Tình hình hoạt động tại Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA

Tại DCPA đã xây dựng được một quy trình kiếm soát chất lượng hoạt động kiểm toán khá chặt chẽ với sự phân công, phân cấp rõ ràng cho từng cá nhân chịu trách nhiệm soát xét. Không chỉ chú trọng đến chuyên môn, công ty quan tâm kiểm soát chất lượng kiểm toán trên cả ba mặt là: đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn và trong từng cuộc kiểm toán cụ thể. Công ty quan tâm đến kiểm soát chất lượng ngay từ khâu đầu tiên là tuyển nhân viên cho đến đào tạo, bồi dưỡng, phân công công việc, tổ chức soát xét cho đến thảo luận đưa ra báo cáo kiểm toán.

Với chất lượng kiểm toán được quan tâm như vậy, DCPA đã khẳng định được thương hiệu đối với khách hàng, và ngày càng thu hút được nhiều khách hàng mới.

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình hoạt động tại Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo và phát triển nhân viên từ đó góp phần củng cố và phát triển uy tín, tăng doanh thu. Bên cạnh đó, DCPA cũng đặt ra mục tiêu thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với các tổ chức, cơ quan khác như cơ quan thuế, Nhà nước, Hiệp hội kiểm toán theo quy định của pháp luật. 1.4 Tổ chức bộ máy quản lý của công ty DCPA Dù mới thành lập không lâu và quy mô còn nhỏ song công ty TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA đã xây dựng được tổ chức bộ máy quản lí cả về mặt hành chính và mặt chuyên môn gọn nhẹ nhưng vẫn hợp lí, khoa học, tiết kiệm chi phí và đáp ứng được yêu cầu phát triển của công ty. Do đặc trưng hoạt động là cung cấp dịch vụ cho khách hàng nên về tổ chức quản lí hành chính công ty vẫn chia thành các khối theo công việc là khối hành chính và khối nghiệp vụ nhưng về tổ chức quản lí về mặt chuyên môn khối nghiệp vụ lại được quản lí theo cấp bậc. Điều này vừa đảm bảo hoạt động chung của toàn công ty lại vừa đảm bảo chất lượng hoạt động kiểm toán, đảm bảo sự phân công công việc và hỗ trợ hợp lí giữa các nhân viên kiểm toán và tư vấn trong công ty. Mô hình tổ chức cụ thể của công ty như sau: Quản lý về mặt hành chính và tổ chức bộ máy Công ty Để đơn giản hoá bộ máy quản lí hành chính nhằm tạo thuận lợi cho công việc và tiết kiệm chi phí, Công ty DCPA thực hiện phân chia bộ máy quản lí thành các bộ phận theo tính chất công việc đã được chuyên môn hóa. Toàn bộ nhân viên Công ty được chia thành 2 khối: khối nhân viên hành chính và khối nhân viên nghiệp vụ. Trong từng khối lại có sự chia nhỏ hơn thành các bộ phận theo tính chất công việc. Khối hành chính bao gồm 3 bộ phận: Hành chính, kế toán và công nghệ thông tin; khối nghiệp vụ được chia nhỏ theo 2 bộ phận: kiểm toán và tư vấn - mỗi bộ phận này lại được phân loại tuỳ theo tính chất công việc. Điều này tạo ra sự phân chia rõ ràng về trách nhiệm giữa các bộ phận khác nhau, tránh sự trùng lắp. Việc phân công công việc được thực hiện thống nhất, cụ thể dần từ trên xuống dưới và rất dễ dàng trong việc xem xét trách nhiệm của các cá nhân cụ thể. Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của công ty BAN GIÁM ĐỐC Khối hành chính Khối nghiệp vụ Bộ phận công nghệ thông tin Bộ phận kế toán Bộ phận hành chính Bộ phận kiểm toán Bộ phận tư vấn Tư vấn giải pháp DN Tư vấn thuế Kiểm toán XDCB Kiểm toán BCTC (nguồn: tài liệu DCPA) Ban Giám đốc: Đứng đầu công ty là Ban giám đốc giữ vai trò quyết định cao nhất các vấn đề trong công ty. Ban Giám đốc Công ty bao gồm một Giám đốc và 2 Phó giám đốc. Thành viên Ban giám đốc cũng đồng thời là những người thuộc cấp bậc chuyên môn Giám đốc kiểm toán. Khối hành chính của Công ty bao gồm 3 bộ phận là bộ phận hành chính,bộ phận kế toán và bộ phận công nghệ thông tin với tổng số người là 4 người. Do đặc điểm chung về loại hình công ty là cung cấp dịch vụ kiểm toán, hơn nữa DCPA lại có quy mô chưa lớn, số loại hình dịch vụ cung cấp trên thực tế chưa nhiều nên khối lượng công việc kế toán còn ít và không phức tạp. Đặc biệt công ty còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ kế toán nên nhân viên trong công ty có thể tự thực hiện được công việc kế toán. Vì vậy, công ty hiện nay chỉ có hai nhân viên làm công tác kế toán và cả hai đều thuộc phòng hành chính tổng hợp. Hai nhân viên kế toán được phân công công việc rõ ràng, một người thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ kinh tế còn một người làm thủ quỹ. Bộ phận hành chính gồm 1 nhân viên phụ trách các công tác về lưu trữ tài liệu, văn thư, Ở DCPA do đặc tính của nghề nghiệp kiểm toán đòi hỏi phải sử dụng nhiều đến công nghệ thông tin nên bộ phận công nghệ thông tin giữ một vai trò quan trọng. Bộ phận này không chỉ chịu trách nhiệm quản lí website của công ty, quản lí trang thiết bị vi tính tại công ty mà còn chịu trách nhiệm hỗ trợ nhóm kiểm toán trong các trường hợp có yêu cầu từ Chủ nhiệm kiểm toán. Khối nghiệp vụ của Công ty được phân tách thành hai bộ phận Kiểm toán và bộ phận Tư vấn. Bộ phận Kiểm toán bao gồm Kiểm toán Báo cáo tài chính và Kiểm toán xây dựng cơ bản. Bộ phận Tư vấn bao gồm Tư vấn thuế và Tư vấn giải pháp doanh nghiệp. Bộ phận kiểm toán Báo cáo tài chính là bộ phận có số lượng nhân viên chuyên nghiệp lớn nhất trong công ty. Bộ phận này thực hiện tất cả các hợp đồng kiểm toán Báo cáo tài chính theo luật định của Công ty. Bộ phận kiểm toán Xây dựng cơ bản có nhiệm vụ thực hiện các hợp đồng kiểm toán Báo cáo đầu tư xây dựng hoàn thành. Bộ phận này chủ yếu là các kỹ sư xây dựng có kinh nghiệm và thường phải kết hợp với các thành viên trong Bộ phận kiểm toán Báo cáo tài chính để tạo thành nhóm kiểm toán. Bộ phận Tư vấn thuế và bộ phận Tư vấn giải ph áp doanh nghi ệp là những bộ phận yêu cầu nhân viên phải có trình độ cao và nhiều kinh nghiệm thực tế. Các nhân viên thuộc bộ phận này ngoài việc độc lập cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng còn có trách nhiệm hỗ trợ nhóm kiểm toán Báo cáo tài chính trong các nội dung đặc thù khi được Chủ nhiệm kiểm toán yêu cầu. Mặc dù có sự phân chia song trong quá trình hoạt động các bộ phận này sẽ luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và thường xuyên có sự luân chuyển cán bộ hợp lí giữa các bộ phận nhằm tạo điều kiện cho nhân viên có được kiến thức vừa sâu vừa rộng nhằm đảm bảo mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cho các khách hàng của mình. Quản lý về mặt chuyên môn Về mặt chuyên môn DCPA thực hiện việc quản lý bằng cách phân chia các nhân viên nghiệp vụ thành các cấp bậc. Các cấp bậc khác nhau sẽ thực hiện các công việc ở các mức độ phức tạp khác nhau, điều này vừa thuận lợi trong phân công công việc vừa tạo điều kiện để những nhân viên ở cấp bậc thấp hơn có cơ hội