hành các hoạt động đầu tư quỹ BHXH của mình.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỸ BẢO HỂM XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ KHI HOẠT ĐỘNG ĐẾN NAY.
Vai trò của hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
Đầu tư vốn nhàn rỗi là một mặt hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Ở nước ta quỹ BHXH được hình thành và hoạt động độc lập từ cuối năm 1995, thay cho trước đó là một khoản thu và chi của ngân sách nhà nước. Đầu tư vốn nhàn rỗi đã trở thành một trong 3 hoạt động chính của quỹ BHXH. Có rất nhiều lý do dẫn đến cần phải đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH nhưng có những lý do chủ yếu sau:
Hiện nay, mặc dù các chế độ ngắn hạn luôn có kết dư song trong các chế độ dài hạn như hưu trí và tử tuất thì tốc độ tăng của thu luôn thấp hơn tốc độ tăng của chi, như vậy trong vòng 30 năm tới nếu chỉ dựa vào các khoản thu thì quỹ có nguy cơ mất cân đối và không ổn định vì vậy cần phải có biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Do quỹ BHXH hiện nay được hạch toán theo mô hình tồn tích, mỗi một lao động sau một khoảng thời gian đóng bảo hiểm nhất định mới được hưởng trợ cấp, như vậy trong khoảng thời gian đó, quỹ luôn tích luỹ một lượng tiền rất lớn, nếu không tích cực đầu tư thì yếu tố lạm phát sẽ làm giảm giá trị của tổng quỹ.
Đầu tư quỹ BHXH để có kinh phí trang trải các hoạt động của cơ quan BHXH. Theo Quyết định số 144/2005/QĐ-TTg quy định nguồn kinh phí hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam hàng năm được trích từ tiền sinh lời do thực hiện biện pháp đầu tư bảo toàn các quỹ theo tỉ lệ phần trăm trên số thực thu BHXH và BHYT hàng năm. Tỉ lệ trích là 3,6% và ổn định trong 3 năm 2005-2007.
Khi quỹ được tăng trưởng thì ngân sách Nhà nước không phải bù thiếu do sự mất cân đối của các quỹ thành phần, do đó hoạt động đầu tư giúp giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Quỹ BHXH là một khâu tài chính trung gian cùng với ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp hinh thành nên một hệ thống tài chính quốc gia, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh thế mạnh của hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy cần phải thực hiện đầu tư tăng trưởng quỹ để bổ sung vào nguồn quỹ BHXH cho lớn mạnh hơn.
Hơn nữa, “cổ đông” của quỹ là những người lao động và người chủ sử dụng lao động, nếu hoạt động đầu tư quỹ BHXH có hiệu quả thì họ sẽ có nhiều niềm tin hơn vào sự an toàn của quỹ, và sẽ ủng hộ cho sự phát triển của quỹ. Đây sẽ là động lực lớn mạnh cho sự phát triển của quỹ BHXH.
Nâng cao hiệu quả đầu tư sẽ hạn chế được nguy cơ tăng mức đóng của quỹ BHXH
Nâng cao hiệu quả đầu tư tức là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của quỹ nói riêng và nguồn vốn của xã hội nói chung.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
Hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
Hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về đầu tư nói riêng sẽ là cơ sở đầu tiên để hoạt động đầu tư quỹ được thực hiện có hiệu quả hay không.
Đặc điểm của thị trường vốn: khi nền kinh tế phát triển ổn định, các hoạt động đầu tư sẽ được thuân lợi rất nhiều, các nhà đầu tư yên tâm hơn khi bỏ một lượng vốn lớn vào trong lưu thông, làm gia tăng giá trị của đồng vốn ban đầu, và khi đó quỹ BHXH sẽ được đầu tư vào nhiêu lĩnh vực hơn.
Sự phát triển của các loại hình bảo hiểm thương mại khác tương tự như BHXH có tính ưu việt hơn sẽ là những đối thủ cạnh tranh khá là quyết liệt đối với sự phát triển của quỹ BHXH nói chung và đối với hoạt động đầu tư nói riêng.
