Phần 1: TỔNG QUAN VỀ VỤ XUẤT NHẬP KHẨU 1
I.Giới thiệu về Bộ Công thương 1
1.Khái quát về Bộ Công Thương 1
2.Vị trí và chức năng của Bộ Công thương 2
II.Vị trí và chức năng của Vụ Xuất Nhập khẩu 4
1.Vị trí 4
2. Nhiệm vụ và quyền hạn 4
3.Cơ cấu tổ chức và chế độ làm việc 6
3.1. Lãnh đạo các đơn vị 6
3.2. Bộ máy giúp việc Vụ trưởng .11
3.3. Các phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực 12
3.4. Vụ thực hiện làm việc theo chế độ thủ trưởng; Vụ trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về các nhiệm vụ quy định tại điều 2 và các nhiệm vụ quyền hạn cụ thể sau đây: 12
3.5. Nội quy của cán bộ, công chức, viên chức cơ quan Vụ 13
4. Các hoạt động và thành tích đã đạt được trong năm 2008 13
Phần 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU 17
Chương I: Thị trường nông sản thế giới và tình hình sản xuất, xuất khẩu nông sản của Việt Nam 18
I/ Tình hình thị trường nông sản thế giới trong những năm gần đây 19
1.Tình hình kinh tế thế giới trong những năm gần đây 19
2.Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới với thị trường nông sản thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng 20
II.Thực trang sản xuất nông sản của Việt Nam trong những năm gần đây 23
1.Đánh giá chung tình hình sản xuất nông sản và xuất khẩu nông sản của Việt Nam: 23
2.Tình hình sản xuất và xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực 25
2.1 Mặt hàng cà phê 26
2.2.Mặt hàng gạo 29
2.3.Mặt hàng cao su 33
3.Thực trạng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực 34
4.Các thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam 36
5.Những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam 37
Chương II.Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang 40
thị trường EU 40
I.Tổng quan thị trường nông sản EU 40
1.Tình hình nhập khẩu nông sản của EU 40
2.Một số chính sách về nhập khẩu nông sản của EU 41
2.1. Thuế nhập khẩu 42
2.2. Hạn ngạch 42
2.3. Các quy định pháp lý đối với nông sản vào EU 43
2.4.Yêu cầu của thị trường trong lĩnh vực sức khoẻ và an toàn 45
II.Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường EU 46
1.Đánh giá chung 46
2.Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường EU: 46
3.Cơ cấu thị trường nông sản xuất khẩu sang EU 48
4.Cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu sang EU 51
5.Đánh giá chung về xuất khẩu nông sản sang thi trường EU trong những năm qua 54
5.1.Những thành công chủ yếu 54
5.2.Hạn chế của nông sản Việt Nam khi xuất khẩu sang EU 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 58
61 trang |
Chia sẻ: Huong.duong | Lượt xem: 3470 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã có sự thay đổi về cơ cấu, các quỹ đầu tư đã tham gia ngày càng sâu với quy mô lớn vào thị trường. Luồng tài chính từ các quỹ cũng tăng dần và đến mức có thể chi phối cung, cầu trong từng thời điểm nhất định. Sự đầu tư của các quỹ tập trung chủ yếu vào các sản phẩm cây công nghiệp như: cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều. Khi khủng hoảng tài chính xảy ra, kinh tế suy thoái làm các quỹ đầu cơ rút tiền khỏi các hoạt động đầu tư nông sản và có xu hướng chuyển đầu tư sang thị trường tiền tệ, dẫn đến giảm cầu trên các thị trường kỳ hạn, làm giá giảm đột ngột.
Thứ tư, xuất khẩu giảm do tác động của tỷ giá. Đa số các nước xuất khẩu nông sản, trong đó có Việt Nam đều thu về bằng USD nên giảm giá nông sản tính theo USD đã ảnh hưởng xấu đến thu nhập xuất khẩu. Mặt khác, trong thời gian vừa qua, các nước xuất khẩu nông sản lớn trên thị trường thế giới có các mặt hàng nông sản mũi nhọn như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam như Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Brazil, Colombiađều đã giảm mạnh.
