LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CÔNG TY HOÁ DẦU PETROLIMEX 3
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY 3
1. Lịch sử hình thành công ty: 3
2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty 4
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. 4
4. Trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật. 5
5. Đội ngũ cán bộ. 6
II. SẢN PHẨM -KHÁCH HÀNG – TÌNH HÌNH CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY. 6
1. Sản phẩm. 6
2. Khách hàng. 7
3. Tình hình cạnh tranh 8
III. VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA CÔNG TY. 9
1. Nhận định chung về hoạt động xuất nhập khẩu. 9
2. Các đối tác nước ngoài. 9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
VÀ QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY 10
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. 10
1. Một số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. 10
2. Tình hình tài chính của công ty 12
3. Quá trình xây dựng và áp dụng ISO 9002 tại PLC. 13
4. Công nghệ thông tin và triển vọng thương mại điện tử. 14
II. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
VÀ QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY. 15
1. Chính sách vốn. 15
2. Hoạt động xúc tiến thương mại. 16
3. Nguyên nhân. 16
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY 18
I. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC 19
1. Giải quyết những vướng mắc về thuế 19
2. Tạo hành lang pháp lý phù hợp để tạo môi trường kinh doanh ổn định
và có thể dự đoán được. 20
3. Đẩy mạnh quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế. 20
4. Cần có các kế hoạch hỗ trợ thông tin thị trường, xúc tiến thương mại. 21
II. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA CÔNG TY HOÁ DẦU PETROLIMEX 22
1. Phát huy hiệu quả chính sách xúc tiến thương mại. 22
2. Nâng cao khả năng nắm bắt thông tin về thị trường trong nước và quốc tế. 22
3. Thực hiện hiệu quả chính sách vốn. 23
Phần kết thúc 24
25 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình hoạt động của Công ty Hoá dầu Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩm.
Hiện nay, công ty có 3 ngành hàng kinh doanh chính là dầu mỡ nhờn, nhựa đường và hoá chất. Là doanh nghiệp nhà nước duy nhất tham gia vào lĩnh vực kinh doanh dầu mỡ nhờn, PLC đã đảm bảo cho thị trường trong nước và xuất khẩu các loại dầu nhờn đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế mang các nhãn hiệu nổi tiếng Petrolimex, BP,ELF, PLC... cho các khách hàng công nghiệp trọng điểm và các hộ tiêu dùng trong nước.
Do công tác đầu tư vào trang thiết bị kỹ thuật và cơ sở vật chất cho hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định là nhiệm vụ cơ bản của chiến lược phát triển kinh doanh dài hạn của ngành nhựa đường nói riêng và của toàn công ty nói chung, PLC đã trở thành nhà cung cấp nhựa đường nóng đầu tiên ở Việt Nam. Bên cạnh đó, PLC cũng chiếm thị phần lớn về các sản phẩm nhựa đường đặc đóng phuy, nhựa đường lỏng và nhựa đường nhũ tương...
Về ngành hàng hoá chất, PLC là nhà cung cấp các loại dung môi rời như dung môi cao su, dung môi pha sơn LAWS, Toluence, Xylene...với phương thức giao hàng bằng xe tex đến tận kho của khách hàng hoặc đóng phuy 200 lit. Ngoài ra, PLC còn là nhà cung cấp các loại chất dẻo cho công nghiệp sản xuất các loại bao bì như PP, HDPE, LDPE, các loại hoá chất để sản xuất mút PPG, TDi, các loại hoá dẻo DOP, DiNP...
Do đặc thù là nguyên liệu đầu vào cơ bản cho các ngành kinh tế khác và thường được mua bán với khối lượng lớn bằng phương thức đấu thầu nên các sản phẩm của PLC luôn phải đáp ứng những yêu cầu khắt khe về số lượng, chất lượng và giá cả. Dù vậy, các sản phẩm của PLC luôn được tín nhiệm và đánh giá cao.
2. Khách hàng.
Với mục tiêu ban đầu là nhập khẩu các sản phẩm hoá dầu (chủ yếu là dầu nhờn chất lượng cao) phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước, khách hàng chủ yếu của PLC là các doanh nghiệp công nghiệp trong và ngoài nước.