để học tập từ những người có kinh nghiệm hơn ở cấp bậc cao hơn. Sơ đồ 1.2: Sơ đồ cấp bậc chuyên môn trong công ty Cấp bậc Nhóm cấp bậc Chỉ có một cấp bậc Giám Đốc kiểm toán Chủ nhiệm kiểm toán Chủ nhiệm kiểm toán cấp 3 Chủ nhiệm kiểm toán cấp 2 Chủ nhiệm kiểm toán cấp 1 Kiểm toán viên cấp 3 Kiểm toán viên cấp 2 Kiểm toán viên cấp 1 Kiểm toán viên chính Trợ lý kiểm toán viên Trợ lý kiểm toán cấp 3 Trợ lý kiểm toán cấp 2 Trợ lý kiểm toán cấp 1 (nguồn: tài liệu DCPA) Giám đốc kiểm toán (Partner): Đây là người có chuyên môn cao nhất, chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng kiểm toán. Vị trí này chỉ có một cấp bậc. Mỗi cuộc kiểm toán phải có nhất một giám đốc kiểm toán là kí hợp đồng kiểm toán, kiểm tra về tính độc lập của các kiểm toán viên, soát xét công việc khi hoàn thành và gửi báo cáo kiểm toán cho khách hàng. Chủ nhiệm kiểm toán (Manager): Là người chịu trách nhiệm đảm bảo cuộc kiểm toán được thực hiện theo đúng phương pháp tiếp cận của công ty, hướng dẫn nhóm kiểm toán, xử lí các vấn đề trọng yếu trong cuộc kiểm toán, soát xét BCTC sau kiểm toán do cấp dư ới lập. Kiểm toán viên chính (Senior): thường là trưởng nhóm kiểm toán, chịu trách nhiệm phân công công việc cho các trợ lý kiểm toán viên, hướng dẫn, kiểm tra công việc của họ, chịu trách nhiệm lập các BCTC sau kiểm toán và báo cáo kiểm toán. Trợ lý kiểm toán viên (Junior): là các nhân viên còn ít kinh nghiệm, những người này sẽ thực hiện các công việc kiểm tra chi tiết theo kế hoạch kiểm toán được lập bởi trưởng nhóm kiểm toán. Tùy theo từng cuộc kiểm toán mà chủ nhiệm kiểm toán sẽ lựa chọn số lượng và các kiểm toán viên phù hợp. Thông thường đối với khách hàng cũ thì kiểm toán viên năm trước sẽ được ưu tiên thực hiện, còn đối với các kiểm toán viên có nhiều kinh nghiệm lĩnh vực liên quan sẽ được sắp xếp. Thông thường một cuộc kiểm toán sẽ bao gồm một giám đốc kiểm toán, một chủ nhiệm kiểm toán, 2 kiểm toán viên chính và 2-3 trợ lý kiểm toán. Nếu cuộc kiểm toán có đi kèm với cung cấp dịch vụ tư vấn thuế thì sẽ có thêm một chuyên viên tư vấn thuế đi kèm. Cách thức phân loại và sử dụng hợp lý, linh hoạt các kiểm toán viên cho từng cuộc kiểm toán đã tạo điều kiện phát huy năng lực của các kiểm toán viên và nâng cao hiệu quả kiểm toán tại DCPA. 1.5 Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty DCPA Dù mới thành lập trong thời gian ngắn nhưng công ty TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA đã đạt được những thành tựu đáng kể, điều này thể hiện rõ nét qua kết quả kinh doanh của công ty: Bảng 1.1 : Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Chỉ tiêu Đơn vị tính 2005 2006 2007 2008 Số lượng nhân viên Người 4 10 20 35 Số lượng khách hàng Khách 11 40 100 195 Doanh thu cung cấp dịch vụ Nghìn đồng 93 264 648 926 2 097 628 4 298 615 Lợi nhuận sau thuế Nghìn đồng 31 557 219 574 709 766 1 454 505 Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng Nghìn đồng 2 700 3 500 4 100 5 000 (nguồn: tác giả tổng hợp) Qua bảng phân tích trên ta thấy sự tăng trưởng của công ty qua các năm hoạt động. Cụ thể: Về số lượng nhân viên: số lượng nhân viên trong công ty đã tăng từ 4 người (năm 2005) lên trên 10 người (năm 2006), năm 2007 là 20 người và đến năm 2008 đã là 35 người và đội ngũ kiểm toán viên đều có ít nhất một bằng đại học hoặc thạc