II.Thực trang sản xuất nông sản của Việt Nam trong những năm gần đây
1.Đánh giá chung tình hình sản xuất nông sản và xuất khẩu nông sản của Việt Nam:
Việt Nam là một đất nước có nhiều đồng bằng, sông suối khí hậu thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp. Khi đánh giá về thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam, các nhà kinh tế thế giới đều thống nhất khẳng định thành công lớn nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong quá trình đổi mới về kinh tế, nông nghiệp là lĩnh vực đạt được những thành tựu hết sức to lớn.Liên tục trong nhiều năm, sản xuất nông nghiệp đạt mức tăng trưởng trên 4,5%/năm. Nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá trên cơ sở khai thác lợi thế về tài nguyên sinh học đa dạng.
Bên cạnh việc coi trọng thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản được coi là một trong những định hướng chiến lược của phát triển nông nghiệp Việt Nam. Cùng với việc đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thị trường nội địa, xuất khẩu nông sản cũng tăng nhanh cả về sản lượng và kim ngạch. Tỷ trọng hàng nông – lâm sản xuất khẩu chiếm khoảng 30-35% khối lượng hàng nông sản thực phẩm làm ra, trong đó lúa gạo chiếm khoảng 20%, cà phê: 95%, cao su: 85%, hạt điều: 90%, chè: 80%, hạt tiêu: 95%... Một số nông sản của Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế giới đó là gạo, cà phê, hạt điêu, hạt tiêu. Thị trường tiêu thụ nông sản đã được mở rộng, ngoài các khu vực tiêu thụ truyền thống nông sản của Việt Nam như Trung Quốc, ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, nông sản Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường Trung Đông, EU, Mỹ và châu Phi.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản (không kể hàng lâm sản và thủy sản) của Việt Nam
(ĐVT: nghìn tấn, nghìn USD)
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Sản lượng
5.918
7.098
6.716
6.915
6.861
Kim ngạch
(triệu USD)
3.176
4.078
4.976
6.290
8.597
Năm 2008, Nông nghiệp Việt Nam khá thành công khi tăng trưởng 3,79%, là khu vực kinh tế duy nhất có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2008 đạt 8.579 triệu USD, tăng 36,7% so với năm 2007 (đạt 6.290 triệu USD).
Năm 2008 nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tuy giảm về sản lượng nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng – giống như xu thế của năm 2007, do giá các loại nông sản trong năm 2008, nhìn chung cao hơn so với giá bình quân của những năm trước.
2.Tình hình sản xuất và xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực
Trong năm 2008, các mặt hàng nông sản của Việt Nam có những biến động lớn cả về giá cả và sản lượng do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế.
Bảng 2: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực:
(ĐVT: nghìn tấn, nghìn USD)
Mặt hàng
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
SL
KN
SL
KN
SL
KN
SL
KN
SL
KN
Gạo
4.059
950,3
5.250
1.407
4.643
1.275
4.557
1.489
4.741
2.894
Cà phê
974
641
892
735,4
980
1.271
1.229
1.911
1.059
2.111
Cao su
513
596,8
587
804,1
707
1.286
714
1.392
658
1.603
Hạt tiêu
111
152,3
108
150,4
116
190,4
82
271,0
90
311,1
Hạt điều
105
435,9
108
501,5
126
503,7
152
653,8
165
911
Chè
99
95,5
87
96,9
105
110,4
114
130,8
104
146,9
Năm 2008, các mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu cao đó là gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, nhân điều, chè..Trong năm 2008, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng giảm so với năm 2007 như: cà phê đạt 1.059 nghìn tấn, giảm 13,8% so với năm 2007; Cao su đạt 658 nghìn tấn,thấp hơn cùng kì 7,8 %, chè đạt 104 nghìn tấn, thấp hơn năm 2007 là 8,8%. Những mặt hàng nông sản chủ lực có lượng xuất khẩu tăng cao so với năm 2007 gồm: Gạo tăng 94,3%; Hạt điều tăng 39,3%. Những mặt hàng chủ lực có giá trị xuất khẩu tăng khá so với năm 2007 là: cà phê tăng 10,4 %,hạt tiêu tăng 14,8%, cao su tăng 15,1%.
