LỜI NÓI ĐẦU 1
B. NỘI DUNG CHÍNH: 2
CHƯƠNG I: TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ VÀ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ 2
I. Nền kinh tế thế giới và quá trình toàn cầu hoá 2
1. Khái niệm toàn cầu hoá: 2
2. Tính tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hoá. 5
II. Các hình thức và tác động của toàn cầu hoá 6
1. Các hình thức 6
1.1. Ngoại thương 6
1.2. Đầu tư vốn: 7
1.3. Chuyển giao công nghệ 9
1.4. Chuyên mô hoá sản xuất và hợp tác sản xuất 10
1.5. Xuất khẩu lao động 11
1.6. Phát triển thị trường trong nước trong bối cảnh hội nhập 12
1.7. Tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá. 13
2. Những tác động toàn cầu hoá kinh tế 14
2.1. Tác động tích cực 14
2.2. Tác động tiêu cực. 15
CHƯƠNG II: CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM 17
I. Sự cần thiết phải chủ động hội nhập 17
1. Quản điểm của Đảng và Nhà nước ta về toàn cầu hoá kinh tế. 17
2. Sự cần thiết phải chủ động hội nhập. 17
3. Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập 19
II. Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, giải pháp để hội nhập 20
1. Những vấn đề đặt ra cho quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta. 20
2. Giải pháp để hội nhập. 20
2.1. Kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. 21
2.2. Điều chỉnh, xây dựng cơ cấu kinh tế mới. Nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh. 21
2.3. Đổi mới cơ chế quản lý. 22
2.4. Coi trọng nhân tố con người. 22
KẾT LUẬN 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
25 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 10197 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Toàn cầu hoá kinh tế và tính tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hoá kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng có chính sách đầu tư đúng theo tinh thần Nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đang được quán triệt và triển khai.
Qua hơn 6 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đã là môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào địa bàn. Vốn đầu tư nước ngoài từ năm 1994 đến năm 1996 là 72 - 78%. Từ năm 1997 đến năm 1999 luôn luôn chiếm trên 80% tổng số vốn đầu tư toàn thành phố, trong đó có vốn đầu tư nước ngoài vào công nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối cao, dao động từ 30 - 40% tổng số vốn đầu tư ngoài vào Hà Nội.
Dự báo thời kỳ 2001 - 2005 Việt Nam sẽ thúc đẩy vốn FDI trung bình một năm vào khoảng 5 - 6 tỷ USD, trong đó Hà Nội một năm khoảng 0,8 - 1 tỷ USD. Thời kỳ 2006/2010 Việt Nam sẽ thu hút vốn FDI trung bình 1 năm vào khoảng 8 - 9 tỷ USD, trong đó Hà Nội khoảng 2,0 - 2,2 tỷ USD/năm. Nguồn vốn này đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Ngoài ý nghĩa bổ sung nguồn vốn đáng kể cho tăng trưởng, khu vực này còn góp phần tạo việc làm chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Do vậy cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút, sử dụng có hiệu quả hơn vốn FDI.
Thời gian qua, đầu tư tư nhân trong nước tăng nhanh và có vị trí ngày càng quan trọng hơn, từ mức dưới 20% tổng đầu tư xã hội (thời kỳ 1997 - 2000) lên 24,7% (năm 2001) và tăng khoảng 30% (so với năm 2000). Tuy nhiên so với các nước trong khu vực, tỷ lệ tiếp kiện dân cư còn thấp, định hướng sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của khu vực tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế. Cần có nhiều cơ chế chính sách để phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích đầu tư tư nhân.
Trong bối cảnh suy giảm vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) toàn cầu, kết quả cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2001 vẫn đạt mức 2,4 tỷ USD, và vốn giải ngân vẫn đạt 1,7 tỷ USD là khả quan, góp phần thiết thực cho tăng trưởng, phát triển cần phải tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng bài học thành công cũng như chưa thành công trong thời gian qua để tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút, sử dụng ODA, vay và trả nợ nước ngoài theo tinh thần bản “Đồng thuận Mông - tơ - Sây” (tháng 4 - 2002, Mêhicô) về tài trợ cho phát triển.