sĩ. Trong công ty có 8 người đã có bằng kiểm toán viên do bộ tài chính cấp. Xu hướng trong những năm tiếp theo công ty sẽ tăng cường đội ngũ kiểm toán viên cả về số lượng và chất lượng. Đồng thời, công ty đang khuyến khích và tạo mọi điều kiện cả về chi phí, thời gian để cho nhân viên học và thi lấy các chứng chỉ CPA, MBA, CFA của Việt Nam và Quốc tế. Về số lượng khách hàng: Năm 2005 mới thành lập, công ty chỉ có 11 khách hàng. Nhưng chỉ sau một năm hoạt động, số lượng khách hàng đã tăng lên 40 năm 2006 và đến năm 2007, số lượng khách hàng của công ty đã tăng lên đến con số 100 và là 195 khách hàng năm 2008 . Những con số trên đã cho ta thấy rõ được sự phát triển về uy tín và chất lượng hoạt động của DCPA. Chỉ 4 năm hoạt động nhưng thương hiệu DCPA đã dần trở thành một điạ chỉ tin cậy của khách hàng khi nhu cầu thị trường về kiểm toán tăng nhanh. Về doanh thu: Qua bảng phân tích trên ta thấy doanh thu của công ty hàng năm đã tăng đáng kể. Sau hơn 1 năm hoạt động, doanh thu của công ty đạt được đạt 93 triệu đồng, năm 2006 doanh thu đạt 648 triệu đồng. Tiếp tục phát triển theo thị trường và theo xu thế hội nhập, năm 2007 doanh thu của công ty đạt gần 2098 triệu đồng, đạt 323,76% so với năm 2006, năm 2008 đạt 4299 tỉ đồng. Điều này chứng tỏ được khả năng phát triển, sự tin tưởng của các doanh nghiệp dành cho công ty DCPA. PHẦN II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY DCPA 2.1 Phương pháp tiếp cận kiểm toán và quy trình kiểm toán 2.1.1 Phương pháp tiếp cận kiểm toán Để có thể cung cấp các dịch vụ kiểm toán với chất lượng cao nhất, DCPA đ ã đề ra phương pháp tiếp cận kiểm toán bằng phương pháp khoa học, áp dụng nhất quán và chuẩn hoá cho mọi quy trình kiểm toán. Những đặc điểm chủ chốt trong phương pháp kiểm toán của công ty bao gồm: Nhấn mạnh việc thu thập một cách toàn diện và cập nhật những hiểu biết của KTV về hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động kiểm soát nội bộ nhằm xác định những lĩnh vực nhiều rủi ro, phối hợp một cách hiệu quả với công ty khách hàng và nhằm đạt được những mục tiêu làm gia tăng lợi ích mà công ty khách hàng nhận được tử cuộc kiểm toán này. Một quá trình đánh giá rủi ro nhằm tập trung nhiều hơn vào những phần dễ xảy ra lỗi và dễ báo cáo sai đồng thời giảm thiểu công việc ở những phần hành ít có rủi ro trong điều kiện cụ thể của công ty. Khi bắt đầu quá trình kiểm toán, Công ty và đội ngũ nhân viên của DCPA sẽ cùng nhau lập ra những mục tiêu cho đợt làm việc, đưa ra các giai đoạn kiểm toán cụ thể, thống nhất lịch làm việc và phân công công việc một cách hợp lí và chi tiết nhất. Với mỗi khách hàng, dù là mới hay cũ DCPA đều thực hiện nghiêm túc công tác tìm hiểu khách hàng, đặc biệt là nhóm kiểm toán sẽ thảo luận ban đầu về những rủi ro tiềm ẩn có thể có và những phần hành hay khoản mục cần phải lưu ý trong quá trình thực hiện kiểm toán. Điều này sẽ giúp cho các KTV có được sự hiểu biết rõ ràng về công việc cũng như trách nhiệm, mục tiêu cần đạt được và tránh được những thiếu sót trong quá trình thực hiện kiểm toán. Trong quá trình thực hiện kiểm toán DCPA luôn cố gắng làm hài lòng khách hàng thái độ tận tình , gần gũi và có những góp ý để khách hàng có thể hoàn thiện hoạt động của mình. . 