Tóm tắt Luận án Ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt)

Ý niệm (concept) được tường giải trong cuốn “Từ điển tâm lý học Oxford” như sau: “Ý niệm là một

biểu hiện tinh thần, một ý tưởng, hay một tư tưởng tương ứng với một thực thể riêng biệt hay một lớp các

thực thể, hoặc đó là việc định nghĩa hay là những thuộc tính điển dạng của thực thể hay lớp các thực thể đó,vốn có thể là cụ thể hay trừu tượng”. Tác giả cuốn từ điển này cũng giải thích “ý niệm hóa” là một quá trìnhmà trong đó có một ý niệm được thụ đắc hay được học hỏi, thường là nhờ vào các thí dụ của thực thể thuộcvề phạm trù và của các thực thể không thuộc về phạm trù đó. Nói chung, nó bao gồm sự học hỏi để phân biệtvà nhận biết những thuộc tính cần chủ yếu mà theo đó các thực thể được phân loại cũng như các qui tắc chếước sự kết hợp các thuộc tính cần yếu vẫn có thể tách biệt nhau

pdf26 trang | Chia sẻ: phuongchi2019 | Lượt xem: 684 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khái lược về ngôn ngữ học tri nhận 5 Hiện nay, “tri nhận” là một từ đƣợc sử dụng với tần suất khá nhiều trong các nghiên cứu ngôn ngữ. “Tri nhận” trong ngôn ngữ học, theo Triệu Diễm Phƣơng [52], chỉ giới hạn ở những tri nhận có liên quan đến việc học và vận dụng ngôn ngữ của con ngƣời chứ không phải là sự tri nhận hiểu theo nghĩa truyền thống là việc nắm vững các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ. NNHTN nghiên cứu sự ảnh hƣởng của các cách thức tri giác về thế giới, kinh nghiệm của con ngƣời lên việc sử dụng ngôn ngữ của họ, đặc biệt là trong điều kiện cùng phù hợp với các qui phạm ngôn ngữ thì việc làm thể nào để lựa chọn các từ, các câu khác nhau để biểu đạt các ý nghĩa khách quan lại là điều nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của NNHTN. Tóm lại, NNHTN coi ngôn ngữ là một hoạt động tri nhận với xuất phát điểm là tri nhận để từ đó nghiên cứu hình thức, ý nghĩa của ngôn ngữ cũng nhƣ qui luật của nó. 1.2.2. Lý thuyết phạm trù và phạm trù tỏa tia 1.2.2.1. Phạm trù và phạm trù hóa Trong ngôn ngữ học tri nhận, phạm trù là một trong những hình thái nhận thức của tƣ duy con ngƣời, cho phép khái quát hóa kinh nghiệm để phân loại các sự vật hiện tƣợng trong thế giới khách quan. Điều này có nghĩa là một phạm trù phải đƣợc dựa trên nhƣng gì mà con ngƣời tri giác và trải nghiệm về sự vật hiện tƣợng đó chứ không phải chính bản thân nó. Sơ đồ sau đây chỉ ra khái niệm về quá trình phạm trù hóa theo quan điểm kinh nghiệm luận (experientialism). Sơ đồ số 1: Quá trình phạm trù hóa theo quan điểm kinh nghiệm luận Sơ đồ trên cho thấy, phạm trù (categories) không trực tiếp kết nối với thế giới thực (real world) mà trải nghiệm thế giới thông qua những trải nghiệm cơ thể nhờ năng lực cảm tri của con ngƣời. Chính kinh nghiệm nghiệm thân của con ngƣời