Mặt khác, Bộ luật hình sự 1999 cần có một chương riêng hoặc một số điều luật cụ thể quy
định rõ những hành vi bạo lực gia đình phải bị xử lý bằng hình sự, các dấu hiệu cơ bản của
các tội về bạo lực gia đình cũng cần cụ thể, không nhất thiết phải có những dấu hiệu như "đã
bị xử lý hành chính".
Để có cơ sở thực tiễn trong việc soạn thảo, xây dựng luật, Ban soạn thảo dự án Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, cần tổ chức nghiên cứu, rà soát và lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong quá trình soạn thảo dự án luật; Lập báo cáo về việc lồng ghép vấn
đề bình đẳng giới trong quá trình soạn thảo dự án luật. Đối với Ủy ban thẩm tra dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự cần bổ sung nội dung đánh giá về việc lồng
ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình soạn thảo dự án luật vào báo cáo thẩm tra hoặc lập
báo cáo thẩm tra bổ sung đánh giá về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình
soạn thảo các dự án luật có liên quan như: Luật hôn nhân gia đình, luật chống bạo hành, bạo
lực, quyền về đất đai, Luật lao động, quyền chính trị. Việc này sẽ tạo môi trường cho sự bình
đẳng về cơ hội và quyền lực, hai yếu tố thiết yếu để đạt được bình đẳng giới trên các phương
diện khác như giáo dục, y tế và tham gia chính trị
17 trang |
Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 578 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ theo Luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống lại sự thống trị của nam giới, phê phán
quyết liệt chế độ áp bức phụ nữ, đòi quyền lợi cho phụ nữ, tạo lập bình đẳng giới. Mặc dù có
chung mục đích là vì sự phát triển của phụ nữ chống lại chế độ nam trị, nhưng lý thuyết nữ
quyền có nhiều trường phái khác nhau; thậm chí, có những trường phái mâu thuẫn nhau gay
gắt. Có thể nêu một số lý thuyết nữ quyền có ảnh hưởng mạnh đến xã hội phương Tây thời
gian qua là: Nữ quyền tự do, Nữ quyền mác-xit, Nữ quyền xã hội chủ nghĩa, Nữ quyền phúc
lợi, Nữ quyền triệt để, Nữ quyền hiện sinh, Nữ quyền phân tâm;... và gần đây xuất hiện một
số lý thuyết nữ quyền mới, như: Nữ quyền hậu hiện đại, Nữ quyền da đen, Nữ quyền phụ nữ
thế giới thứ ba...
Cùng với quá trình giao lưu và hội nhập, vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bằng
nhiều con đường khác nhau, quan điểm giới được nhanh chóng du nhập và truyền bá vào Việt
Nam. Sự xuất hiện cách tiếp cận giới chính là bước đột phá quyết định sự phát triển mạnh mẽ
và ấn tượng của khoa học nghiên cứu về phụ nữ và cùng với nó là sự biến đổi nhanh chóng
quan niệm, thái độ, hành vi của xã hội và thực tiễn tạo lập bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực
của xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Sau gần hai chục năm du nhập vào Việt Nam, quan điểm giới đã nhanh chóng được tiếp
nhận và triển khai sâu rộng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tế, vấn đề giới đã
trở thành mối quan tâm chung của xã hội và trở thành phong trào thực tiễn sâu rộng của phụ
nữ Việt Nam. Mặc dù đã có sự chuyển biến tích cực trong quan hệ giới, địa vị, đời sống của
người phụ nữ Việt Nam đã từng bước được nâng cao, cải thiện cùng với những thành tựu to
lớn của công cuộc đổi mới nhưng sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tạo lập bình đẳng giới ở
5
Việt Nam vẫn là những vấn đề bức xúc, cần nhiều nỗ lực hơn nữa của cả hai giới và của cả xã
hội.