Thị phần của PLC trong khu vực khách hàng quân đội là 10%.PLC đã đáp ứng được 55-60% nhu cầu ngành đường sắt; khu vực mía đường là 30%; than 15%; điện 5%...
Các bạn hàng nước ngoài chủ yếu của công ty là Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Singapore, Mỹ, Đức, Pháp (việc cung cấp dầu nhờn hàng hải cho các khách hàng ELF chiếm khoảng 15% doanh số của công ty). Công tác xúc tiến các hoạt động xuất khẩu sang Lào, Campuchia cũng đã mang lại những hiệu quả nhất định.
3. Tình hình cạnh tranh
a. Ngành hàng dầu nhờn.
Sau 8 năm kể từ khi giấy phép đàu tư cho lĩnh vực sản xuất dầu nhờn được cấp, thị trường Việt Nam đã xuất hiện đầy đủ tên tuổi của các hãng dầu nhờn hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó, có thể kể tên các đối thủ cạnh tranh trong nước của PLC như:APP, Vidamo...các công ty có vốn đầu tư nước ngoài mang nhãn hiệu: BP, Catrol, Mobil, Caltex, Shell...Với thế mạnh có hệ thống hàng bán lẻ xăng dầu trên toàn quốc, thị phần sản phẩm dầu nhờn của PLC cho thị trường công nghiệp và dân dụng đạt 25%.
b. Ngành hàng nhựa đường.
Cũng giống như ngành hàng dầu mỡ nhờn, ngành hàng nhựa đường của PLC đang phải chịu sức ép cạnh tranh lớn từ các đối thủ nước ngoài như: ADCO, Shell, Caltex...Dù vậy, PLC vẫn tỏ ra chiếm ưu thế với 37% thị phần của dung lượng thị trường, tức vào khoảng 220 000- 250 000 tấn/năm
c. Ngành hàng hoá chất.
Đây là thị trường có nhiều tiềm năng song đa dạng về nhu cầu nên chưa có doanh nghiệp nào đủ sức chiếm hoàn toàn ưu thế. Tại đây, các đối thủ cạnh tranh lớn vẫn là: Shell, Mobil, Cemaco, Chemco...Riêng các loại hoá chất lỏng (dung môi cao su,xăng pha sơn, Toluen, Xylene...) PLC hiện chiếm 60% dung lượng thị trường.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng đối thủ cạnh tranh chính của công ty vẫn là các công ty nước ngoài có ưu thế về vốn, công nghệ, uy tín thương hiệu trên phạm vi thế giới. Để tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế một cách hiệu quả, công ty cần xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh đúng đắn, trên cơ sở lấy nhân tố con người là động lực cho sự phát triển.
III. Vài nét về hoạt động kinh doanh quốc tế của công ty.
1. Nhận định chung về hoạt động xuất nhập khẩu.
Như đã nói ở trên, mục tiêu thành lập ban đầu của công ty là nhập khẩu các sản phẩm hoá dầu cao cấp phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước. Trong thời gian đầu mới thành lập với mục tiêu học hỏi, nắm bắt công nghệ, nâng cao uy tín doanh nghiệp, người ta biết đến PLC như một nhà phân phối chính cho các hãng dầu nổi tiếng tại thị trường Việt Nam. Hiện nay, hoạt động nhập khẩu của công ty chuyển sang việc chỉ nhập khẩu dầu gốc ở dạng rời rồi tự pha chế theo đúng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đồng thời, công ty chuyển hướng từ nhập khẩu phục vụ tiêu dùng sang nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất. Về bản chất, chiến lược phát triển kinh doanh của PLC là chiến lược tự đầu tư để nội địa hoá sản phẩm tiến tơí thay thế hàng nhập khẩu giống như bất kỳ một liên doanh lắp ráp ô tô, xe máy hay đồ điện tử dân dụng đang được khuyến khích ở Việt Nam. Công ty đã và đang đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm hoá dầu sang hai nước láng giềng Lào và Campuchia. Đây sẽ là tiền đề cần thiết để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc ra đời các nhà máy lọc dầu tại Việt Nam sẽ mở ra hướng xuất khẩu cho các sản phẩm hoá dầu của công ty. Mặc dù, hoạt động xuất khẩu các sản phẩm hoá dầu của PLC chưa thực sự lớn mạnh song đây là một chiến lược phát triển đúng đắn mà công ty đang đẩy mạnh.