giúp hình thành lƣợc đồ hình ảnh bên trong một hệ thống ý niệm. 1.2.2.2. Phạm trù tỏa tia Khái niệm lan tỏa hay tỏa tia (radiality) là một khái niệm trọng tâm của ngôn ngữ học tri nhận đƣợc David Lee (2001) và Evan & Green (2006) đề cập tới trong [90] và [110]. Theo đó, hình thức thể hiện của phạm trù lan tỏa là các lƣới xuyên tâm (radial network). Các lƣới xuyên tâm này đƣợc cấu thành từ một thành viên trung tâm mang nghĩa trung tâm, gọi là điển mẫu (prototype), xung quanh là các thành viên phụ (phạm trù bậc dƣới) với nghĩa chuyển . Phạm trù tỏa tia đƣợc Evan & Green (2006) mô hình hóa duới dạng lƣới nhƣ trong sơ đồ số 2 dƣới đây. Ý niệm tri nhận Năng lực cảm tri Thực thể trong thế giới thực TƢ DUY CƠ THỂ THẾ GIỚI Lƣợc đồ hình ảnh Trải nghiệm thân thể 6 Trong sơ đồ lan tỏa này, mỗi nghĩa đặc trƣng đều đƣợc minh họa bằng một điểm mốc thể hiện bởi một chấm tròn. Các mũi tên có vai trò liên kết các điểm mốc thể hiện mối liên hệ gần hay xa giữa các nghĩa thành viên. Sơ đồ số 2: Sơ đồ mô hình hóa phạm trù tỏa tia 1.2.3. Ý niệm và ý niệm hóa Ý niệm (concept) đƣợc tƣờng giải trong cuốn “Từ điển tâm lý học Oxford” nhƣ sau: “Ý niệm là một biểu hiện tinh thần, một ý tưởng, hay một tư tưởng tương ứng với một thực thể riêng biệt hay một lớp các thực thể, hoặc đó là việc định nghĩa hay là những thuộc tính điển dạng của thực thể hay lớp các thực thể đó, vốn có thể là cụ thể hay trừu tượng”. Tác giả cuốn từ điển này cũng giải thích “ý niệm hóa” là một quá trình mà trong đó có một ý niệm đƣợc thụ đắc hay đƣợc học hỏi, thƣờng là nhờ vào các thí dụ của thực thể thuộc về phạm trù và của các thực thể không thuộc về phạm trù đó. Nói chung, nó bao gồm sự học hỏi để phân biệt và nhận biết những thuộc tính cần chủ yếu mà theo đó các thực thể đƣợc phân loại cũng nhƣ các qui tắc chế ƣớc sự kết hợp các thuộc tính cần yếu vẫn có thể tách biệt nhau. 1.2.4. Lược đồ và điển dạng Langacker (1993) chỉ ra rằng cả lƣợc đồ và điển dạng đều là những yếu tố “vốn có” của cấu trúc phạm trù. Chúng là những biểu hiện khác nhau của cùng một hiện tƣợng nhất quán và mạch lạc. Mặt khác ông cũng chỉ ra ràng sự mở rộng của phạm trù sẽ xuất hiện khi ta tiến hành phạm trù hóa một trải nghiệm mới mà trải nghiệm này lại hơi khác biệt so với những trải nghiệm trƣớc đó cùng một phạm trù. Quan điểm này đƣợc minh họa qua sơ đồ sau: Sơ đồ số 3: Sơ đồ minh họa sự liên quan tương hỗ giữa điển dạng – hình ảnh – sự mở rộng nghĩa (theo Langacker, 1993, tr.2) 1.2.5. Tính nghiệm thân Nghiên cứu của khoa học tri nhận cho rằng các ý niệm của con ngƣời không chỉ là các phản ánh của thực tại bên ngoài mà cơ bản hình thành từ thân thể và não bộ của chúng ta. Lakoff (1987) đã kế thừa những SCHEMA (sơ đồ) PROTOTYPE (điển dạng) EXTENSION(sự mở rộng) 7 thành quả đó hình thành nên khái niệm trải