Công ước CEDAW là văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người nêu ra vấn đề quyền
sinh sản của phụ nữ, vấn đề văn hóa và truyền thống có ảnh hưởng đến việc hình thành vai trò
về giới và vấn đề phụ nữ có quyền nhập, giữ hoặc thay đổi quốc tịch của họ và con cái nếu họ
muốn. Việc thực hiện CEDAW trong 30 năm qua đã tạo ra những chuyển biến tích cực, đạt
được một số thành tựu đáng kể trong nhận thức và thực tiễn, góp phần quan trọng vào việc cải
thiện vai trò của phụ nữ tại nhiều nước trên thế giới. Bên cạnh Công ước CEDAW, Cương
lĩnh hành động Bắc Kinh ra đời năm 1995 đóng vai trò như một khuôn khổ định hướng cho
việc đảm bảo bình đẳng giới và tăng quyền năng cho phụ nữ ở cả trên các lĩnh vực công và tư,
với các cơ quan nhà nước và ngoài nhà nước. Có thể xem sự ra đời của Công ước CEDAW là
kết quả hơn 30 năm đấu tranh của Ủy ban về địa vị phụ nữ Liên hợp quốc (CSW). Ủy ban
được thành lập năm 1946 nhằm giám sát địa vị và nâng cao quyền lợi của phụ nữ. Hoạt động
của Ủy ban đã góp phần thúc đẩy bình đẳng giới ở những nơi mà phụ nữ chưa được bình
quyền như nam giới. Kết quả của những nỗ lực vì sự tiến bộ của phụ nữ là sự ra đời một số
tuyên bố và điều ước quốc tế, trong đó CEDAW là văn kiện quan trọng và toàn diện nhất về
quyền bình đẳng của phụ nữ.
Là sản phẩm của thời kỳ đổi mới, Hiến pháp năm 1992 đạt tới sự phát triển cao trong việc
hoàn thiện các quyền xã hội cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 1992, một mặt, tiếp tục ghi
nhận những quyền xã hội mà Hiến pháp năm 1980 quy định; mặt khác, sửa đổi, bổ sung nội
dung các quyền đó cho phù hợp với khả năng và điều kiện của đất nước. Từ đó cũng làm xuất
hiện một số quyền xã hội mới. Điều 63 quy định quyền bình đẳng nam, nữ và bổ sung:
"Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ". Việc
bổ sung này là cần thiết nhằm phòng ngừa và chống lại những hành vi phân biệt đối xử với
phụ nữ, đánh đập, hành hạ, mua bán phụ nữ, sử dụng phụ nữ như là một công cụ để làm giầu
phi pháp.
Bên cạnh Điều 130 tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, Bộ luật hình sự năm 1999
còn có các điều luật khác đề cập đến vấn đề giới như: Tội mua bán phụ nữ (Điều 119); Tội
phá thai trái phép (Điều 243). Quy định của Bộ luật hình sự đã chú trọng tới việc thực hiện
chính sách trong việc bảo vệ và hỗ trợ người mẹ; hoặc đã thể hiện tính nhân đạo, cân nhắc tới
các đặc điểm về giới tính dẫn đến hành vi phạm tội như trong điểm h, khoản 1 Điều 48; điểm
b khoản 1 Điều 93; điểm d, khoản 1 Điều 104; điểm a, điểm g khoản 2 Điều 110; điểm g
khoản 2 Điều 111; điểm b, khoản 2 112, điểm đ khoản 2 Điều 113Quy định của Bộ luật
hình sự đã chú ý tới đặc điểm sinh học của phụ nữ khi mang thai; thể hiện tính nhân đạo của
pháp luật như trong điểm h, khoản 1 Điều 48, Điều 35, Điều 94.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ TỘI XÂM PHẠM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ
VÀ THỰC TRẠNG XỬ LÝ LOẠI TỘI PHẠM NÀY
2.1. Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội xâm phạm quyền bình
đẳng của phụ nữ
2.1.1. Khái niệm tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
6
Quyền bình đẳng của phụ nữ là một khái niệm đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người
phụ nữ sống, học tập, làm việc, hưởng thụ trong khuôn khổ cai trị của nhà nước trong đó có
xem xét yếu tố về tâm sinh lý giới tính, thuần phong mỹ tục, văn hóa của dân tộc... Quyền
bình đẳng của phụ nữ là một khái niệm mới nói về quyền bình đẳng giữa người nam và người
nữ trong xã hội ngày nay.
Xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là hành vi "bằng hành động" về thực chất được
hiểu là sự ứng xử bằng vũ lực như đánh đập, ép buộc quan hệ tình dục, nhục mạ, xúc
phạmphụ nữ của người vi phạm và "không hành động" là sự ứng xử không bằng vũ lực
(hay còn gọi là hình thức bạo lực về tinh thần) được biểu hiện bằng hàng loạt các hành vi như
sự ruồng rẫy, lạnh lùng, vô cảm, không quan tâm, chia sẻ. Như vậy, có thể đưa ra khái
niệm: Xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là hành vi dùng vũ lực hoặc hành vi nghiêm
trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa, xã hội.
2.1.2. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
• Khách thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
Khách thể của tội phạm nói chung là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ
nhằm tránh bị các hành vi xâm hại đến. Do đó khách thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng
của phụ nữ quy định tại Điều 130 Bộ luật hình sự năm 1999 là quyền bình đẳng của phụ nữ
trong các lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa, xã hội mà pháp luật hình sự
bảo vệ. Tội phạm này xâm phạm đến quyền bình đẳng của phụ nữ.
Đối tượng tác động của tội phạm này là hành vi của người phụ nữ khi tham gia vào các
hoạt động trong các các lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học, văn hóa, xã hội.
• Mặt khách quan của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
Hậu quả của hành vi phạm tội này là những hậu quả về tinh thần hoặc vật chất. Hậu quả
của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, xét về phương diện các yếu tố cấu thành tội
phạm thì không phải dấu hiệu bắt buộc tức là, dù hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi vẫn cấu
thành tội phạm.
Mặt khách quan của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ được thực hiện dưới
nhiều thủ đoạn bạo lực khác nhau như: bạo lực về thể chất; bạo lực về tình dục và bạo lực về
tinh thần.
Đối với loại hình bạo lực về thể chất: là những hành vi đánh đập, chửi mắng của người
thực hiện hành vi phạm tội đối với phụ nữ, ví dụ như: hành vi của người chồng đối với vợ,
cha mẹ đối với con gái. Nạn nhân - những người phụ nữ là những người vợ, người mẹ trong
gia đình phải chịu bao uất ức, tủi hờn cả về thể xác lẫn tinh thần bởi đủ mọi lý do từ phía các
ông chồng của họ, song rất nhiều trường hợp người vợ thường im lặng, cam chịu.
Đáng lo ngại là bạo lực tinh thần không chỉ gây tổn thương cho người vợ hoặc chồng, mà còn
ảnh hưởng đến các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là trẻ em. Những tiểu xảo trong bạo
lực tinh thần có thể làm không khí gia đình trở lên căng thẳng hơn và sẽ khiến tâm lý trẻ
không ổn định, gây lệch lạc về nhận thức cũng như sự phát triển về thể chất.
• Chủ thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
Chủ thể của tội phạm xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là bất kỳ người nào có đủ
độ tuổi theo luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự. Trong thực tế thì chủ thể của tội
phạm này là người có quan hệ nhất định với người phụ nữ về mặt gia đình (như bố, mẹ, con,
chị anh) hoặc về mặt xã hội (như thủ trưởng với nhân viên dưới quyền). Vì đây là tội ít
7
nghiêm trọng nên chỉ có người từ đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự theo Điều
130 Bộ luật hình sự.
• Mặt chủ quan của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
Tội phạm thực hiện hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với lỗi cố ý (trực tiếp
hoặc gián tiếp). Người phạm tội luôn nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp xâm
phạm quyền bình đẳng của phụ nữ nào được thực hiện do vô ý, vì người phạm tội bao giờ
cũng mong muốn xâm phạm đến các quyền hợp pháp của người phụ nữ. Hơn ai hết, bản thân
người thực hiện tội phạm, ngay từ khi ý định phạm tội đã nhận thức được rõ ràng, cụ thể
những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà mình có thể gây nên đồng thời, ở cương vị của
mình, họ cũng hoàn toàn có đủ khả năng để hiểu rằng họ đang trực tiếp xâm phạm hoạt động
đúng đắn. Họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng họ vẫn thực hiện.