Cao su tháng 12/2008 đạt 83,2 ngàn tấn, trị giá 126,6 triệu USD, giảm 36,8 triệu USD (khoảng 22%) so với cùng kỳ năm 2007. Hạt điều tháng 12 đạt 13,7 ngàn tấn, trị giá 66,4 triệu USD, tăng 5,3% về lượng nhưng chỉ tăng 1,5% về giá trị so với tháng 11/2008, giảm 5% so với cùng kỳ năm 2007. Hạt tiêu tháng 12 đạt 6,6 ngàn tấn, trị giá 17,9 triệu USD, tuy tăng 32% về lượng nhưng chỉ tăng 11% về giá trị và giảm 8% so với cùng kỳ năm 2007.
2.1 Mặt hàng cà phê
a.Về sản xuất
Theo ước tính, diện tích cà phê cả nước hiện vào khoảng 500.000 - 510.000ha (trong đó cà phê dân doanh chiếm 70-80%). Theo VICOFA, phần diện tích giảm chủ yếu là vườn già cỗi, năng suất và sản lượng thấp. Với năng suất bình quân đạt 1,5-2 tân/ha thì sản lượng cà phê hàng năm vẫn có khả năng đạt 750.000-800.009 tấn ( 12-13 triệu bao). Giá thành sản xuất bình quân, theo khảo sát năm 2001, vào khoảng 8.000 đồng/kg đối với cà phê dân doanh và 11.000đồng/kg đối với cà phê quốc doanh. Sở dĩ cà phê quốc doanh có giá thành cao hơn là do phải gánh chịu thêm các chi phí xã hội (điện, đường, trường, trạm). Với giá xăng dầu, phân bón ở mức cao như hiện nay thì chi phí sản xuất có thể cao hơn so với thời điểm khảo sát năm 2001.
Về chủng loại, gần 95% diện tich là cà phê robusta, diện tích cà phê Arabica (cà phê chè) chỉ vào khoảng 30.000 ha ( 6%), tập trung ở các vùng có độ cao và khí hậu thích hợp như Sơn La – Lai Châu, Thanh hoá, Nghệ An, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.. Theo dự án do VINACAFE phối hợp với công ty tư vấn BDPA ( Php) xây dựng được Chính Phủ phê duyệt năm 1996 thì tổng diện tích có khả năng phát triển cà phê chè ở Việt Nam vào khoảng 100.000 ha. Tuy nhiên, trên thực tế chương trình phát triển cà phê chè triển khai còn chậm và hiệu quả chưa cao do gặp nhièu khó khăn về nguồn vốn, kỹ thuật, con người.
Các doanh nghiệp cũng như các chủ trang trại, chủ vườn củng cố những diện tích cà phê kinh doanh có hiệu quả kể cả cà phê Robusta và cà phê Arabica, thực hiện chuyển đổi cơ cấu bỏ, giảm diện tích cà phê robusta ở nhưng nơi hiệu quả kinh tế kém, trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như cao su, hồ tiêu, ca cao, điềuvà cũng có nơi chuyển sang mở rộng diện tích cà phê Arabica.
Về công nghiệp chế biến cà phê đã có một số tiến bộ đáng kể. Nhiều doanh nghiệp đã trang bị cơ sở chế biến với đầy đủ diện tích sân phơi,thiết bị tốt và đồng bộ đảm bảo cho ra sản phẩm chất lượng cao. Đáng chú ý là đa số máy móc trong ngành cà phê đã tự sản xuất được trong nước, kể cả dây chuyền chế biến ướt, máy xát tươi làm sạch tiết kiệm nước hiện nay chỉ còn máy bắn màu là phải nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp đã quan tâm chế biến và mở rộng thị trường cà phê giá trị gia tăng. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại trong khâu chế biến như:
-Khâu thu hái còn là một tồn tại lớn vì nông dân chưa thực hiện đúng kỹ thuật thu hái.
-Các địa phương chỉ lo phát triển diện tích cây cà phê mà bỏ qua việc hướng dẫn cho nông dân cách thu hái cũng như quy trình bảo quản sau thu hoạch.