nghiệm luận và năm 1999 cho ra đời cuốn Philosophy in the Flesh (triết lí về thân thể) [108]. Lakoff chỉ ra sự nghiệm thân bao gồm những trải nghiệm thực tế hoặc tiềm tàng của cá thể hay cộng đồng ngƣời, sự tƣơng tác của cá thể với môi trƣờng vật lí và xã hội, bao gồm sự cảm tri môi trƣờng, di chuyển cơ thể, phát ra lực và cảm thụ lực. Ở nhiều nền văn hóa, rất nhiều trải nghiệm cơ bản của con ngƣời đƣợc tạo ra từ tập tục văn hóa bản địa, do đó, có thể xem tính nghiệm thân của tâm trí đƣợc sản sinh từ mối tƣơng tác giữa con ngƣời với thế giới khách quan và bị giới hạn trong bối cảnh văn hóa cộng đồng. Vì vậy, khi xem xét kinh nghiệm trải nghiệm của con ngƣời là phải xem xét cả kinh nghiệm của cá thể và kinh nghiệm cộng đồng của ngƣời nói cùng ngôn ngữ. 1.2.6. Thuyết ẩn dụ ý niệm 1.2.6.1. Sự ra đời của lí thuyết ẩn dụ ý niệm Khái niệm ẩn dụ ý niệm (hay còn gọi là ẩn dụ tri nhận) đƣợc nhà ngôn ngữ học ngƣời Mỹ G. Lakoff và nhà triết học ngƣời Anh M. Johnson đƣa ra năm 1980 khi hai ông cho ra đời cuốn sách Metaphor we live by [105]. Quan điểm của hai ông cho rằng: ẩn dụ không chỉ là hình thức ngôn ngữ mà quan trọng hơn đó là hình thức tri nhận phổ biến của nhân loại, là quá trình mà con ngƣời dựa vào một sự vật, một hiện tƣợng nào đó để nhận thức, hiểu biết, suy nghĩ và diễn đạt một sự vật hay một hiện tƣợng khác. 1.2.6.2. Khái niệm về ẩn dụ ý niệm Ẩn dụ ý niệm (hay còn gọi là ẩn dụ tri nhận – cognitive metaphor) “là một trong những hình thức ý niệm hóa, một quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và không có nó thì không thể nhận được tri thức mới. Về nguồn gốc, ẩn dụ tri nhận đáp ứng năng lực của con người nắm bắt và tạo ra sự giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau” (Trần Văn Cơ [7], tr. 293). 1.2.7. Khái niệm miền, miền nguồn và miền đích 1.2.7.1. Khái niệm miền (domain) Theo Langacker (1987), “miền là những thực thể tri nhận như trải nghiệm tinh thần, không gian trình hiện, ý niệm, hoặc phức hợp ý niệm”. Nói cách khác, miền là những thực thể ý niệm của những phức hợp và tổ chức ở những mức độ đa dạng khác nhau. Điều kiện tiên quyết để một cấu trúc tri thức đƣợc coi là một miền là cấu trúc tri thức đó phải có những thông tin nền cho một nhóm từ vựng. Ví dụ; những biểu thức nhƣ : hot (nóng), cold (lạnh), lukewarm (âm ấm), warm (ấm áp), cool (mát) là những đơn vị từ vựng thuộc miền TEMPERATURE (nhiệt độ). Nhƣng, nếu không có những phông kiến thức về TEMPERATURE và những khái niệm liên quan, thì chúng ta sẽ không thể sử dụng đƣợc những thuật ngữ này. 1.2.7.2. Miền nguồn (source domain ) và miền đích (target domain) Trong cuốn Metaphor – a practical introduction [104], Kovesces đã có một khảo sát về những miền nguồn và miền đích chủ yếu trong ẩn dụ ý niệm. Theo đó, có 13 miền nguồn và 13 miền