Mục đích và động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
2.1.3. Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với một số tội phạm khác
2.1.3.1. Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với tội hành hạ người khác
(Điều 110 Bộ luật hình sự)
Về mặt khách quan của hai tội đều có thể biểu hiện bằng hành vi bạo lực về thể chất
hoặc tinh thần.
Chủ thể của các tội này có ảnh hưởng hoặc quyền hành với người bị hại. Chủ thể xâm
phạm quyền bình đẳng của phụ nữ thông thường là người có quan hệ nhất định hoặc có quyền
hành nhất định đối với người phụ nữ. Chủ thể của tội hành hạ người khác là người mà người bị
hại lệ thuộc.
Hình thức lỗi trong cả hai tội đều là lỗi cố ý.
Bên cạnh những điểm giống nhau, giữa hai tội danh này còn tồn tại những điểm khác biệt.
Về mặt khách thể, nếu như tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ xâm phạm quyền tham
gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình một cách bình
đẳng với nam giới thì tội hành hạ người khác xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe, tự
do, danh dự của con người.
Về mặt khách quan, tội hành hạ người khác luôn biểu hiện bằng hành vi bạo lực thể xác
hoặc tinh thần. Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ ngoài việc thể hiện qua các hành
vi bạo lực còn có thể biểu hiện bằng các thủ đoạn khác như: không tuyển dụng phụ nữ, không
cho phụ nữ tham gia tổ chức hay hoạt động nào đó, tuyên truyền để cản trở phụ nữ thực hiện
quyền bình đẳng của mình v.v...
Về chủ thể của tội phạm, chủ thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ có thể
được thực hiện hiện bởi bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 16 tuổi trở
lên.
Chủ thể của tội hành hạ người khác là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 16
tuổi trở lên và có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân. Trong mối quan hệ đó nạn nhân là người bị
lệ thuộc
2.1.3.2. Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với tội làm nhục người khác
(Điều 121 Bộ luật hình sự)
8
Điểm giống nhau giữa tội làm nhục người khác và tội xâm phạm quyền bình đẳng của
phụ nữ được thể hiện như sau:
Tội làm nhục người khác và tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ đều là những tội
ít nghiêm trọng: tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ có mức cao nhất của khung hình
phạt đến 1 năm tù; tội làm nhục người khác có mức khung hình phạt cao nhất đến 3 năm tù
(nếu phạm tội một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự).
Chủ thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ và tội làm nhục người khác đều
có thể được thực hiện bởi bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 16 tuổi
trở lên.
Hình thức lỗi trong cả hai tội đều là lỗi cố ý.
Sự khác biệt giữa tội làm nhục người khác và tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
được thể hiện cụ thể:
Về mặt khách thể, tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ xâm phạm vào quyền bình
đẳng của phụ nữ đối với nam giới. Trong khi đó, tội phạm của tội làm nhục người khác lại
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người.
Về mặt khách quan của tội phạm, tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ thể hiện ở
hành vi cản trở không cho phụ nữ tham gia vào hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn
hóa, xã hội.
Hành vi khách quan để cản trở phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng của mình theo mô tả
trong điều luật là "dùng vũ lực hoặc hành vi nghiêm trọng khác".
2.1.3.3. Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với tội cưỡng ép kết hôn
hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều 146 Bộ luật hình sự)
Về mặt khách quan của hai tội đều có thể biểu hiện bằng hành vi bạo lực về thể chất hoặc
tinh thần.