2.1.2 Quy trình kiểm toán BCTC tại công ty DCPA Để đưa ra các quyết định kiể m toán, trước hết công ty phải tiến hành phân tích báo cáo tài chính khách hàng, các KTV phải hiểu biết đầy đủ về lĩnh vực kinh doanh, HTKSNB cũng như các rủi ro của khách hàng. Dựa trên những hiểu biết này, công ty sẽ xây dựng một chương trình kiểm toán và tiến hành kiểm toán phù hợp với các hoạt động đặc thù của khách hàng. Quy trình chung của một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính tại thường bao gồm 6 giai đoạn, các giai đoạn này được thực hiện theo trình tự như sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1: Các giai đoạn của cuộc kiểm toán Giai đoạn Nội dung 1 Thực hiện các công việc trước kiểm toán 2 Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể 3 Lập kế hoạch kiểm toán chi tiết Thực hiện kiểm toán 4 Kết luận và báo cáo 5 Thực hiện các công vịêc sau kiểm toán 6 (nguồn: tổng hợp của tác giả) Giai đoạn 1: Thực hiện các công việc trước kiểm toán Đây là giai đoạn Công ty DCPA tiếp cận để thu thập thông tin cần thiết về khách hàng và các nội dung liên quan trực tiếp đến cuộc kiểm toán và được thực hiện bởi giám đốc kiểm toán. Trong giai đoạn này, trước hết DCPA sẽ thực hiện tìm hiểu thông tin về khách hàng – công việc này có thể do chủ nhiệm kiểm toán hay một kiểm toán viên chính thực hiện. Từ những tìm hiểu ban đầu về khách hàng chủ nhiệm kiểm toán sẽ thực hiện đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Đây là công việc vô cùng quan trọng vì nó sẽ là cơ sở để chấp nhận kiểm toán và sau đó là lập kế hoạch và thực hiện công việc kiểm toán một cách phù hợp. Mức độ rủi ro có thể được đánh giá theo các mức độ như: cao, trung bình, thấp. Việc đánh giá rủi ro cũng có thể đạt được thông qua thảo luận với Ban giám đốc khách hàng về môi trường kinh doanh, hoạt động kiểm soát nội bộ của khách hàng, đánh giá của Ban giám đốc về khả năng tồn tại các gian lận và sai sót liên quan đến BCTC cần kiểm toán. Bước công việc thứ 2 sau khi đã chấp nhận hợp đồng kiểm toán là giám đốc kiểm toán sau khi đã xác định rủi ro ban đầu tiếp tục xác định phạm vi công việc kiểm toán, đưa ra đánh giá mức độ rủi ro cuộc kiểm toán, ước tính thời gian và khối lượng công việc. Công tác thương thảo và kí kết hợp đồng kiểm toán với khách hàng hay thống nhất thời gian tiến hành kiểm toán và những yêu cầu của khách hàng đối với công ty về thời hạn hoàn thành, chất lượng cuộc kiểm toán được thực hiện sau đó. Đồng thời giám đốc kiểm toán chịu trách nhiệm thiết lập nhóm kiểm toán, lựa chọn những kiểm toán viên có đủ năng lực, đạo đức nghề nghiệp để tiến hành cuộc kiểm toán và phân công công việc của từng nhân viên trong nhóm. Giai đoạn này tại công ty kiểm toán được thực hiện theo đúng trình tự song vẫn còn một số tồn tại. Công tác tìm hiểu đối với khách hàng chưa thật sự đầy đủ. Đối với khách hàng cũ, DCPA chủ yếu dựa vào những tài liệu từ hồ sơ kiểm toán chung và tham khảo thông tin do khách hàng cung cấp chứ không trực tiếp tự tìm hiểu qua các nguồn khác. Đối với khách hàng mới DCPA chưa thực hiện việc tìm hiểu qua liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm hay cũng chỉ tìm hiểu về khách hàng qua thông tin khách hàng cung cấp. Giai đoạn 2: Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng quát, kiểm toán viên (KTV) thực hiện lần lượt các công việc sau: Lập kế hoạch kiểm toán chiến lược: Đây là công việc do