đích phổ biến. Những miền nguồn này bao gồm các phẩm chất của sự vật nhƣ hình dạng, mầu sắc, kích cỡ, độ cứng, độ sắc, trọng lƣợng v.v..Các miền đích có thể phân thành 3 nhóm chính là (1) tâm lý, trạng thái tinh thần, sự kiện (cảm xúc, tham vọng, đạo đức, tƣ duy); (2) nhóm xã hội, quá trình xử lí (xã hội, chính trị, kinh tế, mối quan hệ con ngƣời, giao tiếp); (3) trải nghiệm cá nhân (thời gian, cuộc đời, cái chết, tôn giáo). 1.3. Hành động ăn uống nhìn từ góc độ tác thể (agent-oriented) và bị thể (patient-oriented) theo quan điểm của John Newman John Newman (1997) đã có một nghiên cứu khá sâu về vấn đề ăn uống trong tiếng Anh dƣới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, chủ yếu dựa trên quan điểm của Lakoff và Johnson (1980). Nghiên cứu đã đƣa ra những ví dụ cụ thể đƣợc trích dẫn từ các tác phẩm văn học cổ điển đƣợc viết bằng tiếng Anh – Anh và tiếng 8 Anh – Mỹ. Theo đó tác giả chứng minh đƣợc rằng ý niệm ăn uống trong tiếng Anh (miền nguồn) đƣợc phóng chiếu lên những miền ý niệm khác (miền đích). Tác giả nghiên cứu sự lan tỏa nghĩa của ý niệm ăn uống nhìn từ hai góc độ: từ góc độ tác thể (agent-oriented) và từ góc độ bị thể (patient-oriented). Nhìn từ góc độ tác thể, ý niệm ăn uống đƣợc phóng chiếu đến sáu miền ý niệm khác nhau là miền hô hấp (respiratory domain), miền cảm xúc (emotional domain), miền tri thức (intellectual domain), miền trải nghiệm cuộc sống (domain of life’s experiences) và miền sở hữu (possession domain). Sự mở rộng nghĩa của ý niệm ăn uống theo hƣớng này nhấn mạnh vào tính “nội tại hóa” (internalization), nhất quán với vai trò của đối tƣợng tạo ra hành động ăn uống ở miền nguồn. Nhìn từ góc độ bị thể, ý niệm ăn uống đƣợc mở rộng nghĩa với sự phóng chiếu lên ba miền ý niệm khác là miền địa chất (geological domain), miền cảm xúc (emotional domain), và miền tâm lí (psychological domain). Theo hƣớng này, phạm trù ăn uống lại miêu tả sự phá hủy (destruction) nhất quán với những ảnh hƣởng của đồ ăn/đồ uống đƣợc nói đến trong miền nguồn. Nhƣ vậy, miền ăn uống có thể tạo ra những hình ảnh trên hai phƣơng diện khá khác biệt, phụ thuộc vào đối tƣợng nào đƣợc nhấn mạnh (tác thể hay bị thể) trong quá trình diễn ra hiện tƣợng ăn uống. Tác giả khẳng định rằng miền ăn uống là một mảnh đất khá “mầu mỡ” cho những nghiên cứu sâu hơn. Sự mở rộng nghĩa của những từ chỉ ý niệm ăn/uống dựa trên các nền tảng khác nhau là: a) Dựa trên tính nội tại hóa, ăn/uống có thể mở rộng nghĩa tới các miền khác nhƣ: sự cảm nhận của tác thể, sự hít thở không khí, sự thỏa mãn về mặt cảm xúc hoặc tri thức. b) Dựa trên sự tiêu biến của thức ăn/thức uống, ăn/uống có thể mở rộng nghĩa sang sự phá hủy về mặt thể chất, sự dằn vặt/giằng xé về tâm lý. Luận điểm của John Newman đƣợc chúng tôi áp dụng nhƣ kim chỉ nam cho những nội dung