Chi phí thay đổi năng suất tính thiệt hại kinh tế do giảm năng suất cây trồng vật nuôi cụ thể. Chi phí sức khoẻ được tính chi phí trung bình vì thiệt hại cho 1 ca bệnh dưới dạng tiền chữa bệnh đối với từng loại bệnh. Chi phí cơ hội tính sự chênh lệch về thu nhập của người dân trong vùng ô nhiễm trước và sau khi mắc bệnh (ở đây ta giả thiết là người dân bị thiệt hại thu nhập do phải nghỉ ngơi điều trị bệnh). Chi phí phòng ngừa tính số tiền mà nhân dân phải bỏ ra hàng năm để phòng ngừa ô nhiễm. Chi phí thiệt hại thay thế tính các chi phí để khắc phục ô nhiễm hoặc sự cố môi trường do Khu công nghiệp gây ra. Tính giá trị hưởng thụ trong nghiên cứu này, có một giả định là chất lượng môi trường được coi như một yếu tố quyết định giá đất tại khu vực. Do có ô nhiễm nên giá đất của một số các hộ dân sẽ giảm đi so với trường hợp không ô nhiễm, đánh giá sự chênh lệch về giá này cho ta ước lượng sơ bộ được thiệt hại vô hình mà ô nhiễm gây ra cho nhân dân.Tổng thiệt hại kinh tế do ô nhiễm gây ra năm 2001 ở bảng 1: (đơn vị: đồng)
6 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2526 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính thiệt hại kinh tế do tác động môi trường ở khu công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÍNH THIỆT HẠI KINH TẾ DO TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở KCN
TS. Nguyễn Thế Chinh, Đinh Đức TrườngKhoa kinh tế - quản lý môi trường và đô thị.Đại học kinh tế quốc dânBộ giáo dục và đào tạo
Thiệt hại do ô nhiễm môi trường bởi các hoạt động sản xuất kinh doanh trong mọi lĩnh vực, trong đó có ngành công nghiệp nặng đang được nhiều nhà kinh tế, môi trường quan tâm. Các nghiên cứu trước đây thường mới chỉ dừng lại ở đánh giá định tính của tác động môi trường, ít có những nghiên cứu cụ thể về kinh tế do ô nhiễm môi trường. Dựa trên cơ sở khoa học và phương pháp luận xác định thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường, tác giả đã đưa ra 3 phương thức tính toán thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường ở 1 khu công nghiệp được lựa chọn - Khu gang thép Thái Nguyên. Hy vọng bài viết sẽ giúp các nhà sản xuất, quản lý tham khảo vào hoàn cảnh cụ thể trong công việc của mình.
Luật bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua ngày 27-12-1993 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10-1-1994. Trong luật này tại điều 30 thuộc chương III quy định " Tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác làm suy thóai môi trường, ô nhiễm môi trường, gây sự cố môi trường phải...... , có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật". Việc bồi thường thiệt hại như thế nào và với mức đền bù bao nhiêu xét về mặt giá trị, đòi hỏi phải có cơ sở khoa học để xem xét và tính toán, đồng thời phải được cả bên gây ra thiệt hại và bên bị thiệt hại chấp thuận. Đây là vấn đề không hề đơn giản.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục, có sự đóng góp rất quan trọng của các doanh nghiệp công nghiệp, trong đó có ngành công nghiệp nặng như công nghiệp gang, thép. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng đã có những đánh giá về tác động môi trường, nhưng phần lớn các nghiên cứu đó chỉ mới dừng lại ở đánh giá kỹ thuật của tác động môi trường, ít có những nghiên cứu đầy đủ về đánh giá kinh tế, đặc biệt là đánh giá thiệt hại kinh tế của tác động môi trường.
Mục tiêu chủ yếu của nghiên cứu này là xây dựng một qui trình dựa trên các cơ sở khoa học và phương pháp luận đã có để xác định thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường của một trong các loại hình doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt Nam:
a)Xem xét, lựa chọn phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp để đánh giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra
b) Xây dựng một mô hình tính toán cụ thể đánh giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra bởi 1 khu công nghiệp cụ thể.
c) Điều tra khảo sát tại địa bàn khu vực, sử dụng mô hình tính toán và các số liệu thu thập liên quan, tiến hành đánh giá chi phí kinh tế do ô nhiễm môi trường của khu công nghiệp vào 1 thời gian cụ thể (năm 2001).
d) Đề xuất một số các kiến nghị và giải pháp sau khi đã có các kết quả tính toán về mức thiệt hại tại địa điểm nghiên cứu nhằm hướng tới phát triển sản xuất có tính bền vững.