2. Các đối tác nước ngoài.
Là thành viên chính thức thứ 27 của ELF Lub Marine (Cộng hoà Pháp) PLC không những đã cung cấp dầu nhờn hàng hải cho hàng ngàn lượt tàu biển, thuyền đánh cá tại các cảng Việt Nam mà còn phát triển các hoạt động của mình tới 80 nước và 650 cảng trên thế giới. Các bạn hàng chủ yếu của công ty vẫn là các quốc gia như: Pháp, Đức, Nhật Bản, Mỹ, Singapore...Cùng với công ty BP- Petrco (Liên doanh giữa Petrolimex và BP oil của vương quốc Anh) PLC đã cung cấp các sản phẩm giàu mỡ nhờn chất lượng cao mang nhãn hiệu BP đến khách hàng...Không ngừng tăng cường phát triển các mối quan hệ hợp tác quốc tế luôn là mục tiêu quan trọng của công ty, là cơ sở của cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường quốc tế.
Chương II
thực trạng hoạt động kinh doanh và quản lý của công ty
I. Những kết quả đạt được.
1. Một số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Được chuyển giao một đội ngũ cán bộ có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, vừa có thực tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường lại được kế tục một cơ sở vật chất tương đối thuận lợi của Petrolimex, PLC đã trở thành một trong những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhất của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam sau gần 5 năm hoạt động. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm sau luôn tăng cao hơn năm trước (xem bảng):
Bảng: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
(Đơn vị: tỷ VND)
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
STĐ
%KH
%97
STĐ
%KH
%98
STĐ
%KH
%99
Doanh thu
357,4
110,5
125,4
460
104,3
122,3
520,3
106,3
113,1
Lợi nhuận
15,5
115,6
105,2
17
134
108,6
23
124,3
103,9
Nộp ngân sách
22
118,3
107,1
24
114,2
104,1
27
128,6
106,0
(Nguồn số liệu: Phòng Kế toán- Tài chính)
Tuy tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại do những tác động khách quan nhưng các chỉ số khác vẫn cho thấy tiềm năng phát triển lớn. Số vòng quay của vốn là 2,7 vòng/năm, trong khi tỉ suất lợi nhuận/ doanh thu là 4,4% và tỷ suất lợi nhuận/vốn là 31%, tức là gấp khoảng 2,5 lần lãi suất ngân hàng. Đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện đáng kể với mức lương bình quân 1 500 000 đ/người/tháng.
Trong kế hoạch phát triển dài hạn tới năm 2010, công ty Hoá dầu Petrolimex tập trung xây dựng và phát triển 3 nhóm ngành hàng chính là dầu mỡ nonfm, nhựa đường, hoá chất theo hướng chuyển dần từ nhập khẩu sang sản xuất thay thế hàng nhập khẩu bằng chiến lược tăng trưởng hội nhập (liên kết) theo chiều dọc, mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh theo hai hướng: cung ứng và tiêu dùng. Thời gian qua, công ty không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ. Cụ thể là:
Về ngành hàng dầu bôi trơn công nghiệp và dân dụng. Hiện nay, công ty chuyển sang nhập khẩu dầu gốc ở dạng rời rồi tự pha chế theo yêu cầu tiêu dùng trong nước; tỷ trọng kinh doanh sản phẩm do PLC tự pha chế là 80%. Chất lượng sản phẩm của PLC đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thực tế cho thấy, PLC đủ uy tín và công nghệ tiên tiến, đồng thời là thành viên của ELF, là tổng đại lý của BP trong nhiều năm. Mặt khác, giá thành sản phẩm thấp hơn giá dầu nhờn nhập khẩu cùng tiêu chuẩn chất lượng từ 10-15 %. Nhờ vậy, nhiều năm qua, tốc độ tăng trưởng trung bình của công ty đạt 10%/năm.