nghiên cứu chính của luận án, đƣợc trình bày trong các chƣơng tiếp theo. *Tiểu kết chƣơng 1 Chƣơng 1 đã tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến vấn đề ăn uống trong và ngoài nƣớc từ bình diện ngôn ngữ. Vì ăn uống liên quan mật thiết đến văn hóa từng dân tộc nên việc dùng ngôn ngữ liên quan đến phạm trù ăn uống lại càng phong phú, đa dạng, đặc thù riêng có theo vùng, miền, quốc gia. Tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề ăn uống còn khá mỏng, mang tính nhỏ lẻ. Đặc biệt là chƣa có nghiên cứu nào tiếp cận nghiên cứu phạm trù này thực sự chuyên sâu đối chiếu hai ngôn ngữ Anh – Việt theo góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận. Ngoài ra, quan điểm của các nhà khoa học tiên phong của ngành ngôn ngữ học tri nhận nhƣ G. Lakoff & M. Johnson, R. Langacker, L. Talmy, Z. Kovesces, David Lee đã đƣợc chúng tôi nghiên cứu, phân tích, so sánh để tìm ra những quan điểm phổ quát nhất của ngành ngôn ngữ học tri nhận, từ đó xây dựng nên đƣờng hƣớng nghiên cứu, cho các chƣơng triển khai phía sau. Đặc biệt, quan điểm nhìn nhận hành động ăn uống từ hai góc độ: tác thể và bị thể của John Newman và nhữnng phân tích nhận định từ khoa học sinh lí đã đƣợc trinh bày cụ thể. Đây là luận điểm mấu chốt, đƣợc chúng tôi áp dụng xuyên suốt trong các chƣơng sau của luận án. CHƢƠNG 2. CƠ CHẾ CHUYỂN DI CỦA Ý NIỆM ĂN UỐNG TRONG TIẾNG ANH (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT) 2.1. Cơ chế sinh học của ăn và uống Có thể tổng kết các quá trình bậc dƣới tạo nên hành động ăn uống hoàn chỉnh trong sơ đồ sau: 9 Sơ đồ số 4: Các quá trình tạo nên hành động ăn uống hoàn chỉnh Sơ đồ số 5: Các quá trình tạo nên hành động ăn uống hoàn chỉnh 2.2. Nghĩa của từ eat (ăn) và từ drink (uống) trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) 2.2.1. Nghĩa của từ eat trong tiếng Anh và ăn trong tiếng Việt Trong tiếng Anh, từ eat đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “to put food in your mouth, chew it and swallow it” (Oxford advanced learner’s dictionary) nghĩa là “đưa thức ăn vào miệng, nhai và nuốt”. Kết hợp với khảo sát ngữ liệu trong tiếng Anh (lấy từ kho ngữ liệu tiếng Anh-Anh và kho ngữ liệu tiếng Anh – Mỹ trên trang và chúng tôi đã rút ra đƣợc 13 nghĩa của từ eat trong tiếng Anh. Căn cứ trên từ điển tiếng Việt [48] và căn cứ trên ngữ liệu thu thập đƣợc, chúng tôi phân loại lại nghĩa của từ ăn trong tiếng Việt gồm 24 nghĩa. Cảm giác (phản xạ của cơ thể) + Tích cực: ngon miệng, thỏa mãn + Tiêu cực: không ngon miệng, ngấy, ngán, Phản xạ sinh học: cảm giác đói/khát Tiếp thụ đồ ăn/thức uống (chất rắn/lỏng): qua miệng Cách thức tiếp thụ: nhai, nhá, nghiền, nhào trộn, cắn, xé, gặm, nhấm trong khoang miệng Chuyển đổi trạng thái đồ ăn/thức uống: tiêu hóa Tác động: + Tích cực (nuôi dƣỡng cơ thể) + Tiêu