Để có thể tiếp cận vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện, cần sử dụng những nguyên tắc cơ bản của kinh tế và quản lý môi trường áp dụng vào những điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Nguyên tắc kinh tế về sử dụng tài nguyên giả định rằng quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một mặt tạo ra hàng hoá và dịch vụ nhưng mặt khác nó cũng tạo ra những ngoại ứng đối với môi trường, sự cần thiết phải tính tới chi phí xã hội trong các hoạt động sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất, các nhà sản xuất, các doanh nghiệp thường chỉ quan tâm và chạy theo lợi nhuận cục bộ mà bỏ qua chi phí xã hội, trong đó bao gồm cả chi phí môi trường. Vì vậy những ngoại ứng môi trường do hoạt động sản xuất tạo ra nhất thiết phải được tính toán và xem xét như là một phần quan trọng trong tổng chi phí sản xuất của sản phẩm.
Cách tiếp cận của nghiên cứu mang tính liên ngành vì nó liên quan đến mọi hoạt động kinh tế trong khu vực nghiên cứu, những số liệu cụ thể trong thực tế đòi hỏi phải có sự điều tra thu thập, kết hợp nhiều hình thức khác nhau tạo độ tin cậy cao trong điều kiện cho phép.
Đáp ứng những mục tiêu và yêu cầu nói trên, chúng tôi lựa chọn địa bàn Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên để điều tra và nghiên cứu.
1. Cơ sở khoa học của việc tính toán thiệt hại ô nhiễm.
Hoạt động kinh tế bao gồm có sản xuất và tiêu thụ, sản xuất chính là việc sử dụng những dạng vật chất và năng lượng của tự nhiên biến đổi thành các dạng khác có ích cho con người mà chúng ta gọi là hàng hóa. Kết quả cuối cùng của sản xuất và tiêu thụ các dạng vật chất và năng lượng sẽ được hoàn trả về môi trường dưới dạng chất thải. Ô nhiễm môi trường gây ra ngoại ứng tiêu cực, đó là một tác động xảy ra trong sản xuất và gây ra thiệt hại cho các đối tượng khác mà thiệt hại này không được tính đến trong giá cả hàng hoá trên thị trường. Khi có ngoại ứng xảy ra thì cái được và cái mất của cá nhân khác với cái được và cái mất của toàn xã hội. Hậu quả của hiện tượng này là giá hàng hoá không phản ánh đầy đủ giá trị xã hội của hàng hoá, nói cách khác giá không nội hóa các ngoại ứng để sản xuất hàng hoá. Một điểm mấu chốt nữa cũng hết sức cơ bản đó là không có một cơ chế xác lập quyền sở hữu rõ ràng cho những yếu tố môi trường như nước, không khí..., điều này quyết định tính phi kình địch của bản thân nó trong nền kinh tế thị trường. Do đó, trên thị trường cũng dẫn tới sự sai lệch về lượng sản xuất giữa mức hiệu quả cá nhân và mức hiệu quả xã hội, vì thế nó gây ra một sự vô hiệu quả kinh tế do tổn thất phúc lợi xã hội.
Đánh giá kinh tế được xây dựng để tính toán các thiệt hại kinh tế do ô nhiễm gây ra, có rất nhiều phương pháp khác nhau, nhưng được chia thành hai loại chính là các phương pháp đánh giá trực tiếp và các phương pháp đánh giá gián tiếp. Các phương pháp trực tiếp được sử dụng để đánh giá thiệt hại vật chất hữu hình và các thiệt hại đó thường có giá thị trường, đó là phương pháp thay đổi năng suất, phương pháp chi phí sức khoẻ, phương pháp chi phí cơ hội, phương pháp chi phí phòng ngừa, phương pháp chi phí thay thế. Các phương pháp đánh giá gián tiếp thường được sử dụng để đánh giá các thiệt hại vô hình khó lượng giá được trên thị trường. Hai phương pháp đánh giá gián tiếp được sử dụng trong nghiên cứu này là: Phương pháp giá trị hưởng thụ và phương pháp đánh giá ngẫu nhiên.