Chủ thể của tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và tội xâm phạm
quyền bình đẳng của phụ nữ đều được thực hiện bởi bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ 16 tuổi trở lên. Tuy nhiên, để thực hiện được những hành vi cản trở phụ nữ tham gia
các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... đòi hỏi chủ thể của hành vi phải có những
quyền năng nhất định đối với những người phụ nữ cụ thể đó.
Hình thức lỗi trong cả hai tội đều là lỗi cố ý.
Sự khác nhau cơ bản giữa hai tội này được thể hiện ở mặt khách thể của tội phạm. Khách
thể của tội phạm quy định tại Điều 146 Bộ luật hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản
của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, đó là nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Trong
khi đó, khách thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ xâm phạm vào quyền bình
đẳng của phụ nữ đối với nam giới.
Mặt khách quan của tội cưỡng ép kết hôn đòi hỏi phải có hành vi cưỡng ép kết hôn.
Mặt khách quan của tội cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đòi hỏi phải có hành vi cản
trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Những hành vi nói trên phải được thực hiện bằng một trong những thủ đoạn như hành hạ,
ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc thủ đoạn khác.
9
2.1.3.4. Phân biệt tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ với tội ngược đãi hoặc hành
hạ ông bà, cha mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151 Bộ luật
hình sự)
Tội phạm được quy định tại Điều 151 Bộ luật hình sự trên và tội xâm phạm quyền bình
đẳng của phụ nữ đều là những tội ít nghiêm trọng: tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
có mức cao nhất của khung hình phạt đến một năm tù; tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình có mức khung hình phạt cao nhất
đến ba năm tù.
Mặt khách quan của hai tội đều có thể biểu hiện bằng hành vi bạo lực về thể chất và tinh
thần.
Chủ thể của các tội này đều được thực hiện bởi bất kỳ người nào có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ 16 tuổi trở lên và đều có ảnh hưởng hoặc quyền hành với người bị hại.
Chủ thể của tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ thông thường là người có quan hệ
nhất định hoặc có quyền hành nhất định đối với người phụ nữ. Chủ thể của tội ngược đãi hoặc
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng là những người thân
thích trong gia đình như cha mẹ đối với con cái, con cái đối với cha mẹ, ông bà đối với cháu,
cháu đối với ông bà, hoặc những người được người khác nuôi dưỡng, có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ 16 tuổi trở lên.
Hình thức lỗi trong cả hai tội đều là lỗi cố ý.
Về mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan của tội ngược đãi ông bà, cha mẹ,
vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình là hành vi ngược đãi.
2.2. Thực trạng xử lý các hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
Ở Việt Nam, rất ít con số thống kê về vấn đề bất bình đẳng giới. Tác giả đã nghiên cứu,
tìm hiểu về số vụ án đã được đưa ra truy tố, xét xử hình sự của những đơn vị có trách nhiệm
thống kê như thực tiễn tổng kết của Tòa án nhân dân tối, Vụ thống kê hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao thì thấy chưa có vụ án nào vi phạm Điều 130 Bộ luật hình sự 1999 được
đưa ra xét xử. Điều đó cho thấy, nội dung quy định trong Điều 130 Bộ luật hình sự chưa thực
sự mang tính khả thi, chưa đi vào thực tiễn thông qua kết quả thống kê chưa có vụ án nào
được xử lý hình sự theo quy định của Điều luật này. Một vấn đề được đặt ra cho các nhà lập
pháp là cần nghiên cứu, sửa đổi sao cho Điều 130 được áp dụng trong thực tiễn cuộc sống,
góp phần quan trọng trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Mặt khác, công tác
thống kê số liệu về những tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ chưa được các cơ quan,
tổ chức quan tâm đúng mức, kể cả đối với cơ quan thống kê. Điều này đã hạn chế việc phân
tích giới và lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào trong quá trình xây dựng chính sách, pháp
luật cũng như các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác.