Quy mô quỹ BHXH: nếu quy mô quỹ lớn thì quỹ có thể đầu tư vào các lĩnh vực có độ rủi ro cao, thu được lãi cao. Ngược lại nếu quy mô quỹ nhỏ thì quỹ chỉ có thể đầu tư vào các lĩnh vực có độ an toàn cao hơn và phải chịu mức lãi thấp hơn.
Chính sách của Nhà nước: Nhà nước quy định danh mục đầu tư nhằm đảm bảo an toàn cho quỹ, đảm bảo cho quỹ có khả năng chi trả trong những năm nghiệp vụ tiếp theo. Một chính sach BHXH quy định về hoạt động đầu tư của Nhà nước phù hợp là nhân tố quan trọng làm tăng trưởng quỹ.
Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong hoạt động đầu tư: để hoạt động đầu tư hiệu quả thì rất cần thiết phải có những người am hiểu về thị trường tài chính của Việt Nam. Có như vậy mới phân tích được loại hình đầu tư noà là phù hợp trong hiện tại, vừa an toàn vừa có lãi, đồng thời họ sẽ có những kiến nghị với cấp trên về việc thay đổi quy định đầu tư cho thích ứng với thực tế.
Điều kiện làm việc và quyền lợi của người cán bộ BHXH được tốt thì họ sẽ có điều kiện phát huy tốt khả năng lao động sáng tạo của mình.
Khi môi trường vi mô và vĩ mô ổn định thì hoạt động đầu tư sẽ rất hiệu quả, và ngược lại nếu hai môi trường này có nhiều biến động thì hoạt động đầu tư cũng có những biến động và trở nên kém hiệu quả. Vì vậy khi đã xác định được những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của quỹ BHXH thì Chính phủ và cơ quan BHXH cần có những biện pháp hạn chế những tác động xấu và tận dụng những tác động tôt từ môi trường xung quanh.
3.Thực trạng hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam từ khi bắt đầu đi vào hoạt động đến nay.
Theo luật BHXH năm 2007 và Nghị định 152/NĐ-CP của Chính phủ thì quỹ BHXH được sử dụng đầu tư vào các lĩnh vực sau:
a) Mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước, của Ngân hàng Thương mại của Nhà nước;
b) Cho Ngân hàng Thương mại của Nhà nước vay;
c) Đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia;
d) Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu lớn về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội từ tiền tạm thời nhàn rỗi. Hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết. Tiền sinh lãi từ hoạt động đầu tư hàng năm được phân bổ: trích kinh phí quản lý của hệ thống BHXH Việt Nam, trích quỹ khen thưởng và phúc lợi, phần còn lai được bổ sung vào các quỹ bảo hiểm.
Hiện nay, BHXH Việt Nam mới chỉ thực hiện các biện pháp đầu tư như mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước; cho ngân sách Nhà nước vay; số dư của quỹ BHXH Việt Nam gửi tại hai tài khoản tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp; chưa thực hiện đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do thủ tướng Chính phủ quyết định.
Về lãi suất đầu tư, lãi suất của các khoản cho hệ thống Ngân hàng thương mại Nhà nước, quỹ hỗ trợ phát triển, Ngân hàng chính sách theo lãi suất thị trường
được ngân hàng Nhà nước công bố, lãi suất cho ngân sách Nhà nước vay, mua công trái, trái phiếu Chính phủ do Chính phủ quyết định.
Tính đến hết ngày 31/12/2006, quỹ BHXH đầu tư hơn 50 ngàn tỉ đồng với tỉ lệ phân bổ tài sản như sau:
Bảng 2: Danh mục đầu tư quỹ BHXH (tính đến hết ngày 31/12/2006).