2. Đánh giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra bởi Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên.
Để có thể tính toán lượng hoá được tất cả các thiệt hại ô nhiễm môi trường là rất khó khăn, vì thế trong phạm vi có thể, nghiên cứu chỉ cố gắng đưa ra mô hình tính toán một số những thiệt hại trực tiếp và gián tiếp chủ yếu do ô nhiễm gây ra. Hoạt động kinh tế của Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên tác động trực tiếp tới các thành phần môi trường: Không khí, nước, sinh vật, đất. ảónh hưởng chính của những tác động này bao gồm: Giảm năng suất cây trồng và vật nuôi, gây bệnh tật cho dân, gây tổn thất về thời gian làm việc của người lao động, giảm giá đất của các hộ gia đình trong vùng bị ô nhiễm. Đồng thời những nơi bị ô nhiễm, các hộ dân phải mất các chi phí phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm.
Trong nghiên cứu này, tổng thể nghiên cứu sẽ là toàn bộ các hộ dân ở phường Cam Giá- Thái Nguyên vì Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên nằm hoàn toàn ở phường này, đây cũng là nơi nhân dân tiếp cận với ô nhiễm nhiều nhất. Trong đó các hộ gia đình được chọn mẫu điều tra theo phương pháp ngẫu nhiên theo các hướng và các khoảng cách khác nhau đến khu công nghiệp.
Mẫu điều tra được tính theo công thức:
n = t2x d 2x N
E2xN+ t2x d 2
Trong đó: t: Phân vị chuẩn (thường =2 ở độ tin cậy 95%), (: Độ lệch chuẩn về số hộ ở một cuộc điều tra đã có, E: Sai số chuẩn, N: Số hộ của tổng thể chung, n: Số hộ của tổng thể mẫu.
Cũng có thể tính kích thước mẫu bằng 5% tổng số đơn vị của tổng thể chung. Trong nghiên cứu vì chưa biết nên ta sẽ chọn cách 2 tức là kích thước mẫu sẽ là: n= 0.05 x 2512= 125 hộ.
Các phiếu điều tra được xử lý bằng phần mềm SPSS và Excel. Trong 130 phiếu phát ra, số phiếu thu về được là 100 (tỷ lệ 80%), tuy nhiên số phiếu hợp lệ để có thể phân tích chỉ là 84 phiếu (tỷ lệ 69%). Mặc dù tỷ lệ này không cao nhưng những thông tin thu về là có giá trị và được sử dụng trong các phân tích thống kê và hồi qui kết hợp với các thông tin trong các dữ liệu gián tiếp khác.
Tổng thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường gây ra được tính bằng 3 phương thức sau:
Thứ nhất: Đánh giá trực tiếp. Tổớng thiệt hại kinh tế do ô nhiễm được tính bằng tổng chi phí tính từ 6 loại: Chi phí thay đổi năng suất, chi phí sức khoẻ, chi phí cơ hội, chi phí phòng ngừa, chi phí thay thế (khắc phục) và cuối cùng là giá trị hưởng thụ.
Chi phí thay đổi năng suất tính thiệt hại kinh tế do giảm năng suất cây trồng vật nuôi cụ thể. Chi phí sức khoẻ được tính chi phí trung bình vì thiệt hại cho 1 ca bệnh dưới dạng tiền chữa bệnh đối với từng loại bệnh. Chi phí cơ hội tính sự chênh lệch về thu nhập của người dân trong vùng ô nhiễm trước và sau khi mắc bệnh (ở đây ta giả thiết là người dân bị thiệt hại thu nhập do phải nghỉ ngơi điều trị bệnh). Chi phí phòng ngừa tính số tiền mà nhân dân phải bỏ ra hàng năm để phòng ngừa ô nhiễm. Chi phí thiệt hại thay thế tính các chi phí để khắc phục ô nhiễm hoặc sự cố môi trường do Khu công nghiệp gây ra. Tính giá trị hưởng thụ trong nghiên cứu này, có một giả định là chất lượng môi trường được coi như một yếu tố quyết định giá đất tại khu vực. Do có ô nhiễm nên giá đất của một số các hộ dân sẽ giảm đi so với trường hợp không ô nhiễm, đánh giá sự chênh lệch về giá này cho ta ước lượng sơ bộ được thiệt hại vô hình mà ô nhiễm gây ra cho nhân dân.Tổng thiệt hại kinh tế do ô nhiễm gây ra năm 2001 ở bảng 1: (đơn vị: đồng)
Bảng 1
Tổng thiệt hại kinh tế của ô nhiễm trong 1 năm của Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên
Chi phí giảm năng suất (T1)
0
Chi phí sức khỏe (T2)
12500000
Chi phí cơ hội(T3)
1600000
Chi phí phòng ngừa (T4)
106900000
Chi phí thay thế (T5)
20890000
Chi phí giá trị hưởng thụ (T6)
912250000
Tổng
T1+T2+T3+T4+T5+T6
105414 0000
Thiệt hại trung bình 1 hộ
420000
Thứ hai: Đánh giá gián tiếp. Tổng thiệt hại kinh tế do ô nhiễm tính theo phương pháp WTA (bằng lòng chấp nhận).