-Thu hoạch sớm khi trái vẫn còn đang tiếp tục lớn sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng hạt cà phê,gây khó khăn trong xuất khẩu.
b)Tình hình xuất khẩu
* về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu:
Ngành cà phê là một ngành kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta,về kim ngạch xuất khẩu khoảng 600 triệu USD,là mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn thứ ba sau gạo và cao su.Cà phê lại có vị trí quan trọng trong kinh tế của nhiều tỉnh Tây Nguyên(50% dân số trồng cà phê,50% GDP do cà phê mang lại).Từ năm 2000,Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê thứ hai trên thế giới(sau Braxin)và đứng đầu về xuất khẩu cà phê robusta.Khác với một số nước như Braxin,Indonesia,tiêu thị chè và cà phê trong nước của ta còn rất thấp nên hầu hết sản lượng cà phê là để dành cho xuất khẩu.
Về chủng loại cà phê xuất khảu chủ yếu là cà phê nhân (robusta), xuất khẩu cà phê chế biến sâu (rang xay, hoà tan) chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Trong năm 2008, cà phê là một trong những các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,1 tỷ USD.
c)Về thị trường xuất khẩu
Cà phê Việt Nam không chỉ phát triển nhanh về diện tích, năng suất và sản lượng mà thị truờng tiêu thụ cà phê Việt Nam cũng không ngừng được mở rộng.
Trong năm 2007, cà phê Việt Nam được xuất sang 143 thị trường trên thế giới, tăng 68% so với 86 thị trường 2006. Trong đó Đức tiếp tục là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất, đạt 177 nghìn tấn, tăng 17,59% so với năm 2006. Bên cạnh đó, lượng cà phê xuất sang một số thị trường chủ lực như Italia, Thuỵ Sĩ, Bỉ và Indonesia tăng rất mạnh so với năm 2006.
Nhìn chung lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các thị trường đều tăng so với năm 2006, tuy nhiên cũng có một số thịt trường giảm khá mạnh về lượng nhập. Cụ thể Ấn Độ giảm 71% về lượng và 66% về kim ngạch so với năm 2006; Cộng Hòa Séc giảm lần lượt 61% và 49%; Đài Loan là một trong những thị trường xuất khẩu cà phê chính của nước ta nhưng cũng giảm khá mạnh về lượng nhập trong năm 2007, giảm 60% về lượng và 17% về kim ngạch.
Bảng 3: Một số thị trường xuất khẩu cà phê năm 2007
(ĐVT: tấn, nghìn USD)
TT
Năm 2007
Lượng
Trị Giá
Đức
177.162
278.454
Mỹ
135.044
212.756
Tây Ban Nha
95.171
150.062
Italia
90.871
143.724
Thụy Sĩ
80.311
115.707
Nhật Bản
46.604
76.407
Bỉ
45.205
71.945
Indonesia
41.332
60.593
Hà Lan
32.396
51.226
Anh
32.131
47.757
2.2.Mặt hàng gạo
a)Về sản xuất
Sản xuất lúa gạo luôn được xem là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của nền nông nghiệp Việt Nam. Sau nhiều thăng trầm, với đường lối, cơ chế, chính sách đúng đắn trong sản xuất và kinh doanh, kể từ năm 1989 sản lưọng lúa gạo của Việt Nam đã tăng liên tục. Từ một nước nhập khẩu gạo, Việt Nam đã sản xuất đủ lúa gạo cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và trở thành nước xuất khẩu gạp lớn thứ 2 trên thế giới. Năm 2001 sản xuất lúa cả nước đạt 32,5 triệu tấn. Đến năm 2008 đạt 38,6 triệu tấn,tăng 16,9% so với năm 2001.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là khu vực sản xuất và cung cấp gần như 100% lượng gạo xuất khẩu hàng năm của nước ta. Sản lượng lúa tại ĐBSCL trong giai đoạn 2001-2008 tăng trưởng khá ổn định và thường chiếm khoảng trên 50% tổng sản lượng lúa cả nước. Năm 2008, ĐBSCL diện tích lúa cả năm ước đạt 3,8 triệu ha, tăng 126.000 ha so với năm 2007; sản lượng lúa ước đạt 20,3 triệu tấn, tăng 1,63 triệu tấn so với năm trước.