Tại sao thực tiễn hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ đang ngày càng gia tăng
trong đời sống mà vẫn chưa có vụ án nào xét xử về hành vi này. Hình thức xử lý thông
thường chỉ là cảnh cáo, nhắc nhở và xử phạt vi phạm hành chính đơn thuần. Như vậy, có đủ
sức răn đe mạnh mẽ để tội phạm này ngày càng giảm và tiến tới loại bỏ ra khỏi đời sống xã
hội hay không?. Đó chính là câu hỏi lớn cần nhận được câu trả lời từ phía các cơ quan chức
năng.
Như vậy, có nghĩa là tội phạm xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ là một dạng tội
phạm ẩn. Thực tiễn đang diễn ra trong xã hội nhưng không hề có số liệu thống kê, thực tiễn
10
xét xử cụ thể. Một số vụ án được đưa ra xét xử khi phân tích có các dấu hiệu của tội xâm
phạm quyền bình đẳng của phụ nữ nhưng thường được xét xử với các tội danh khác như tội
hành hạ người khác (Điều 110 Bộ luật hình sự), tội làm nhục người khác (Điều 121 Bộ luật
hình sự), tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều 146 Bộ luật
hình sự), tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, người có công
nuôi dưỡng mình
Một số vụ án điển hình minh chứng cho hành vi dùng vũ lực xâm phạm thô bạo đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ được pháp luật hình sự bảo vệ được thể hiện
dưới các hình thức xâm phạm khác nhau như:
- Đối với loại hình bạo lực về thể chất.
- Đối với loại hình về bạo lực về tình dục.
- Đối với loại hình bạo lực tinh thần.
Ở Việt Nam, bạo lực vẫn đang diễn ra tại nhiều gia đình và chưa có chiều hướng suy
giảm; đặc biệt là khi bạo lực về thể chất bắt đầu được các nạn nhân lên tiếng, thì các hình thức
bạo lực về tinh thần và tình dục vẫn còn là những vấn đề nằm trong im lặng và khó nhận biết.
Trong bối cảnh hiện nay, bất bình đẳng giới vẫn được coi là nguyên nhân chính của bạo lực
gia đình. Tình trạng này là tương đối phổ biến không chỉ ở các vùng nông thôn hẻo lánh, mà
còn xảy ra ở cả các vùng thuộc đô thị lớn trong đó có thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh. Không giống như các tệ nạn xã hội khác, bạo lực gia đình rất khó thống kê được một
con số đầy đủ bởi trong xã hội vẫn còn rất nhiều người mơ hồ về khái niệm bạo lực trong gia
đình.
- Trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.
- Trong lĩnh vực kinh tế - chính trị.
- Trong lĩnh vực xã hội.
- Trong lĩnh vực lao động.
Chương 3
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
TỘI XÂM PHẠM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CỦA PHỤ NỮ
3.1. Hoàn thiện pháp luật
Theo tác giả, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 130 Bộ luật hình sự cho thống nhất
với Luật bình đẳng giới năm 2006, tránh tình trạng không thống nhất giữa các văn bản pháp
luật của nhà nước vì quy định này chưa thể chế hóa nội dung của Luật bình đẳng giới. Hơn
nữa, theo các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới thì việc quy định riêng cho phụ nữ như
điều luật này là không cần thiết. Vì vậy, quy định này nên được sửa đổi theo hướng sửa đổi
tội danh tại Điều 130 thành tội "xâm phạm quyền bình đẳng giới". Theo đó, nội dung của
quy định về tội này có thể được xây dựng như sau: "Người nào vì định kiến giới, dùng vũ
lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở người khác tham gia hoạt động chính trị,
11
kinh tế, khoa học, văn hóa, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm".
Mặt khác, Bộ luật hình sự 1999 cần có một chương riêng hoặc một số điều luật cụ thể quy
định rõ những hành vi bạo lực gia đình phải bị xử lý bằng hình sự, các dấu hiệu cơ bản của
các tội về bạo lực gia đình cũng cần cụ thể, không nhất thiết phải có những dấu hiệu như "đã
bị xử lý hành chính".