STT
Danh mục đầu tư
Số tiền đầu tư
(tỉ đồng)
Cơ cấu
(%)
1
Cho vay đối với hệ thống các NHTM Nhà nước
21,059
39.11
2
Cho vay đối với hệ thống Ngân hàng chính sách
442
0.82
3
Cho vay đối với hệ thống quỹ đầu tư phát triển
9,115
16.93
4
Cho vay đối với ngân sách Nhà nước
12,828
23.83
5
Mua trái phiếu Chính phủ
9,812
18.22
6
Mua công trái
583
1.08
Tổng
53,839
100
(Nguồn: Bảo hiểm Xã hội Việt Nam)
Qua bảng số liệu ta thấy: trong danh mục đầu tư không có loại hình đầu tư BHXH được đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do thủ tướng chính phủ quyết định, như vậy BHXH Việt Nam cần nghiên cứu và đồng thời cần phải mở rộng các hình thức đầu tư. Có như vậy mới phát huy được tiềm năng còn tiềm tàng của quỹ BHXH vói số dư ngày càng lớn. Qua bảng trên ta cũng thấy tỉ trọng cho vay trong danh mục đầu tư có sự khác biệt. Quỹ BHXH cho vay nhiều nhất là hệ thống các ngân hàng thương mại Nhà nước (chiếm 39,11% tổng số vốn đầu tư) và thấp nhất là hệ thống các ngân hàng chính sách (0,82%). Như vậy có thể nói quỹ BHXH chủ yếu là để cho vay và nhìn chung là với lãi suất thấp. Điều này xảy ra là do việc quy định của Chính phủ, nhằm hỗ trợ các ngân hàng nhà nước và phục vụ nhiêm vụ kinh tế xã hội đối với đất nước. Trong đó, cho vay đối với Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam là cho vay theo chỉ định của Chính phủ, nằm trong kế hoạch tín dụng hàng năm mà Chính phủ giao cho BHXH Việt Nam.
Tuy nhiên có thể thấy rằng danh mục đầu tư quy định còn hạn hẹp: mặc dù thủ tướng Chính phủ đã cho phép dùng quỹ BHXH nhàn rỗi để đầu tư vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước nhưng BHXH Việt Nam vẫn chưa tìm được đối tác để đầu tư. Các quy định về phạm vi cho hoạt động đầu tư quỹ
BHXH còn hạn hẹp, mọi hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH đều do chính phủ quy định dù các hình thức đầu tư được ghi rõ trong quy định, nhưng nếu Tổng giám đốc BHXH Việt Nam muốn đầu tư vào đâu thì phải được sự phê duyệt của Chính phủ, do vậy làm cho hoạt động đầu tư của quỹ BHXH trở nên thụ động, không linh hoạt, không chủ động được vốn và kém hiệu quả.
Phần lớn vốn nhàn rỗi của quỹ được đầu tư vào các lĩnh vực có lãi suất thấp. Đối tượng cho vay của quỹ BHXH chủ yếu là bốn hệ thống ngân hàng thương mại của nhà nước: ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam, ngân hàng công thương Việt Nam và ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Lãi suất đầu tư chỉ đảm bảo vấn đề về bảo toàn vốn, không đạt được mục tiêu tăng trưởng: hoạt động đầu tư của quỹ chỉ mang tiền để gửi tại những nơi an toàn và hưởng lãi suất thấp. Chưa phát huy được vai trò của một ngành kinh tế độc lập, ví dụ như Nhà nước quy định quỹ chỉ được cho ngân sách nhà nước vay với lãi suất không kì hạn 0.3% / tháng, hàng năm quỹ phải dành ra 40-42% nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay theo chỉ thị của Chính phủ. Những nguyên nhân này đã làm giảm hiệu quả của hoạt động đầu tư quỹ BHXH
Bảng 2: Số lãi đầu tư thu được qua các năm(1997-2006)
Năm
Số dư quỹ BHXH(tỉ đồng)(1)
Số tiền đầu tư(tỉ đồng)
(2)
Tốc độ tăng số tiền đầu tư
Số lãi thu được(tỉ đồng)
(3)
Lãi suất(%)
(4)=(3)/(2)