Như vậy, thu hút vốn đầu tư nước ngoài trở thành bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới, là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư càng trở nên thiết thực trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế ngày nay, sẽ không có sự phát triển hoàn chỉnh nếu không có sự đầu tư tư bản và công nghệ giữa các nước và khu vực trên thế giới.
1.3. Chuyển giao công nghệ
Chiến lược phát triển đất nước ta là chiến lược phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, để đạt được mục tiêu đó, chúng ta phải có được một nền khoa học hiện đại áp dụng vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội.
Trong thời đại ngày nay khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng của sự phát triển. Nhận thức rõ vai trò đó của khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học và công nghệ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương khoá VIII một lần nữa nhấn mạnh: “Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Thực tiễn phát triển của hơn 15 năm đổi mới, đã chứng tỏ việc chúng ta áp dụng những tiến bộ khoa học, đổi mới công nghệ, tiếp thu công nghệ tiên tiến và một yếu tố rất quan trọng làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống của nhân dân. Để đạt được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) liên tục đạt khoảng 8% những năm qua, ngoài yếu tố chuyển đổi cơ chế, mở cửa, chủ động, hội nhập với thị trường khu vực và thế giới thì yếu tố quan trọng.
Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thường thấy nổi lên vấn đề vốn, nhưng phân tích kỹ thì thực ra, vốn phần lớn cũng là để đổi mới và tiếp thu công nghệ (mua thiết bị, máy móc - phần cứng của công nghệ, và mua quy trình, bí quyết công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề, năng lực quản lý cho người lao động.phần mềm của công nghệ).
Không chỉ riêng đối với nước ta mà lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới cũng cho thấy đã có rất nhiều cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ ra đời. Cuộc cách mạng được thực hiện đầu tiên ở nước Anh đã tạo ra công cụ lao động bằng máy móc, thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí, làm thay đổi về chất và tư liệu sản xuất. Từ giữa thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại lại tạo ra bước đột phá mới trong sự phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển đó không chỉ đem lại tính chất hiện đại cho các yếu tố tư liệu sản xuất mà còn ở kỹ thuật, phương pháp, bí quyết sản xuất hiện đại, trình độ tổ chức và quản lý tiên tiến nghĩa là từ thiết bị, con người thông tin đến tổ chức quản lý.
Như vậy, thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ từ nước này sang nước khác làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao nhằm rút ngắn quá trình hiện đại hoá công nghệ và do vậy có thể đẩy nhanh tốc độ, nâng cao năng lực sản xuất, khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh. ở nước ta, việc tiếp cận chuyển giao và phát triển công nghệ là hết sức cần thiết, song vấn đề đặt ra là phải có cơ chế chính sách hợp lý để việc chuyển giao công nghệ vừa đạt được mục tiêu khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế vừa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái.
1.4. Chuyên mô hoá sản xuất và hợp tác sản xuất
Chúng ta đã biết mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là hợp tác nội lực là chính và ngoại lực và tạo thành sức mạnh tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường xu hướng hợp tác và nhất là thể hoá kinh tế thế giới, nhằm thu hút các nguồn lực kinh tế từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước, mở rộng phân công lao động quốc tế tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác.
Đến nay, trên thế giới đã có đến hàng trăm hình thức tổ chức liên chính phủ và hàng nghìn hình thức tổ chức phi chính phủ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại khoa học và công nghệ, văn hoá xã hội, tiêu biểu như có tổ chức thương mại thế giới (WTO); tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD); tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC), Liên Hiệp Châu Âu (EU - 15), Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASAN) vv.