giám đốc kiểm toán và chủ nhiệm kiểm toán thực hiện. Mục đích của bước công việc này là thiết lập kế hoạch kiểm toán tổng quát và khoanh vùng rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu, đồng thời trao đổi các vấn đề quan trọng với nhóm kiểm toán để hướng dẫn họ thực hiện chương trình kiểm toán. Tìm hiểu khách hàng và môi trường hoạt động kinh doanh: do các Giám đốc thực hiện với sự trợ giúp của các Trưởng phòng kiểm toán và các KTV tham gia kiểm toán để tìm hiểu về các nhân tố bên ngoài tác động đến khách hàng, các nhân tố bên trong, việc lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán, quá trình lập và soát xét BCTC của ban quản lý và HTKSNB của khách hàng. Trong giai đoạn này các KTV thực hiện các thủ tục nhằm tìm hiểu và đánh giá quá trình xử lý dữ liệu kế toán, phân loại mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình quản lý và xử lý dữ liệu, tìm hiểu và đánh giá quy trình và các thủ tục thực hiện các chu trình kinh doanh quan trọng của khách hàng. Thực hiện những thủ tục phân tích sơ bộ: do các KTV thực hiện nhằm có được hiểu biết về khách hàng và môi trường hoạt động của họ cũng như giúp các KTV nhận diện được các số dư bất thường, cũng như khoanh vùng được các rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu của BCTC. Xác lập mức trọng yếu: KTV là người thu thập thông tin và tính toán mức trọng yếu. sau đó GĐ kiểm toán sẽ xem xét, kiểm tra và đưa ra quyết đinh cuối cùng. KTV quyết định mức trọng yếu ban đầu căn cứ vào sự hiểu biết về khách hàng và môi trường hoạt động của họ, đánh giá về rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Giai đoạn 3: Lập kế hoạch kiểm toán chi tiết Tổng hợp đánh giá rủi ro và kế hoạch kiểm toán: do GĐ kiểm toán, chủ nhiệm kiểm toán và KTV thực hiện nhằm nhận diện rủi ro ( bằng các thủ tục kiểm soát có liên quan đến các rủi ro, và xem xét các số dư tài khoản hoặc giải trình trong BCTC). Đồng thời tiến hành xem xét các rủi ro có thể gây ra sai phạm trọng yếu đối với BCTC, ghi chép các phát hiện và đánh giá rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu trong BCTC. Lập kế hoạch kiểm toán chi tiết: Chủ nhiệm kiểm toán và KTV chính tiến hành thực hiện thông qua xem xét loại thủ tục kiểm toán cần thực hiện để nhận biết được các lỗi tiềm tàng của số dư tài khoản hoặc giải trình nhằm phát hiện sai phạm trọng yếu có thể phát sinh trong số dư tài khoản hoặc giải trình đã không được phát hiện và sửa chữa bởi HTKSNB. Sau khi tìm hiểu, phân tích, đánh giá các vấn đề nêu trên, KTV tiến hành lập kế hoạch kiểm toán theo từng tài khoản. Việc lập kế hoạch kiểm toán theo từng tài khoản trước hết được thực hiện đối với các rủi ro cụ thể có thể xác định được. Thông thường, đây là các thủ tục kiểm toán đặc thù do KTV có kinh nghiệp lập ra để áp dụng trong từng trường hợp cụ thể. Kết quả của giai đoạn này là chương trình kiểm toán. Chương trình kiểm toán là một bảng các thủ tục kiểm toán do chủ nhiệm kiểm toán và KTV chính lập ra mà các KTV, trợ lý kiểm toán viên cần thực hiện đầy đủ trong quá trình kiểm toán. Chương trình kiểm toán được lập cho từng tài khoản tương ứng với kế hoạch kiểm toán theo tài khoản nói trên. Chương trình kiểm toán được trình bày một cách khoa học, chặt chẽ, logic và dễ hiểu với các thông tin và yêu cầu cụ thể được gắn kết với nhau và