Tốc độ tăng lãi liên hoàn(%)
(5)=(Yi-Yi-1)/Yi-1
Tỉ trọng số tiền đem đầu tư(%)
(6)=(2)/(1)
tốc độ tăng lãi định gốc (%)(7)=(Yi-Y1)/Y1
1997
5,785
4,072
_
209
5.13
-
70.39
-
1998
8,909
7,493
84.01
472
6.30
125.84
84.11
125.84
1999
12,117
10,628
41.84
665
6.26
40.89
87.71
218.18
2000
16,556
15,663
47.37
824
5.26
23.91
94.61
294.26
2001
21,573
20,430
30.43
1,004
4.91
21.84
94.70
380.38
2002
26,974
26,410
29.27
1,623
6.15
61.65
97.91
676.56
2003
33,106
34,118
29.19
1,852
5.43
14.11
103.06
786.12
2004
40,588
40,514
18.75
2,231
5.51
20.46
99.82
967.46
2005
47,500
47,500
17.24
3,000
6.32
34.47
100.00
1335.41
2006
54,048
53,839
13.35
4,081
7.58
36.03
99.61
1852.63
2007
7.00
93.19
Tổng
15,961
42.13
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Bảng 3: Biểu đồ số lãi thu đựơc qua các năm
Bảng 4: Biểu đồ tỉ lệ lãi suất qua các năm từ 1997-2006
Qua bảng và biểu đồ trên ta thấy:
Trong năm 2006, BHXH Việt Nam đã thực hiện đầu tư khoảng 6.339 tỉ đồng với lãi suất bình quân 7,58%/năm. Đây là năm BHXH đầu tư với lãi suất cao nhất từ trước đến nay, cho thấy BHXH Việt Nam đang thực hiện tốt việc đầu tư. Có thể nói quá trình đầu tư đảm bảo an toàn không xảy ra rủi ro, thất thoát trong quá trình đầu tư, đầu tư theo đúng danh mục quy định và tạo nguồn vốn quan trọng phục vụ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Tổng số tiền đầu tư tài chính luỹ kế qua các năm là 53.839 tỉ đồng. Đây là một khoản tiền đầu tư rất lớn, tổng lãi thu được từ năm 1997 đến năm 2006 đạt 15.961 tỉ đồng, đã góp phần đáng kể vào hoạt động đầu tư vào nền kinh tế.
Số lãi hàng năm thu được có xu hướng tăng dần, lãi thu được năm 2006 tăng 1852,63% so với năm 1997 tức là gấp 20 lần, điều đó cho thấy quỹ BHXH ngày càng lớn, số dư ngày càng nhiều.
Tỉ trọng số tiền đem đầu tư so với số tiền dư quỹ là tương đối cao, trung bình đạt 93,19% cho thâý việc đầu tư quỹ được cơ quan BHXH tiến hành tương đối tốt, chứng tỏ hoạt động đầu tư ngày càng có vai trò quan trọng, là một trong những nhiêm vụ trọng tâm nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Tốc độ tăng của tiền lãi mặc dù giảm trong thời gian tư năm 1997 đến năm 2003 nhưng từ đó đến cuối năm 2006 tốc độ tăng tiền lãi được cải thiện và liên tục tăng. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
Tuy nhiên sự tăng trưởng của quỹ là không đều qua các năm và tăng với tốc độ thấp. Lý do của sự tăng trưởng này là ở lãi suất đầu tư thấp, chỉ đạt từ 5- 7%, năm 2001 lãi suất chỉ đạt 4,91% ngoại trừ có năm tỉ lệ lãi đầu tư đạt cao nhất là 7,58%; đồng thời tốc độ tăng số tiền đầu tư giảm dần từ 81,01% năm 1997 xuống còn 13,35% năm 2006, đã làm cho tốc độ tăng lãi đầu tư không cao. Với chỉ số giá tiêu dùng năm 2006 là 6,9% và dự kiến năm 2007 là 8,3 %, có thể thấy số tiền lãi thu về khó có thể thực hiện được yêu cầu bảo toàn và tăng trưởng quỹ về lâu dài. Đây là tình trạng đã kéo dài trong nhiều năm của hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
Ngoài ra hoạt động đầu tư quỹ BHXH còn đạt được những thành tựu quan trọng khác như:
Số tiền nhàn rỗi luôn được đầu tư theo đúng danh mục mà Nhà nước đã quy định và phù hợp với quy chế quản lý tài chính.