Ngày nay xu thế chung của thế giới là đi vào hoà hoãn mọi vấn đề có tính quốc tế giải quyết bằng con đường đối thoại và chuyên môn hoá sản xuất hợp tác sản xuất giữa các quốc gia, giữa các khu vực, giữa các vùng đã trở nên là điều nghiễm nhiên, bởi lẽ chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác sản xuất là sự lợi dụng hợp lý nhất những điều kiện vốn có của vùng - nhằm tiết kiệm và tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư hiệu quả sản xuất - kinh doanh để tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá vừa tốt vừa rẻ, có sức cạnh tranh thoả mãn nhu cầu của vùng, vừa đáp ứng nhu cầu nhất định của nền kinh tế quốc dân nghĩa là thông qua chuyên môn hoá sản xuất vùng, tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội giữa các vùng, góp phần thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trên phạm vi cả nước.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá thì sự chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác sản xuất thực sự là cần thiết, có như vậy mới có được sự hỗ trợ nhau tốt nhất trong sản xuất kinh doanh cũng như trong các hoạt động phát triển khác, có thể khai thác và sử dụng được hợp lý những nguồn tài nguyên thiên nhiên những nguồn lao động hơn nữa lại có thể giải quyết được những vấn đề mang tính toàn cầu như nạn ô nhiễm môi trường căn bệnh thế kỷ, chiến tranh hạt nhân. liên quan đến vận mệnh nhân loại, số phận của nhiều cộng đồng, dân tộc mà sự giải quyết chúng cần có sự phối hợp, hợp tác của nhiều quốc gia.
1.5. Xuất khẩu lao động
Đảng và Nhà nước đã khẳng định, con người giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế xã hội và phải phát triển thị trường sức lao động nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật.
Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, trung bình mỗi năm tăng thêm khoảng 1 triệu đến 1,1 triệu người. Với số dân 76,3 triệu người vào thời điểm ngày 1 - 4- 1999, Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số lớn thứ 3 ở Đông Nam á, thứ 14 trên thế giới, thứ 7 Châu á. Như vậy, dân số Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong vài chục năm nữa là sẽ ổn định ở mức 120 - 125 triệu người do đó Việt Nam sẽ đứng vào 1 trong nhóm 10 nước có dân số đông nhất thế giới.
Tuy nhiên, đông dân lại là một lợi thế của nước ta hiện nay vì nó đem lại một nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, trình độ học vấn khá cao, đây là một trong những điều kiện để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vì kinh doanh ở Việt Nam sẽ có lợi nhuận cao và hàng hoá có sức cạnh tranh (giá nhân công rẻ - hàng hoá rẻ - cạnh tranh tốt).
Ngoài ra dân số đông còn là một lợi thế trong việc xuất khẩu lao động,lao động Việt Nam không chỉ đông mà còn có nhiều phẩm chất tốt như cần cù, năng động, sáng tạo, có khả năng thích ứng mau lẹ với mọi biến động của nền kinh tế thị trường cho nên rất thích hợp với nhiều thị trường lao động như là thị trường Châu á (Đài Loan, Hàn Quốc) Đông Âu, Châu Phi
Như vậy, với hơn 76 triệu dân thì Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng, điều này sẽ có hai ý nghĩa:
Một là: nếu khai thác tốt thị trường nội địa sẽ là một yếu tố đảmbảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, bởi lẽ dân số đông sẽ hấp dẫn các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, vì có thể tiêu thụ được một khối lượng lớn hàng hoá. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế nước ta còn yếu kém, lao động cơ khí và tự động hoá chưa phổ biến thì lực lượng lao động này là nhân tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Để sử dụng triệt để và có hiệu quả nguồn lao động nước ta, phải cần hình thành những phẩm chất tốt cho người lao động, đó là đạo đức, tác phong, thể chất nhưng đặc biệt là đào tạo nghề, đồng thời phải đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh tế tạo ra nhiều chỗ làm.
Hai là: Dân số nước ta đông, tăng nhanh trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn yếu kém, của cải thặng dư còn ít, tích luỹ nhỏ, do đó đã gây ra những sức ép nặng nề đối với chất lượng cuộc sống, tài nguyên môi trường, quá trình đầu tư trở lại cho sản xuất và phát triển kinh tế.
Vì vậy, đứng trước xu thế toàn cầu hoá của thời đại, chúng ta cần có sự chuẩn bị, có sự khắc phục, có chính sách hợp lý để khai thác tốt tài nguyên nhân lực của nước ta cũng như đáp ứng những đòi hỏi trong quá trình hội nhập.
1.6. Phát triển thị trường trong nước trong bối cảnh hội nhập
Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực phải tập chung ưu tiên giải quyết nhiều vấn đề, trong đó phát triển thị trường trong nước cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi vì nếu không có sự chuẩn bị, không chủ động phát huy nội lực thì không thể hội nhập thành công.