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) dùng để tính toán mức độ sẵn sàng chấp nhận trung bình của từng hộ dân trong khu vực nghiên cứu về số tiền mà mỗi hộ kỳ vọng sẽ nhận được từ Khu gang thép trong 1 năm nếu được đền bù thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Mức WTA này cũng chính là mức đánh giá mức độ ô nhiễm mà khu công nghiệp gây ra cho mỗi gia đình. Kết quả tính toán WTA được thể hiện ở bảng 2 (đơn vị: đồng).
Bảng 2
Số hộ điều tra trong mẫu
Nhỏ nhất
Lớn nhất
Trung bình
Độ lệch chuẩn
WTA
80
200000
12000000
2399900
2333800
Như vậy là trong 84 hộ được phỏng vấn có 4 hộ không trả lời câu hỏi này. Trong 80 hộ còn lại chọn các mức WTA khác nhau, trong đó hộ muốn nhận nhiều nhất là 12000000 đ/năm và hộ muốn nhận ít nhất là 200000 đ/năm. Trung bình một hộ chấp nhận 2400000 đ/ năm. Tổng WTA của các hộ trong tổng thể mẫu là 191000000 đ.
Trong các chi phí tổn hại do ô nhiễm môi trường thì các chi phí hữu hình là rất nhỏ (chỉ 14%), còn chi phí vô hình là khá lớn, đến 86% tổng thiệt hại. Theo kết quả tính toán thì có một sự chênh lệch đáng kể giữa thiệt hại trung bình của một hộ dân tính theo phương thức thứ nhất (420000 đ) và con số tương ứng tính theo phương pháp WTA (2400000 đ). Sở dĩ như vậy là vì, thứ nhất tổng thiệt hại mà ô nhiễm gây ra cho một hộ dân trong thực tế có thể lớn hơn 420000 đ. Số tiền này mới chỉ là con số tính toán theo mô hình. Thứ hai, khi sử dụng phương pháp WTA thì nhân dân thường muốn nhận nhiều hơn con số mà họ phải chịu trong thực tế.
c) Đánh giá tổng hợp trên cơ sở mô hình hóa.
Trên cơ sở xây dựng mô hình, sử dụng phiếu điều tra tại địa bàn nghiên cứu và từ nhiều nguồn dữ liệu thu thập khác nhau, bằng việc viết phần mềm cho chung mô hình, kết quả đánh giá thiệt hại kinh tế bằng phương pháp này ở Khu gang thép Thái Nguyên năm 2001 là 1386000000 đ. Như vậy so với phương thức đánh giá thứ nhất; sự chênh lệch của cách tính này cao hơn 331860000 đ. Như vậy sự chênh lệch này có khả năng chấp nhận được.
Kiến nghị.
Từ những kết quả điều tra nghiên cứu trên cho thấy tính thiết thực của nghiên cứu. Để có thể đánh giá được thiệt hại kinh tế do tác động tới môi trường từ đó tiến tới việc quản lý môi trường cho hoạt động sản xuất phát triển bền vững, cần phải tiếp tục có những nghiên cứu quy mô hơn nữa nhằm nghiên cứu và kiểm định những kết quả để đảm bảo độ chính xác cao.
Biên tập: Kim Oanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_thiet_hai_kinh_te_do_tac_dong_moi_truong_o_kcn_441.doc