Để có cơ sở thực tiễn trong việc soạn thảo, xây dựng luật, Ban soạn thảo dự án Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, cần tổ chức nghiên cứu, rà soát và lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong quá trình soạn thảo dự án luật; Lập báo cáo về việc lồng ghép vấn
đề bình đẳng giới trong quá trình soạn thảo dự án luật. Đối với Ủy ban thẩm tra dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự cần bổ sung nội dung đánh giá về việc lồng
ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình soạn thảo dự án luật vào báo cáo thẩm tra hoặc lập
báo cáo thẩm tra bổ sung đánh giá về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình
soạn thảo các dự án luật có liên quan như: Luật hôn nhân gia đình, luật chống bạo hành, bạo
lực, quyền về đất đai, Luật lao động, quyền chính trị. Việc này sẽ tạo môi trường cho sự bình
đẳng về cơ hội và quyền lực, hai yếu tố thiết yếu để đạt được bình đẳng giới trên các phương
diện khác như giáo dục, y tế và tham gia chính trị.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội xâm phạm
quyền bình đẳng của phụ nữ
3.2.1. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong đấu tranh
phòng, chống vi phạm và tội phạm có liên quan đến vấn đề bình đẳng giới
Bên cạnh việc phối hợp với các cơ quan chức năng, các cơ quan Trung ương cần phối hợp
tiến hành các biện pháp chính trị - xã hội cần thiết nhằm đảm bảo cho Luật bình đẳng thực sự
đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả cao. Cần tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào toàn bộ quá
trình phát triển xã hội từ bước hoạch định mục tiêu, chính sách đến bước thực hiện, đánh giá
và điều chỉnh để đảm bảo thực hiện được mục tiêu bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Tiếp tục tiến hành lồng ghép giới, đánh giá tác động giới trong các chính sách, chương trình,
đề án về an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề nhằm đảm bảo bình đẳng giới
trong quá trình tổ chức thực hiện. Phát triển và nhân rộng các mô hình như "Mô hình lồng
ghép phòng, chống bạo hành giới dựa vào cơ sở y tế và cộng đồng"; "Câu lạc bộ phòng,
chống bạo lực gia đình" để có thể tư vấn, can thiệp và hỗ trợ có hiệu quả nhất đối với người
bị bạo hành ở Việt Nam hiện nay.
Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm học tập, chia sẻ kinh nghiệm triển khai
thực hiện Luật Bình đẳng giới và vận động nguồn lực hỗ trợ thực hiện các chính sách, pháp
luật về bình đẳng giới. chính trị hiện đại ở Việt Nam được xây dựng theo phương châm "Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" nhằm mục tiêu "độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội" và "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) trong việc xử lý các tội phạm liên quan đến vấn đề bình đẳng
giới. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là sự phối hợp trong
12
công đấu tranh phòng, chống và xử lý tội phạm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thực
tiễn hoạt động này trong thời gian qua cho thấy vẫn chưa có sự nhận thức đầy đủ về công tác
này nên có lúc, có nơi sự phối hợp trên không được quan tâm. Tuy nhiên, để nâng cao hơn
nữa hiệu quả của công tác xử lý các tội phạm liên quan đến vấn đề bình đẳng giới các cơ quan
tiến hành tố tụng cần tăng cường cơ chế phối hợp để từ đó đẩy mạnh hoạt động phối hợp
nhằm hình thành một sức mạnh tổng hợp trong công tác điều tra, phát hiện, xử lý và ngăn
ngừa loại tội phạm này. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm phối hợp với nhau và phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan
trong việc phát hiện, xử lý tội phạm liên quan đến vấn đề bình đẳng giới.
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Các hình thức tuyên truyền về bình đẳng giới không chỉ được thực hiện trên các phương
tiện thông tin đại chúng như: truyền thanh, truyền hình, sách, báo, tạp chí, tờ rơi, băng nhạc,
tranh cổ động, Internet mà còn được thực hiện thông qua kênh truyền thông trực tiếp như:
nói chuyện, hội t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050001035_3087_2009392.pdf