Sản xuất và thị trường luôn gắn kết thúc đẩy nhanh phát triển. Phát triển sản xuất sẽ thúc đẩy mở rộng thị trường trong và ngoài nước, ngược lại, có thị trường rộng lớn sẽ tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Trong những năm gần đây, thị trường nội địa nước ta có bước phát triển, nhiều mặt hàng đã bước đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường, thu nhập của người dân tăng dẫn đến sức mua tăng, thúc đẩy tăng trưởng của các ngành khác và góp phần làm cho thị trường nội địa phong phú, đa dạng và cạnh tranh cao hơn.
ở nước ta hiện nay, thị trường đã được hình thành nhưng vẫn còn nhiều yếu kém, các quy luật của cơ chế thị trường chưa phát huy vai trò tích cực. Cung và cầu mất cân đối: giá cánh kéo giữa hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp, dịch vụ vẫn còn lớn, trong khi Việt Nam là một nước công nghiệp, gần 80% dân số sống ở vùng còn khá lớn nên sức mua không cao, chưa kích thích mạnh cầu tiêu dùng. Vẫn còn tiềm ẩn nhiều của tình trạng thiểu phát, chưa thiết lập được mối liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và các nhà kinh doanh nên chưa tạo thành hệ thống lưu thông lưu thông lâu dài và ổn định ngay cả thị trường trong nước, chưa nói đến thị trường nước ngoài. Chất lượng hàng hoá thấp, mức cạnh tranh chưa cao, nhiều mặt hàng cung đã vượt cầu, quản lý và điều hành của Nhà nước còn những yếu kém như quản lý giá, thông tin, dự báo thị trường, dự báo các mặt hàng, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại vẫn diễn ra với nhiều hình thức tinh vi, các nhân tố thị trường trong nước chưa ổn định. Trong lúc đó cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định thị trường trong nước giữ vai trò quan trọng và động lực và nhân tố quyết định mở rộng thị trường ngoài nước.
1.7. Tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá.
Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá có mục tiêu chung là đảm bảo chủ quyền quốc gia về tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền nội tệ, ổn định giá trị đồng tiền nội tệ, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng trưởng kinh tế nâng cao thu nhập cho người lao động. Ngoài ra nó còn thúc đẩy xuất khẩu, tăng cường dự trữ ngoại tệ quốc gia, giảm thâm hụt cán cân vãng lai, làm tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.
Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hoá tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước”. Trong những năm qua, với chức năng tham mưu cho chính phủ và thực thi chính sách quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện, hệ thống Ngân hàng Việt Nam từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Tuy vậy chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá là vấn đề phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực nghiệp vụ chuyên sâu.
Trên thị trường tiền tệ ở nước ta, tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền có sự chênh lệch, biến động rất lớn, từ giữa năm 2001, có tình trạng thừa vốn ngoại tệ, khan hiếm vốn nội tệ trong các ngân hàng thương mại. Ngoài ra chúng ta cũng không thể tránh khỏi hiện tượng đô la hoá nền kinh tế. Theo đánh giá của một số tổ chức và chuyên gia quốc tế, thì tình trạng đô la háo đang ở mức độ bình thường và còn có thể kiểm soát được. Bởi vậy chúng ta cần khai thác mặt tích cực của nó, hạn chế tác động bất lợi, kích thích thu hút nguồn kiều hối và thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước, thu hút ngoại tệ trong xã hội vào hệ thống ngân hàng, tạm thời chấp nhận tình trạng đô la hoá tài sản có trong ngân hàng hơn là đô lá hoá phổ biến trong xã hội khi thị trường hối đoái ở Việt Nam đang dần hội nhập với quốc tế, các ngân hàng thương mại cần nắm diễn biến lãi suất và tỷ giá trên thị trường thế giới để kinh doanh tiền tệ trong dân nhưng khó cho vay trong nước thì phải năng động đem gửi ở ngân hàng nước ngoài hưởng thu nhập từ nghiệp vụ tiền gửi. Đó là một hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường và cũng có lợi cho cả nền kinh tế quốc gia có khoản dự trữ ngoại tệ lớn. Các ngân hàng có nguồn vốn lớn và có thu nhập, người dân có tiền gửi thu được khoản lãi, ngoại tệ không bị trôi nổi trong lưu thông.