Về ngành hàng nhựa đường, nắm bắt được sự chuyển dịch về công nghệ làm đường mới đòi hỏi cung cấp nhựa đường nóng với khối lượng lớn và liên tục, PLC đã thay hẳn cả phương thức kinh doanh, không nhập nhựa đường phuy mà tập trung đầu tư xây dựng các khu, kho, bể có sức chứa hàng chục ngàn tấn tại thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng...đồng thời phát triển đội xe tex chuyên dùng chở nhựa đường lỏng. Kết quả là PLC đã trở thành nhà cung cấp nhựa đường nóng đầu tiên ở Việt Nam với giá thành hạ 5-7% so với việc nhập khẩu nhựa đường phuy trong khi lại nâng cao được chất lượng sản phẩm so với phương pháp đun nóng cũ. Đồng thời, công ty đã tận dụng được lao động dôi dư và khai thác hiệu quả vỏ phuy đã qua sử dụng trong nước.
Về ngành hàng hoá chất. PLC cũng định hướng chủ yếu là kinh doanh hàng xá để phát huy lợi thế về hệ thống kho cảng tiếp nhận hoá chất lỏng với công nghệ xuất nhập hiện đại. Đồng thời, chuyển hướng từ nhập khẩu phục vụ tiêu dùng sang nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất. Định hướng gắn liền kinh doanh với sản xuất thể hiện rõ qua các dự án liên doanh sản xuất với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là liên doanh giữa PLC với TAYCA và NiSSHO iWAi sản xuất chất hoạt động bề mặt Linear AlkylBenzen (LAS) tại Hải Phòng với tỷ lệ góp vốn giữa Việt Nam và phía nước ngoài là 60-40. Sản phẩm hiện đã xuất xưởng tỏ ra không có đối thủ, kể cả về giá và chất lượng trên thị trường Việt Nam.
2. Tình hình tài chính của công ty
Ngay từ đầu năm tài chính, công ty đã làm việc với tổng công ty giao định mức vốn tới các phòng kinh doanh dầu mỡ nhờn, nhựa đường, hoá chất và định mức dư nợ lãi suất cho vay công ty. Trên cơ sở đó, công ty giao kế hoạch các định mức tồn kho, luân chuyển hàng hoá và công nơ mua hàng, bán hàng chi tiết cho từng khách hàng, đã bảo toàn vốn năm 1998 được 4,125 tỷ; năm 1999 là 3 tỷ đồng.Những năm qua, mặc dù nguồn vốn ngân sách do Nhà nước cấp có giảm nhưng nguồn vốn tự có của công ty không ngừng tăng lên. Điều đó chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thực sự có hiệu quả.Cụ thể về tình hình vốn của PLC trong giai đoạn 1998-2000 được trình bày ở bảng sau:
Bảng : Tình hình vốn của PLC giai đoạn 1998-2000.
Năm
1998
1999
2000
Tổng
(%)
Tổng
(%)
Tổng
(%)
Nguồn vốn
Vốn ngân sách
37
60
30
52
32
52
Vốn tự có
24,7
40
27,7
48
29,5
48
Phân bổ vốn
Vốn cố định
33,3
54
35,8
62
41,8
68
Vốn lưu động
28,3
46
21,9
38
19,7
32
Bảng số liệu trên cũng cho ta thấy nguồn vốn đầu tư cho tài sản cố định của công ty lần lượt tăng qua các năm. Do chiến lược phát triển của công ty là hướng vào sản xuất và kinh hàng xá, trong giai đoạn đầu công ty tập trung đầu tư vào các tài sản cố định, cụ thể là: dây chuyền công nghệ pha chế, các khu vực kho cảng tiếp nhận, bồn bãi và các đội xe;tàu vận tải chuyên dụng. Nguồn vốn đầu tư này sẽ được tài trợ chủ yếu từ quỹ phát triển doanh nghiệp, vốn ngân sách và các hoạt động liên doanh, hợp tác kinh doanh với các đối tác nước ngoài.Thực hiện định mức vốn dự trữ hàng hoá và tận dụng những ưu đãi về vốn vay ngắn hạn của tổng công ty để cải thiện tình hình vốn lưu động của doanh nghiệp.