Hoạt động đầu tư luôn luôn đảm bảo an toàn, không để xảy ra tình trạng thất thoát vốn đầu tư (tỉ trọng vốn đầu tư trên vốn nhàn rỗi đạt 93,19%, đặc biệt năm 2005 đã đạt 100%.Đây là một con số đáng mừng cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH).
Hoạt động đầu tư còn thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội như là cho các ngân hàng Nhà nứơc vay để đảm bảo nhu cầu về vốn.
Hoạt động đầu tư quỹ đã góp phần tạo ra sự ổn định cân đối và phát triển cho quỹ BHXH.
Chi phí hoạt động của bộ máy được chi trả thông qua tiền lãi thu được(khoảng 3% tiền lãi thu đựơc dùng chi trả chi phí hoạt động của bộ máy) từ hoạt động đầu tư. Nhờ vậy mà gánh nặng của tổng chi giảm bớt so với thu BHXH, BHYT từ người tham gia BHXH. Điều này thể hiện tính đúng đắn sự hoạt động bộ máy của quỹ, thể hiện rõ vai trò của bộ máy quản lý quỹ là phục vụ cho ngưòi lao động
Mặc dù vậy bảng trên cũng cho thấy sự yếu kém của hoạt động đầu tư thể hiện ở các mặt:
Lãi suất đầu tư chưa hình thành và vận động theo quy luật lãi suất của thị trường, không theo kịp thị trường, trong khi lạm phát liên tục tăng và có xu hướng tăng cao trong tương lai; lãi suất trong suốt những năm đầu tư quỹ hầu như đều thấp hơn tỉ lệ lạm phát và chỉ số giá tiêu dùng.
Chưa có bộ phận chuyên trách về đầu tư tài chính trong cơ quan BHXH: hiện nay hoạt động đầu tư quỹ được giao cho Ban Kế hoạch tài chính thực hiện, chưa hình thành một bộ phận riêng để tham mưu cho ban lãnh đạo về hoạt động đầu tư. Do đó tư duy đầu tư trong cơ quan BHXH còn mang nặng cơ chế bao cấp ngày xưa, không nhạy bén được trong nền kinh tế thị trường, từ đó dẫn đế một thực trang đó là hoạt động đầu tư quỹ kém hiệu quả, không nắm bắt được những biến động trên thị trường vốn. Hơn nữa, hoạt động đầu tư quỹ mới được thực hiện nên có quan BHXH vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề đầu tư do đó đã không chủ động được hoạt động đầu tư của quỹ trước những sự biến động của thị trường vốn nói riêng và sự biến động của nền kinh tế nói chung, dẫn đến kết quả đầu tư quỹ biến động theo. Lãi suất năm 1997 là 5.13%, năm 1998 tăng lên 6.30%, sau đó giảm dần và xuống thấp nhất là 4.91% vào năm 2001, sau đó tăng dần, năm 2006 đạt cao nhất 7,58%, tuy nhiên vẫn thấp hơn nhiều so với lãi suất thị trường và thấp hơn chỉ số giá tiêu dùng
Trình độ cán bộ trong cơ quan BHXH còn yếu: do mới thành lập, hoạt động đầu tư còn rất mới mẻ đối với quỹ BHXH (bắt đầu thực hiện đầu tư quỹ từ năm 1997) nên kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư của cán bộ còn hạn chế, trong khi đó BHXH Việt Nam chưa có đội ngũ cán bộ am hiểu sâu sắc về lĩnh vực đầu tư, tư duy của cán bộ BHXH còn mang nặng tính xin cho(nhà nước bù thiếu và hỗ trợ cho hoạt động của quỹ), hoạt động bộ máy cồng kềnh phức tạp (Tổng giám đốc BHXH Việt Nam muốn đầu tư vào đâu thì phải được sự phê duyệt của Chính phủ),
do đó cán bộ nhân viên trong cơ quan BHXH thực sự không coi trọng việc đầu tư quỹ nhằm xây dựng quỹ ngày càng lớn mạnh.
Lãi đầu tư của quỹ tăng chậm (tốc độ tăng tiền lãi đầu tư của quỹ trung bình đạt khoảng 42,13%) và không ổn định, số tiền đầu tư của quỹ giảm dần qua các năm (từ 81.01% năm 1998 giảm xuống còn 13,35% năm 2006) cho thấy hoạt động quản lý quỹ BHXH còn yếu kém, không mở rộng được lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào nền kinh tế.