2. Những tác động toàn cầu hoá kinh tế
2.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, việc Việt Nam hội nhập kinh tế với khu vực ASEAN (AFTA) sẽ cho phép hàng hoá của Việt Nam xuất sang các nước ASAN được thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn do giảm thuế quan và các thủ tục hải quan. Việt Nam sẽ từng bước tham gia sâu rộng hơn vào quá trình phân công lao động khu vực, phân chia thị trường khu vực và hợp tác kinh tế với các nước ASEAN. Các nước ASEAN sẽ hình thành một thị trường có tính chất tự do khu vực, vì vậy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ hấp dẫn hơn.
Thứ hai, khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới, được công nhân là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ được các thành viên của WTO giành cho các đãi ngộ về tối huệ quốc, không phân biệt đối xử đãi ngộ quốc gia và các đãi ngộ khác, gạt bỏ khả năng bị phân biệt, ứng xử trong thương mại. Những đãi ngộ này là điều kiện thuận lợi để Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới, nhất là các thị trường có tiềm năng như Mỹ, Nhật, EU. Tham gia vào WTO, Việt Nam sẽ thiết lập được quan hệ chặt chẽ và được sự ủng hộ mạnh mẽ hơn các tổ chức tài chính thế giới như: Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Khi có tư cách thành viên của WTO, Việt Nam mới có thể tham gia những cuộc thương lượng phân chia quyền lợi và thị trường, có điều kiện đấu tranh nhằm bảo vệ quyền lợi tránh để lợi ích quốc gia bị phương hại. Nâng cao tính hấp dẫn, thu hút đầu tư khi vận dụng những chuẩn mực quốc tế vào cơ chế quan hệ trong nước.
Tóm lại, những mặt tích cực, những thuận lợi khi chúng ta tham gia hội nhập toàn cầu hoá kinh tế có thể đạt được là:
Một là, tạo điều kiện cho các quốc gia khai thác và sử dụng các nguồn lực phát triển của nhau, tăng cường thương mại quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hai là, toàn cầu hoá tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá, chuyển giao công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh giữa các quốc gia, nhất là giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển.
Ba là, tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các nền kinh tế phải tự điều chỉnh hoặc cải cách sâu rộng, triệt để nhằm thích ứng và nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển.
Bốn là, Mở rộng giao lưu, tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội giữa các dân tộc.
2.2. Tác động tiêu cực.
Thứ nhất, hàng hoá các nước khu vực sẽ vào Việt Nam dễ dàng hơn, kể cả các hàng công nghiệp, vật tư và các hàng tiêu dùng. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng hoá các nước ASEAN ngay trong thị trường nội địa. Những hàng hoá của Việt Nam có chất lượng thấp và giá cả hơn của các nước ASEAN khó có thể xuất khẩu sang các nước đó. Các Công ty nước ngoài khác có thể thông qua các nước ASEAN để bán hàng vào Việt Nam nhiều hơn, cạnh tranh nhiều hơn với các doanh nghiệp Việt Nam, do vậy thâm hụt cán cân thương mại có thể sẽ tăng lên.
Thứ hai, giữa hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam và định chế của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế còn có khác biệt lớn, khó khăn lớn nhất của chúng ta là trình độ phát triển kinh tế còn thấp và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, các ngành sản xuất, các sản phẩm và dịch vụ của ta còn thiếu.
Như vậy, mặt tiêu cực của toàn cầu hoá kinh tế có thể được khái quát lại như sau:
Một là, toàn cầu hoá khoét sâu hố ngăn cách giữa các nước giàu và nghèo, làm trầm trọng hơn sự bất công xã hội trong từng quốc gia và giữa các nước với nhau. Toàn cầu hoá mang lại lợi ích cho các nước phát triển, ngược lại 85 nước có mức sống bị suy giảm so với 10 năm trước. Khoảng cách giầu nghèo ngày một xa, các nước giàu có chiếm 20% dân số nghèo chỉ chiếm 1% ONP của thế giới. So sánh 5% số dân giầu nhất với 5% số dân nghèo nhất thì khoảng cách ngày càng xa rõ rệt. Ví dụ, năm 1820 khoảng cách 5% người giàu và 5% người nghèo là 2 lần, năm 1913 là 11 lần, năm 1960 là 30 lần và năm 2000 là 74 lần. Như vậy, toàn cầu hoá càng phát triển thì hố ngăn cách giàu nghèo càng lớn.