Bảng 4: Sản xuất lúa cả nước và ĐBSCL giai đoạn 2004-2008
(ĐVT: triệu tấn)
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Cả nước
36,1
35,8
36,0
38,6
ĐBSCL
18,6
19,2
19,0
18,7
20,3
b) Tình hình xuất khẩu
Từ năm 2004 đến nay, xuất khẩu gạo đã đạt được những kết quả tích cực, tăng trưởng cả về số lượng lẫn trị giá xuất khẩu. Năm 2004 xuất khẩu gạo đạt 4.06 triệu tấn, trị giá 950 triệu USD; tăng 6,5% về lượng và 31,9 % về trị giá so với năm 2003. Sang năm 2005, xuất khẩu gạo đạt mức kỉ lục 5,25 triệu tấn với trị giá 1,4 tỷ USD, tăng 29,3% về lượng và 48% về trị giá so với năm 2004.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn về nguồn cung do ảnh hưởng của thiên tai và sâu bệnh nhưng trong năm 2007, xuất khẩu gạo của nước ta vẫn đạt được những kết quả khả quan với sản lượng xuất khẩu đạt 4,5 triệu tấn ( bằng 98,2% so với năm 2006) và giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,35 tỷ USD ( tăng 16,8% so với năm 2006). Xét về sản lượng xuất khẩu, Việt Nam vẫn đứng thứ 2 thế giới , sau Thái Lan. Mặc dù sản lượng gạo bị Giảm nhẹ so với năm 2006 nhưng kim ngạch xuất khẩu lại tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng gạo của thế giới trong năm vừa cao thăng cao trong khi nguồn cung lại hạn chế, nên giá gạo xuất khẩu tăng.
Trong năm 2007, giá gạo xuất khẩu trung bình của Việt Nam đạt 325 USD/ tấn, tăng hơn 50 USD/tấn so với năm 2006. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan đã thu hẹp dần, có lúc đạt mức ngang giá đối với những sản phẩm có chất lượng cao.
Theo số liệu thống kê, trong tháng 12/2008, cả nước xuất khẩu được 400 nghìn tấn gạo với trị giá 180 triệu USD, tăng 37% về lượng và tăng 30,9% về trị giá so với tháng 11/2008; tăng 270% về lượng và tăng 230% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Như vậy, năm 2008 xuất khẩu của nước ta đạt 4,7 triệu tấn (năm 2008 Việt Nam đã ký hợp đồng xuất khẩu được 5,1 triệu tấn gạo) với kim ngạch 2,9 tỉ USD, tăng 3,6% về lượng và tăng tới 94,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007.
Theo số liệu hải quan, trong năm 2008, gạo của nước ta được xuất khẩu sang 121 thị trường và vùng lãnh thổ, nhiều hơn tới 40 thị trường so với năm 2007. Trong đó, cả nước có tất cả 165 đơn vị tham gia xuất khẩu gạo, nhiều hơn 60 đơn vị so với năm 2007
Bảng 5: Kết quả xuất khẩu gạo giai đoạn 2004 – 2008:
(ĐVT: nghìn tấn,triệu USD)
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Sản lượng
4.060
5.250
4.800
4.5
4,7
Trị giá
950,4
1.407
1.300
1.350
2.900
c)Về thị trường xuất khẩu
Về thị trường, trong những năm vừa qua Việt Nam đã xuất khẩu gạo sang khoảng 90 thị trường và vùng lãnh thổ, kể cả thị trường EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ vốn rất khắt khe. Những thị trường dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu gạo là Phillippins, Indonesia, Cuba, Malaysia và Bờ Biển Ngà. Trong đó riêng thị trường Phillippin năm 2007 đã nhập khẩu gạo Việt Nam với tổng sản lượng đạt 1,45 triệu tấn, trị giá 464,87 triệu USD, giảm 3,71% về lượng nhưng tăng 8,3% về trị giá so với năm 2006.
Bảng 6: Một số thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu gạo lớn trong
năm 2007
(ĐVT: tấn, USD)
Thị trường
2007
Sản lượng
Trị giá
Phillippin
1,458,136
466,070,763
Indonesia
1,169,429
378,979,955
Cuba
431,370
167,260,760
Malaysia
376,929
115,867,041
Bờ Biển Ngà
148,010
45,888,349
Gana
130,921
39,712,399
Ăng gôla
115,472
36,202,615
Singapore
82,390
25,911,742
Nhật Bản
64,640
18,718,676
Cônggô
54,546
16,069,099
2.3.Mặt hàng cao su
a)Về sản xuất và công nghiệp chế biến cao su
Ở Việt Nam, Cao su được trồng từ năm 1897. Đến nay, cao su đã được phát triển khá rộng rãi và trở thành một mặt hàng nông sản xuất khẩu mũi nhọn. Đất đai và khí hậu ở nhiều vùng sinh thái nước ta, đặc biệt là miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên rất phù hợp với việc sinh trưởng và phát triển cây cao su. Cao su Việt Nam là mặt hàng quen thuộc trên thị trường thế giới.