cần thực hiện đầy đủ trong quá trình kiểm toán. Giai đoạn 4: Thực hiện kiểm toán Công tác thực hiện kiểm toán do các KTV chính và trợ lý KTV thực hiện với các công việc cụ thể: Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát: giúp KTV có thể kết luận về hiệu quả hoạt động của HTKSNB và xem xét liệu KTV có thể tin tưởng vào HTKSNB của doanh nghiệp để có thể bỏ qua một số thử nghiệm cơ bản hay không. Thực hiện thử nghiệm cơ bản và đánh giá kết quả đạt được: gồm 2 loại là thủ tục phân tích cơ bản và kiểm tra chi tiết. Việc lựa chọn loại thủ tục nào tùy thuộc vào từng chương trình kiểm toán cụ thể. Thủ tục phân tích cơ bản: KTV thực hiện so sánh giữa giá trị ước tính và giá trị ghi sổ để phát hiện và phân tích nguyên nhân chênh lệch. KTV phân tích nguyên nhân qua tìm hiểu nhân viên khách hàng, nếu còn chênh lệch thì phải thực hiện thủ tục kiểm toán chi tiết. Kiểm tra chi tiết: KTV tiến hành lựa chọn các mẫu để thực hiện kiểm tra chi tiết, từ đó đánh giá mức độ tổng thể. Các kĩ thuật kiểm tra chi tiết KTV dùng để thực hiện như: so sánh, tính toán, soát xét chứng từ, sổ sách, kiểm tra thực tế, Thực hiện xem xét lại BCTC: KTV tiến hành thực hiện sau đó GĐ kiểm toán và chủ nhiệm kiểm toán sẽ soát xét lại nhằm xem xét lại toàn bộ báo cáo tài chính để đưa ra quyết định về sự nhất quán của báo cáo, về khả năng tồn tại gian lận, sự phù hợp của chính sách kế toán Đặc biệt, KTV cũng xem xét khả năng tiếp tục hoạt động của công ty đồng thời kiểm tra lại giải trình của các bên hữu quan và các nghiệp vụ liên quan đến bên thứ ba trong BCTC. Giai đoạn 5: Kết luận và lập báo cáo KTV là người thực hiện và được soát xét, phê chuẩn bởi Trưởng phòng kiểm toán và GĐ kiểm toán. Tổng hợp điều chỉnh: các KTV, trợ lý KTV sẽ phải đưa ra các kết luận, tổng hợp các sai sót, nêu ra các bút toán điều chỉnh và phân loại lại của phần mà mình phụ trách. Kiểm toán viên chính sẽ có nhiệm vụ tổng hợp tất cả các vấn đề nêu ra của tất cả các phần hành, đánh giá mức độ ảnh hưởng tổng thể tới Báo cáo tài chính, đưa ra dự thảo Báo cáo kiểm toán. GĐ kiểm toán và chủ nhiệm kiểm toán có trách nhiệm soát xét dự thảo này. Xem xét lại những sự kiện diễn ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán: nhằm xem xét ảnh hưởng của các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán có đòi hỏi sự điều chỉnh các giải trình trong BCTC, có khả năng làm tăng rủi ro đối với giả thiết về khả năng hoạt động liên tục của khách hàng hay không. Thu thập thư giải trình của BGĐ và tham khảo ý kiến của BGĐ về dự thảo báo cáo kiểm toán: Trong buổi họp tổng kết kiểm toán , GĐ kiểm toán thực hiện thu thập giải trình BGĐ nhằm có được bằng chứng về sự nhận thức trách nhiệm của BGĐ trong việc lập và phê chuẩn BCTC phù hợp với các chuẩn mực kế toán và quy định pháp luật có liên quan đồng thời thảo luận với BGĐ về các điều chỉnh. Phát hành báo cáo kiểm toán: KTV phải đưa ra ý kiến và lập báo cáo kiểm toán phù hợp với từng tình huống cụ thể và các chuẩn mực nghề nghiệp, các quy định pháp luật. GĐ kiểm toán chịu trách nhiệm về nội dung và ngày phát hành báo cáo kiểm toán. Ngoài ra, công ty kiểm toán có thể phát hành thêm thư quản lý cung cấp một bảng tổng hợp các ý kiến đánh giá về những yếu kém được lưu ý trong quá trình kiểm toán và giải pháp cải thiện nhằm mục đích tư vấn, trợ giúp cho khách hàng được kiểm toán. Giai đoạn 6: Thực hiện các công việc sau kiểm toán Sau khi ph át hành Báo cáo kiểm toán, công ty DCPA thực hiện các công việc sau kiểm toán: Họp tổng kết các vấn đề phát sinh: trong cuộc kiểm toán để rút kinh nghiệm. Các vấn đề cần lưu ý cho các năm kiểm toán tiếp theo được đặc biệt lưu ý và được lưu giữ trong hồ sơ kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán là nơi lưu giữ tất cả các giấy tờ làm việc của các kiểm toán viên trong mỗi cuộc kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán là tài sản quan trọng của Công ty do đó thường được lưu giữ một cách cẩn thận. Thường xuyên có mối liên hệ với khách hàng: để trợ giúp khách hàng trong quá trình thực công việc và tạo lập mối quan hệ với khách hàng. Đánh giá nhân viên sau mỗi cuộc kiểm toán: thông qua đó, mỗi nhân viên của DCPA sẽ đều thu được các bài học kinh nghiệm thực tế rất hữu ích cho các cuộc kiểm toán tiếp theo. 2.2 Kiểm soát chất lượng kiểm toán Nhận thức ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ tới uy tín cũng như doanh số của công ty, DCPA đã có sự kiểm soát chất lượng công việc chặt chẽ. GĐ công ty đã ban hành quyết định số 06/DCPA ngày 22/07/2007 về kiểm soát chất lượng kiểm toán. Theo đó, công ty kiểm soát chất lượng trên ba khía cạnh: kiểm soát chất lượng về mặt đạo đức nghề nghiệp, kiểm soát chất lượng về năng lực chuyên môn và kiểm soát chất lượng trong từng cuộc kiểm toán. Kiểm soát chất lượng đạo đức nghề nghiệp: Công ty luôn yêu cầu các KTV có thái độ làm việc độc lập, chính trực, khách quan, thận trọng cần thiết và bảo mật thông tin của khách hàng. Việc kiểm soát chất lượng đạo đức nghề nghiệp được thực hiện thống nhất trong toàn công ty và được nhấn mạnh trong các chương trình đạo tạo nhân viên của công ty. Sau mỗi cuộc kiểm toán, các chủ nhiệm kiểm toán ngoài đánh giá năng lực chuyên môn của các KTV cũng thực hiện đánh giá về đạo đức nghề nghiệp kiểm toán. Bất cứ sai phạm nào của nhân viên công ty về kiểm soát chất lượn đạo đức nghề nghiệp đều được xem xét, xử lí theo biện pháp phù hợp. Những chính sách này có tác động rõ rệt đến chất lượng kiểm toán của DCPA và công ty luôn tạo được uy tín với khách hàng về đạo đức nghề nghiệp của mình. Kiểm soát chất lượng năng lực chuyên môn: Năng lực chuyên môn của KTV luôn là vấn đề then chốt trong các công ty kiểm toán. Tại DCPA việc kiểm soát chất lượng chuyên môn được thực hiện ngay từ giai đoạn tuyển nhân viên. Công ty luôn tổ chức thi tuyển, phỏng vấn kĩ càng để có thể lựa chọn chính xác những ứng viên tài năng. Trong quá trình hoạt động DCPA cũng luôn tạo điều kiện cho nhân viên có điều kiện học hỏi thêm hay tổ chức các buổi hội thảo, các chương trình huấn luyện, hay các buổi giới thiệu về các văn bản pháp quy mới trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, thuế cho các nhân viên trong công ty. Các chương trình cập nhật kiến thức do VACPA hay BTC tổ chức thực hiện bắt buộc sự tham gia của các KTV đều được công ty nhắc nhở, theo dõi việc tham gia của các KTV tại công ty. Việc tổ chức bộ máy quản lí phân cấp theo trình độ tạo thành các cấp bậc khác nhau cũng tạo điều kiện cho nhân viên đánh giá được trình độ và có cơ hội học tập, truyền đạt, trao đổi kinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5820.doc
Tài liệu liên quan