3. Quá trình xây dựng và áp dụng ISO 9002 tại PLC.
Ngay từ khi mới thành lập, lãnh đạo công ty đã xác định vai trò của chất lượng sản phẩm và chất lượng hệ thống là vấn đề sống còn của công ty. Do vậy, từ năm 1995, PLC đã có định hướng quản lý hệ thống chất lượng theo mô hình ISO 9000.Sau một thời gian dài nghiên cứu, tìm hiểu về ISO 9000, tháng 8/1997 lãnh đạo công ty đã khẳng định sự cam kết về xây dựng hệ thống chất lượng theo ISO 9000, cụ thể là ISO 9002 trên toàn công ty. Trong giai đoạn đầu, để làm quen với mô hình quản lý chất lượng mới, PLC sẽ áp dụng hệ thống chất lượng quản trị trên văn phòng công ty và chi nhánh hoá dầu Sài Gòn ở các lĩnh vực kinh doanh dầu mữ nhờn và nhựa đường.Ngay sau đó, ban giám đốc đã có quyết định thành lập Ban nghiên cứu triển khai thực hiện ISO 9000. Đồng thời công ty cũng tổ chức các lớp học tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để xây dựng nhận thức về hệ thống tiêu chuẩn chất lượng này.
Tuy chi phí bỏ ra rất lớn nhưng đó là sự đầu tư dài hạn cho tương lai chứ không phải là chạy theo cái mốt của thời đại. Bởi PLC xác định được rõ ràng phương hướng phát triển lâu dài, thị trường của PLC sẽ tập trung vào xuất khẩu. Do đó, ISO 9000 sẽ là công cụ cạnh tranh, trở thành một trong những tiêu chí góp phần nâng cao tính cạnh tranh của PLC. Hơn nữa, giấy chứng nhận ISO 9000 chỉ có hiệu lực trong vòng 3 năm, định kỳ 3 năm cấp lại một lần và định kỳ 6 tháng cơ quan cấp giấy phép tiến hành kiểm tra, giám sát hệ thống quản lý chất lượng của công ty nhằm tiếp tục duy trì phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đã được cấp giấy phép.Hiện nay, PLC đã nhanh chóng đưa vào thực hiện phiên bản mới của ISO 9000. Mặc dù công ty còn gặp nhiều vướng mắc song việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9002 trong thời gian vừa qua đã tạo ra nhiều thuận lợi cho công ty.
4. Công nghệ thông tin và triển vọng thương mại điện tử.
Sự phát triển với tốc độ chóng mặt của dịch vụ internet và các mạng intranet ở Việt Nam đã mở ra một tiềm năng to lớn cho các doanh nghiệp khai thác, trao đổi thông tin và tiến tới giao dịch, mua bán qua mạng (E-Commerce). Nắm bắt được yêu cầu mới của thời đại, PLC đã đầu tư trang bị máy vi tính cho toàn bộ các phòng ban. Tất cả các máy đều được liên kết mạng và có cổng kết nối với mạng Petronet của Tổng công ty (intranet ở phạm vi toàn quốc).Kết quả cho thấy chi giao dịch quốc tế giảm 1/3 khi sử dụng Email thay vì Fax, Telex hay điện thoại. Hơn nữ, dòng thông tin phản hồi cũng như mệnh lệnh quản trị được đẩy nhanh do khả năng trao đổi thông tin trực tuyến qua mạng cho phép doanh nghiệp có thể phản ứng nhanh chóng trước những biến đổi của thị trường.
Lịch sử phát triển của việc thiết lập hệ thống thông tin và kiểm tra về vốn và toàn bộ các mối quan hệ kinh tế pháp lý cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin đx chứng minh rằng ứng dụng phần mềm kế toán doanh nghiệp là tất yếu. Trong quá trình quản trị, hoạt động kế toán đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc kiểm tra và điều chỉnh các mục tiêu của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh hiện tại, bộ phận kế toán phải đảm đương một khối lượng công việc khổng lồ, cơ sở dữ liệu bị phân tán, trong khi lại đòi hỏi kết quả thật chính xác, nhanh chóng và với chi phí thấp nhất. Vì vậy, trên cơ sở sẵn có của mạng intranet, PLC đã áp dụng thành công phần mềm kế toán Solomon. Là phần mềm mang "tính động ", Solomon có khả năng tương thích với mọi cấp quản trị, quy mô doanh nghiệp hay sự thay đổi về yêu cầu quản lý của Nhà nước. Mặt khác, với khả năng liên kết dữ liệu thông qua mạng diện rộng hay các LAN/WAN, Solomon cho phép truy cập dữ liệu theo từng cấp độ quản trị. Tại trụ sở văn phòng công ty, giám đốc có thể giám sát chi tiết đến từng hoá đơn trong từng khoản mục của bảng cân đối kế toán trong vòng 20 giây đối với tất cả hoạt động xuất bán hay nhập kho tại các cửa hàng và chi nhánh. Việc cập nhật số liệu trên hệ thống computer còn cho phép nâng cao khả năng dự báo của doanh nghiệp bằng các phương pháp toán kinh tế đối với từng khu vực thị trường với số liệu chính xác, tốc độ cao cho phép nhanh chóng điều chỉnh kế hoạch, chiến thuật đối với từng khu vực thị trường. Bên cạnh đó, nó làm lành mạnh hoá cơ chế tài chính của doanh nghiệp, bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước đối với cấp chủ quản, tiến tới cho phép công khai số liệu về tình hình tài chính doanh nghiệp trong điều kiện tham gia thị trường chứng khoán hay tham gia vào cơ chế thương mại điện tử sau này. Theo đánh giá của các chuyên gia tư vấn, việc áp dụng phần mềm kế toán Solomon cho phép chiết giảm 3/4chi phí hoạt động kế toán và vai trò quản trị tài chính trong hoạt động quản trị kinh doanh.
II. Những hạn chế trong hoạt động kinh doanh và quản lý của công ty.
Nhìn chung, hoạt động quản lý và kinh doanh của công ty vẫn còn tồn tại một số vướng mắc. Điều này xuất phát từ sự đa dạng và phức tạp của môi trường kinh doanh mà bất cứ một doanh nghiệp nào cũng gặp phải. Mặt khác, những hạn chế này lại xuất phát từ chính cơ chế quản lý của doanh nghiệp. Bài viết xin nêu ra một vài hạn chế cơ bản mà công ty đang gặp phải và hy vọng rằng có thể tìm ra những giải pháp cụ thể nhất nhằm tháo gỡ những khó khăn đó.
1. Chính sách vốn.
Tỷ lệ vốn cố định và đầu tư vào các tài sản cố định quá cao làm cho vốn lưu động tăng chậm gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của công ty. Chi phí lãi vay chiếm tới 12% tổng chi phí (gần bằng 1/2chi phí vận tải). Công ty cần có biện pháp khắc phục ngay tình trạng dây dưa về công nợ đồng thời tạo nguồn mới cho vốn lưu động của công ty cũng như đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá và giảm định mức tồn kho.
2. Hoạt động xúc tiến thương mại.
Hoạt động xúc tiến thương mại chưa thực sự mang lại hiệu quả cho công ty. Các biện pháp mà công ty áp dụng cũng chưa thực sự lôi kéo được sự chú ý của khách hàng, nhằm mở rộng đoạn thị trường tiềm năng mà công ty còn chưa khai thác hết.Hoạt động xúc tiến thương mại chủ yếu của công ty vẫn là tuyên truyền, hội thảo hướng dẫn sử dụng, bán hàng trực tiếp...tức chỉ tập trung vào đoạn thị trường hiện tại của doanh nghiệp. Chi phí cho quảng cáo còn rất thấp (chỉ xấp xỉ 1% tổng chi phí) nên chưa tác động được tới khách hàng tiềm năng. Trong khi đó, chi phí cho quảng cáo của các đối thủ nước ngoài như Mobil, Caltex, Shell luôn đạt mức 5-15% tổng chi phí. Điều này gây sức ép cạnh tranh lớn đối với công ty và có nguy cơ đe doạ tới đoạn thị trường hiện tại của công ty.