Mặc dù sản lượng cao su của Việt Nam năm 2007 nay vẫn đạt 600.000 tấn, tăng so với 553.500 tấn năm 2006, nhưng nguồn NK cao su từ các nước láng giềng giảm đi do nguồn cung bị hạn hẹp. Được biết, Việt Nam XK 80% sản lượng mủ cao su sản xuất trong nước, còn lại phải mua cao su từ Thái lan, Campuchia và Indonesia để tái xuất.
b) Về tỷ trọng và kim ngạch xuất khẩu
Việt Nam hiện đang là nước xuất khẩu cao su lớn thứ 4 thế giới sau Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Xuất khẩu cao su của Việt Nam trong năm 2008 đạt kim ngạch 1,6 tỷ USD tăng 15% so với năm 2007.
Năm 2008, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến thị trường nông sản, cao su là mặt hàng chiu ảnh hưởng sớm nhất, mạnh nhất. Nguyên nhân bởi cơn khủng hoảng tài chính thế giới đã khiến ngành công nghiệp liên quan đến chế biến cao su liêu xiêu. Giá cao su bắt đầu giảm từ tháng 8/2008 nhưng tốc độ tụt nhanh theo chiều thẳng đứng, chỉ trong vòng hơn 10 ngày, giá đã "trôi" khoảng 15 triệu đồng/tấn. Nếu như mới tháng 7.2008, mủ caosu đang đứng ở đỉnh cao nhất về giá (khoảng 58 triệu đồng/tấn) thì tính đến tháng 10/2008 chỉ còn khoảng 30 triệu đồng/tấn. Mất hơn 28 triệu đồng/tấn trong "chớp mắt" đã khiến nhiều DN xuất khẩu chới với.
c)Về thị trường xuất khẩu:
Hiện Việt Nam XK cao su đến 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới với thị trường XK lớn nhất là Trung Quốc (chiếm tới 64% lượng XK), tiếp theo là Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức, Hoa Kỳ...
Từ năm 1995, số lượng cao su thiên nhiên Việt Nam XK sang Trung Quốc khá lớn và có sự tăng vọt từ năm 2005 đến nay. Sở dĩ vì nhu cầu cao su thiên nhiên của Trung Quốc là 1,7 triệu tấn/năm, trong khi sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu phát triển của ngành công nghiệp chế biến.
Nhu cầu cao su của Trung Quốc năm nay tăng khoảng trên 40% so với năm 2006, lượng NK không dưới 70%. Vì vậy, chắc chắn hiện tại và sau này , Việt Nam vẫn là một trong những nước XK cao su lớn vào Trung Quốc.
Tuy nhiên, có một thực tế là XK của Việt Nam tập trung chủ yếu vào các sản phẩm cao su tự nhiên chưa được xử lý, với gần 60% là cao su tự nhiên đã định chuẩn về kỹ thuật và cao su tự nhiên ở dạng nguyên thủy.
3.Thực trạng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực
3.1.Gạo là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được các nhà hoạch định chính sách xếp vào nhóm có năng lực cạnh tranh cao.Sự phát triển lúa gạo là một trong những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong công cuộc đổi mới về kinh tế.Từ chỗ hàng năm phải nhập khẩu trên dưới một triệu tấn lương thực,Việt Nam đã vươn lên là một trong những nước đứng dầu thế giới về xuất khẩu gạo với sản lượng xuất khẩu khoảng từ 3,5 đến 4 triệu tấn/ năm.Tuy nhiên trên thị trưòng thế giới,gạo Việt Nam lại kém cnạh tranh đứng về khía cạnh phẩm chất theo yêu cầu của thị trường và giá cả.Gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gạo tẻ thường mặc dù trong một vài năm gần đây đã bắt đầu chú ý sản xuất gạo phẩm chất cao và gạo đặc sản nhưng số lượng chưa nhiều.Về giá cả,giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn giá gạo cùng loại của Thái Lan từ 10-20USD/tấn.