Chưa có quy định về việc phân phối lợi nhuận từ việc đầu tư quỹ BHXH, chưa xác định được những đối tượng nào sẽ được hưởng quyền lợi từ việc đầu tư quỹ do đó không khuyến khích được cán bộ nhân viên trong cơ quan dốc sức cho sự nghiệp đầu tư quỹ BHXH.
BHXH còn có những yếu kém này một phần là do chính bản thân cơ quan BHXH chưa có đủ năng lực quản lý hoạt động đầu tư quỹ và một phần là do các nguyên nhân từ bên ngoài như:
Thứ nhất: do hệ thống pháp luật BHXH cũ còn nhiều bất cập và hạn chế trong vấn đề đầu tư quỹ BHXH (các danh mục đầu tư hạn chế kém hiệu quả), trong vấn đề thu-chi các quỹ BHXH (mức hưởng và mức đóng chưa phù hợp), thu không đủ bù chi làm cho số tiền tạm thời nhàn rỗi ngày càng giảm. Theo Bộ trưởng Lao động - Thương binh - Xã hội Nguyễn Thị Hằng, sở dĩ thu-chi quỹ BHXH mất cân đối là vì dân số đang già đi, tỷ lệ người đóng - người hưởng (BHXH) đang giảm dần. Nếu như năm 1995, cứ 30 người đóng mới có 1 người hưởng thì hiện nay tỷ lệ này chỉ còn 19/1. Cũng theo bà Hằng, mức đóng 20% hiện tại dựa trên căn cứ là người về hưu qua đời sau 7-8 năm nhưng theo công bố mới nhất, tuổi thọ người VN đang ngày càng tăng, dự kiến đến năm 2010 là 73 tuổi nên nguy cơ thu không đủ chi đang nhìn thấy rõ.
Thứ hai: Luật BHXH mới cũng chưa đưa ra một tỉ lệ đầu tư cụ thể vào các danh mục đầu tư đã quy định nên khi thực hiện đầu tư quỹ vẫn còn nhiều vướng mắc buộc Chính phủ phải tham gia. Đây là vấn đề rất bức xúc trong hoạt động đầu tư quỹ.
Thứ ba: nhà nước can thiệp quá sâu và cứng nhắc vào hoạt động đầu tư của quỹ. Các danh mục đầu tư được quy định rất hạn chế, lĩnh vực đầu tư quá hạn hẹp và lãi suất thấp ( Mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước, của Ngân hàng Thương mại của Nhà nước; Cho Ngân hàng Thương mại của Nhà nước vay; Đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia; Đầu tư vào một số dự
án có nhu cầu lớn về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định) làm cho hiệu quả đầu tư rất thấp, lãi suất đầu tư không bù đắp đựơc sự tăng lên của chỉ số giá tiêu dùng.
Với những hạn chế như trên, việc đầu tư quỹ BHXH thực sự đã hoạt động không hiệu quả, làm lãng phí một lượng tiền đầu tư lớn để đầu tư vào nền kinh tế. Với một lượng tiền huy động lớn như thế (số dư đầu tư quỹ BHXH luỹ kế đến năm 2006 là 53839 tỉ đồng) nếu được sử dụng hiệu quả thì lãi thu được sẽ rất cao nhưng trên thực tế BHXH đã nhường lại cho các ngân hàng thương mại Nhà nước hưởng. Và kết cục trong tương lai là việc chi trả trong tương lai sẽ là một gánh nặng lớn đối với quỹ nói riêng cũng như ngân sách nhà nước nói chung và trực tiếp hơn là người dân sẽ có thể không được hưởng lợi từ quỹ do tiền của họ đóng vào cứ ngày càng “hao hụt” đi!. Điều này sẽ là hiện thực nếu hoạt động đầu tư quỹ BHXH vẫn giữ tình trạng như bây giờ.
Vậy giải pháp nào cần phải đưa ra để cải thiện tình trạng trên của hoạt động đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0138.doc