3. Nguyên nhân.
Có thể nói, trong hệ thống các chính sách thực hiện của công ty thì chính sách sản phẩm, chính sách phân phối và chính sách giá được đánh giá là thành công nhất. Các sản phẩm do PLC cung cấp đều thường xuyên đạt bất kỳ một tiêu chuẩn số lượng, chất lượng và giá của các vòng thầu khắt khe nhất.Hơn nữa, chất lượng sản phẩm của PLC là ngang bằng với các đối thủ cạnh tranh lớn như Caltex, Shell...Bên cạnh đó, PLC xây dựng được mạng lưới phân phối trên phạm vi toàn quốc, có mặt tại hầu hết những thị trường quan trọng và có quan hệ làm ăn với hầu hết các khách hàng tiềm năng lớn như ngành điện, ximăng...Công ty cũng áp dụng thành công chiến lược về giá. Với tư cách là người định giá,công ty đã chủ động xây dựng chính sách giá khá linh hoạt và hiệu quả, vừa đảm bảo nộp ngân sách Nhà nước, chỉ tiêu lợi nhuận của công ty, vừa hạn chế được những tác động tiêu cực của thị trường. Nhờ vậy, những năm qua công ty Hoá dầu Petrolimex luôn luôn được đánh giá là một trong những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả nhất và có đủ sức để vươn ra thị trường các nước trong khi vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, những mặt còn tồn tại của công ty cũng có thể quy trực tiếp cho các nguyên nhân như: do sự phát triển về quy mô của công ty, đôi khi có sự mất cân đối trong việc quản lý các hạot động thực thi các chiến lược bộ phận. Ví dụ như: bộ phận quảng cáo trong chính sách xúc tiến thương mại ít được tập trung chỉ đạo phát triển, do chạy theo doanh số mà tình hình công nợ có lúc lên rất cao gây khó khăn về vốn cho công ty,các biện pháp khuyến mại khác như chiết khấu, trả chậm cũng gây không ít khó khăn cho công ty về vốn (chỉ số công nợ của công ty đã lên tới 60 tỷ đồng)...
Là một trong những thành viên năng động của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, công ty Hoá dầu Petrolimex đã và đang khẳng định vị thế của mình tại thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Những năm qua, công ty không những sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyểntong nước mà còn luôn phấn đấu đạt mức tăng trưởng từ 8-10%/năm. Với thế mạnh và tính đa dạng trong hoạt động kinh doanh, PLC đã tạo cho mình một nền tảng vững chắc, một hành trang đảm bảo để tiến bước vào thị trường các sản phẩm hoá dầu ngày càng gia tăng trong thiên niên kỷ mới.
Chương iii
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
Thời hạn thực hiện AFTA đang đến gần, hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được ký kết, cánh cửa bước vào WTO đang hé mở...Tất cả những sự kiện đó đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cũng như những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nằm dưới sự bảo trợ của Nhà nước trong một thời gian khá dài, hầu hết các doanh nghiệp Nhà Nước đều tỏ ra lúng túng khi bước vào cơ chế thị trường. Là một trong số ít các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả trong nền kinh tế mở hiện nay, công ty Hoá dầu Petrolimex tỏ ra rất năng động và thành công trong lĩnh vực kinh doanh các sản phẩm hoá dầu, thuộc các ngành hàng: dầu mỡ nhờn, nhựa đường và hoá chất. Song, công ty cũng gặp phải không ít những tồn tại và vướng mắc.Như đã nói ở trên, điều này xuất phát từ môi trường kinh doanh với tính cạnh tranh ngày càng cao, có nhiều biến động phức tạp và từ chính bản thân doanh nghiệp. Vởy, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, công ty nên thực hiện những giải pháp nào để có thể tháo gỡ những vướng mắc đang gặp phải nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế? Đồng thời, Nhà Nước nên có những biện pháp quản lý vĩ mô như thế nào để giúp các doanh nghiệp Nhà Nước tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế một cách hiệu quả?