3.2.Cà phê cũng là mặt hàng được xếp vào nhóm có năng lực cạnh tranh do năng suất cao và phẩm chất tốt.Sản lượng cà phê cuất khẩu tăng với tốc độ nhanh,song kim ngạch xuất khẩu lại không tăng tỷ lệ thuận với sản lượng.Có ba nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này:1)rtên thị trường thế giới,cung lớn hơn cầu làm cho giá xuất khẩu giảm;2)Việt Nam chỉ yếu tròng cà phê Robusta-loại cà phê dễ trồng,năng xuất cao nhưng chất lượng thấp và do đó giá thấp hơn;3)Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cà phê hạt(cà phê nghuyên liệu) và xuất khẩu qua các trung gian.
3.3.Cao su và chè là hai mặt hàng được xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh tranh trung bình do có lợi thế về chi phí lao động thấp.Khả năng cạnh trnah yếu của hai mặt hang này là do năng suất và chất lượng thấp.
3.4.Trái cây là một trong những mặt hàng nông sản có triển vọng mở rộng xuất khẩu.Tuy nhiên trái cây Việt Nam vẫn chưa hấp dẫn người tiêu dùng nước ngoài,thậm chí ngay trên thị trường nội địa,việc tiêu thụ cũng gặp nhiều khó khăn.Tuy có một số loại trái cây đặc sản,nhưng nhìn chung,so với các nước trong khu vực,năng lực cạnh tranh của trái cây Việt Nam còn thua kém cả về chất lượng và giá thành.Về mặt chất lượng,sự phát triển trái cây Việt Nam vẫn mang nặng tính tự nhiên,sử dụng nhiều giống cũ,chất lượng và năng suất thấp,mức độ ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật chưa nhiều và chưa rộng rãi.Giá thành sản xuất trái cây Việt Nam cũng cao hơn nhiều nước trong khu vực.Cũng có thể thấy tình trạng tương tự nếu xem xét với những loại nông sản xuất khẩu khác như hồ tiêu,hạt điều
4.Các thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam
Bốn thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam hiện tại là EU, Mỹ, Nhật và Trung Quốc. Tính riêng trong 5 tháng đầu năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản sang EU đạt 1,53 tỉ USD, chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu sang các nước này. Kim ngạch nông sản xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 843,5 triệu USD; sang Nhật đạt 521,77 triệu USD và sang Trung Quốc đạt 482,17 USD, tăng 1,8 lần so với cùng kỳ 2007.
Thị trường ASEAN: Thị trường các nước ASEAN là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng đối với các sản phẩm ngũ cốc( chủ yếu là gạo) của Việt Nam.
Thị trường các nước SNG và Đông Âu: đây là khu vực thị trường truyền thống và có thể được xem là khu vực thị trường dễ tính nhất đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.Các mặt hàng nông sản xuất sang thị trường này chủ yếu là chè,cà phê,hạt điều..
Thị trường EU: So với thị trường các nước SNG và Đông Âu,thị trường EU là thị trường khó tính với chế độ bảo hộ công nghiệp chặt chẽ và với mức độ bảo hộ cao.Các nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu sang khu vực này chủ yếu là đối với nhóm hàng các sản phẩm nhiệt đới: cà phê,chề,các loại quả có múi và cao su tự nhiên.Đồng thời các nươc EU với tư cách là nhà tài trợ cũng có vai trò quan trọng trong xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các nước Châu Phi.
Thị trường châu Mỹ: triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ phụ thuộc nhiều vào chính sách mậu dịch của Mỹ,nhất là việc áp dụng qui chế Tối Huệ Quốc đối với các sản phẩm xuất khẩu nói chung và các sản phẩm nông nghiệp nói riêng của Việt Nam trong những năm tới.Đối với thị trường các nước châu Mỹ La tinh khác,triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang khu vực thị trường này có chăng chỉ với nhóm hàng ngũ cốc,nhưng không lớn.
Thị trường Châu Phi: triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam sang khu vực này không lớn và chỉ dừng lại ở nhóm hàng ngũ cốc.