Hai là, toàn cầu hoá mở rộng thị trường, tạo ra môi trường cạnh tranh, song là cuộc chạy đua không cấn sức giữa các nước, các tập đoàn tư bản khổng lồ với các nước đang và kém phát triển, có nền kinh tế lạc hậu. Trong cuộc cạnh tranh đó lợi thế thuộc về các nước phát triển và tập đoàn kinh tế mạnh.
Ba là, toàn cầu hoá cũng tạo ra nguy cơ làm biến dạng hoặc mất đi bản sắc văn hoá dân tộc, mất tính độc lập, tự chủ của quốc gia. Đồng thời nó cũng tạo ra khả năng quốc tế hoá các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực khác.
Chương II:
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
I. Sự cần thiết phải chủ động hội nhập
1. Quản điểm của Đảng và Nhà nước ta về toàn cầu hoá kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “ Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch”.
Nước ta có điểm xuất phát thấp lại thiếu kinh nghiệm hoạt động trên thị trường thế giới nên khi hội nhập quốc tế phải chủ động và có lộ trình chu đáo nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực nước ngoài, tạo điều kiện khai thác triệt để nguồn lực trong nước, nhất là nguồn lực lao động. Những vấn đề khó khăn, thách thức lớn nhất đối với các nước đang phát triển khi tham gia vào tiến trình toàn cầu hhoá là mở rộng hợp tác, cùng có lợi, bảo vệ được lợi ích kinh tế, độc lập tự chủ của quốc gia. Nhận thức được các thách thức đó Đảng ta chủ trương “Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế của Công ty xuyên quốc gia”.
Những tư tưởng, quan điểm của Đảng ta thể hiện tính tích cực, vừa chủ động hội nhập, có lộ trình tích cực tham gia vào toàn cầu hoá nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta trong những năm tới. Song phải đảm bảo tính độc lập tự chủ về kinh tế, chính trị.
2. Sự cần thiết phải chủ động hội nhập.
Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một xu thế tất yếu khách quan đối với một nước nào trên con đường phát triển trong điều kiện thế giới hiện nay. Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, đã là nền kinh tế thị trường thì việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là điều thực sự cần thiết và là một tất yếu khách quan.
Tình hình khu vực và thế giới tác động mạnh mẽ đến nước ta. Trước mắt chúng ta có cả cơ hội và thách thức lớn. Vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với nước ta là nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới. Từ tình hình quốc tế và trong nước, Đảng ta đã nêu lên đường lối đối ngoại đó là: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái
Trong chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, một trong những vấn đề quan trọng mà Đảng ta nêu lên trong những vấn đề chính sách đối ngoại đó là: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, tuy có nhiều thuận lợi song cũng đặt ra những thử thách hết sức gay gắt cho chúng ta.
Trên thực tế chúng ta đã bắt đầu quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới từ hơn 1 thập niên trước đây. Với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước trong đó có hầu hết các nước lớn và các trung tâm kinh tế chính trị thế giới. Trong thời gian qua chúng ta đã có nhiều cố gắng khẩn trương hội nhập với các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như Hiệp hội các nước ASEAN (AFTA), Diễn đàn Châu á Thái Bình Dương (APEC) và chuẩn bị hội nhập với tổ chức thương mại thế giới WTO
Mặt khác, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế còn là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Sự nghiệp này đòi hỏi phải có vốn, có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, là những yếu tố mà nước ta đang thiếu, trong khi đó ở các nước phát triển lại có ưu thế, có tiềm lực khổng lồ. Nước ta phải biết tận dụng những yếu tố thuận lợi của hoàn cảnh quốc tế, tận dụng tối đa “ngoại tệ” để phát huy nội lực.
Từ xuất phát trên, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, coi đó là một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối đối ngoại của mình.
Như vậy, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam là thực sự cần thiết, bởi lẽ nó không chỉ mang lại những lợi thế, những mặt tích cực mà còn cho ta có thể xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước ta trong quá trình phát triển, qua đó ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0104.doc