I. Giải pháp từ phía Nhà Nước
1. Giải quyết những vướng mắc về thuế
Trong lĩnh vực nhập khẩu ngoài những rủi ro về tỷ giá việc thu 10% thuế VAT trên trị giá hàng nhập khẩu ngay tại các cảng khẩu khiến cho các doanh nghiêph chuyên doanh nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, thậm chí bị hụt dần vốn lưu động. Trong khi lãi vay ngân hàng quá chênh lệch với tỷ suất lợi nhuận bình quân thì với thời gian hoàn thuế dài như vậy, tình trạng đọng vốn phải được tính là một khoản chi phí cơ hội và đó sẽ là khoản chi phí không nhỏ đối với các doanh nghiệp. Nhiều khi lợi nhuận của một thương vụ chỉ đủ bù lại được lãi vay cho khoản tiền nộp thuế trong thời hạn nộp thuế. Bên cạnh đó, hầu hết các doanh nghiệp đều đanh gặp khó khăn về vốn lưu động (80% là vốn đi vay) thì việc vay vốn để đi vay nguyên liệu rồi lại vay vốn để nộp thuế khiến điều này không phù hợp với cơ chế tín dụng hiện nay và cả tình hình thực tế.
Thực tế việc hành thu như trên làm nhiều doanh nghiêpj không muốn hay hạn chế mua vật tư, thiết bị dự trữ gối đầu cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Điều đó làm hạn chế khả năng phản ứng linh hoạt của doanh nghiệp khi có biến động lớn về cầu đối với sản phẩm hay biến động có lợi về cung của các sản phẩm đầu vào. hiển nhiên, điều đó làm mất đi tính dài hạn của kế hoạch sản xuất kinh doanh chuyển sang kiểu sản xuất nhỏ chờ đợi, chụp giựt.
Xuất phát từ thực tế như trên, Chính Phủ nên sớm ban hành nghị định sửa đổi bổ sung nhằm điều chỉnh một cách tổng thể, đồng bộ để tháo gỡ những vướng mắc về thuế suất, thời hạn nộp thuế, thời gian hoàn thuế... tránh tình trạng làm chắp vá nhất là việc đưa ra những quy định theo kiểu "xem xét-xử lý "bởi trên thực tế hình thức "xin cho "này hiện làm cho nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp có xu hướng ỷ lại, chờ đợi nghe ngóng làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Để giải quyết tình trạng trên, có thể khuyến khích và tiến tới bắt buộc việc thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng. Về mặt kỹ thuật, tiền nộp thuế tính trên cơ sở hoá đơn thanh toán sẽ được trích từ tài khoản của doanh nghiệp chuyển sang tài khoản của cơ quan thuế. Thời gian tiền nằm trong tài khoản này sẽ được coi là khoảng thời gian ngân hàng huy động được vốn và đến thời hạn hoàn thuế doanh nghiệp sẽ được trả thêm phần lãi tính trên khoản tiền nộp thuế với một tỷ lệ lãi suất thấp hơn lãi tiền gửi (cho phép hạn chế tình trạng chiếm dụng vốn). Hơn nữa, nếu doanh nghiệp cố khó khăn về vốn lưu động thì tài khoản nói trên sẽ được coi là một bảo đảm cho một khoản vay thấu chi với một lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp. Điều này sẽ vừa tạo điều kiện cho hoạt động hành thu thuế triệt để hơn, vừa giúp đỡ doanh nghiệp rất nhiều về mặt vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh.
2. Tạo hành lang pháp lý phù hợp để tạo môi trường kinh doanh ổn định và có thể dự đoán được.
Thời gian vừa qua cho thấy sự thiếu hoàn chỉnh và đồng bộ dối với một số văn bản luật quan trọng trong thời điểm giao thời giữa hội nhập và bảo hộ - cụ thể là luật đầu tư nước ngoài, luật thuế giá trị gia tăng, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật thương mại...Hầu hết các văn bản luật này ra đời được không bao lâu thì lại phải điều chỉnh, bổ sung bằng các văn bản dưới luật tạo sự bất ổn định về môi trường kinh doanh cũng như môi trường đầu tư.
Yêu cầu đặt ra là hoạt động luật pháp cần đồng bộ, xuất phát từ tình hình thực tế, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu dài hạn trong tương lai, hướng tới xây dựng được các bộ luật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC183.doc