5.Những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam
Trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế, hàng nông sản Việt Nam đã có mặt trên nhiều nước và đã góp phần thu ngoại tệ để phát triển đất nước.Bên cạnh các thành tựu đạt được, ngành nông nghiệp Việt Nam cũng gặp phải không ít những khó khăn.Sản xuất nông nghiệp vẫn lạc hậu, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí cao và nhất là sự yếu kém của ngành công nghiệp chế biến sẽ là những thách thức rất lớn của nông sản Việt Nam.
Đó là tác động chi phí khiến giá nguyên liệu đầu vào của sản xuất nông nghiệp tăng cao (giá phân bón, giá thức ăn chăn nuôi, giá thuốc trừ sâu).
Dịch bệnh và thời tiết diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tới cung – cầu nông sản, thực phẩm. Vấn đề chất lượng vật tư nông nghiệp đã thực sự trở thành “dịch”, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và thu nhập của người nông dân
Cơn lốc" khủng hoảng tài chính bắt đầu tác động đến nông sản xuất khẩu từ tháng 9/2008. Cùng với đó, hầu hết các nước đều được mùa khiến giá nông, lâm, thuỷ sản giảm nhanh và ở mức quá thấp, tác động sâu sắc đến nông nghiệp. Nếu tháng 7/2008, kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam đạt kỷ lục 1,75 tỷ USD thì đến tháng 11/2008, con số này ước còn 1,2 tỷ USD, giảm gần 32%. Cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề tại các thị trường chủ chốt như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản... chính là nguyên nhân khiến sức cầu sụt giảm mạnh. Rắc rối của hệ thống ngân hàng tại những thị trường lớn làm hạn chế khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp (DN) nhập khẩu hàng từ Việt Nam.
Do thực trạng công nghiệp chế biến sản phẩm nông sản của nước ta còn yếu kém:
Công nghiệp chế biến các sản phẩm nông sản ở nước ta đang ở trong tình trạng thấp kém, tỷ lệ thiết bị cũ hổng, lạc hậu khá lớn; danh mục sản phẩm được chế biến quá ít và đơn điệu; tỷ lệ sản lượng các sản phẩm nông nghiệp qua chế biến quá thấp; chất lượg sản phẩm chế biến chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước; tỷ lệ hao hụt nguyên liệu cao.
Khi nhận định sự yếu kém của công nghiệp chế biến ở các quốc gia, UNDP cho rằng: sự kém phát triển của ngành công nghiệp chế biến có hàng loạt các lý do: hệ thống vận tải yếu kém đã cản trở vận chuyển đưởng dài các nguyên liệu và thành phẩm; các xí nghiệp chế biến xa nơi cung cấp nguyên liệu; công nghệ lạc hậu và thấp kém gây ra tổn thất lớn trong chế biến và làm giảm chất lượng sản phẩm; trình độ quản lý kém; thiếu thốn nghiêm trọng về vốn và thông tin thị trường cũng như kỹ thuật đã hạn chế tốc độ phát triển. Cuối cùng, thu nhập thấp của người tiêu dùng trong nước cũng hạn chế tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp chế biến. Đó là nhận định bao quát và đúng với tình hình phát triển của công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta.
Mặt khác,trong những năm qua,sản xuất nông nghiệp bên cạnh sản xuất ra sản lượng lớn các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu tạo nguồn nguyên liệu dồi dào đáp ứng được yêu cầu phát triển của công nghiệp chế biến về tiêu chuẩn nguyên liệu,về cơ cấu sản phẩm
Qua một số nét khái quát về tình hình nêu trên có thể thấy,xuất khẩu nông sản Việt Nam đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ,nhưng cơ cấu nông sản xuất khẩu phản ánh rõ thực trạng nông nghiệp vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ,kỹ thuật lạc hâu,chủ yếu phát triển theo bề rộng trên cơ sở khai thác lợi thế sẵn có,khả năng đáp ứng yêu cầu thị trường quốc té còn thấp kếm.Có thể thấy rõ hơn thực trạng này qua một số điểm sau đây:
- Nông nghiệp Việt Nam về cơ bản chưa thoát khỏi tình trang quy mô nhỏ,phân tán và lạc hậu.Nông thôn Việt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5707.doc