cực (bào mòn cơ thể, gây ngộ độc, suy kiệt) Chuyển đổi vị trí đồ ăn/thức uống: nuốt 10 Bảng so sánh nghĩa của từ eat trong tiếng Anh trong sự đối chiếu với từ ăn trong tiếng Việt nhƣ sau: STT Nghĩa của từ “ăn” Nghĩa bậc dƣới (nếu có) Trong TA Trong TV 1 Nạp năng lƣợng Đưa thức ăn vào miệng, nhai nghiền và nuốt nuôi dưỡng cơ thể + + 2 Ăn một bữa ăn (ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, ăn đêm...) + + 3 Tham dự một bữa cỗ/ tiệc trong một dịp cụ thể (ăn cưới, ăn giỗ, ăn tết, ăn hỏi..) + + 4 Một hình thức ăn cụ thể (ăn chay, ăn kiêng, ăn dặm, ăn vặt..) - + 5 Nhai trầu, hút thuốc - + 6 Tiếp nhận Thụ hưởng - + 7 Tiêu thụ (hàng hóa, nhiên liệu) + + 8 Thu nạp (để hưởng) - + 9 Phải nhận lấy, chịu lấy (ý tiêu cực) - + 10 Giành đoạt, lấn át đối tượng khác + + 11 Hấp thu/ngấm/hút vào - + 12 Hòa hợp Gắn chặt, dính vào - + 13 Phù hợp, hài hòa - + 14 Lan ra Phá hủy/tiêu hao đối tượng khác + + 15 Mở rộng phạm vi - + 16 Là thành phần hoặc thuộc về đối tượng khác - + 17 Chiếm chỗ/ chiếm không gian/ dung lượng + - 18 Tƣơng ứng/ ngang giá - + 19 Quan hệ tình dục + + 20 Giành đoạt bằng hình thức xấu - + 21 Làm việc gì đó nhanh, trong thời gian ngắn mang tính thực dụng -`` + 22 Kiếm sống - + 23 Trục lợi từ đối tƣợng khác - + 24 Thực hiện các hoạt động - + 25 Gây chết ngƣời - + 26 Hoạt động tâm lí Buồn rầu/ lo lắng/ dày vò + - 27 Hoan nghênh, ca ngợi, yêu thích + - 11 28 Tiếp thu lĩnh hội tri thức + - 29 Rút lại lời nói + - 30 Nhận lỗi, chịu nhịn nhục + - Bảng 1: So sánh nghĩa của từ “eat” trong tiếng Anh và từ “ăn” trong tiếng Việt Ghi chú: dấu “+”: có xuất hiện nghĩa, dấu “-” : không xuất hiện nghĩa Qua bảng so sánh trên ta có thể thấy đƣợc từ eat trong tiếng Anh có 13 nghĩa và từ ăn trong tiếng Việt có 24 nghĩa. Trong đó hai ngôn ngữ có chung 11 nghĩa, còn lại 22 nghĩa khác nhau. Rõ rằng từ ăn trong tiếng Viết đa nghĩa hơn từ eat trong tiếng Anh. Đặc biệt khả năng kết hợp của từ ăn trong tiếng Việt với các từ loại khác khá đa dạng, phong phú, tạo nên khả năng chuyển nghĩa mạnh mẽ. (ăn có thể kết hợp nhiều từ loại khác nhau nhƣ với tính từ, động từ, danh từ). Từ eat trong tiếng Anh thƣờng đƣợc kết hợp với các giới từ nhƣ at, up, away tạo nên những cụm từ với nghĩa khác nghĩa gốc. Từ bảng phân tích nghĩa chuyển của từ eat trong tiếng Anh và từ ăn trong tiếng Việt nói trên, đồng thời áp dụng lí thuyết về mô hình tỏa tia của David Lee và Evan & Green (đã nói trong phần 1.2.2), chúng tôi có đƣợc mô hình tỏa tia của từ eat trong tiếng Anh và từ ăn trong tiếng Việt nhƣ sau: 12 Sơ đồ số 5: mô hình tỏa tia của từ „eat” trong tiếng Anh 1. NẠP NĂNG LƢỢNG 2. TIẾP NHẬN 9. NHẪN LỖI CHỊU NHỤC 1A. Đƣa thức ăn vào miệng nhai, nuốt 3A. Phá hủy/ăn mòn 3B.Chiếm không gian, dung lƣợng 4. QUAN HỆ TÌNH DỤC 8. RÖT LẠI LỜI NÓI 7.LĨNH HỘI TRI THỨC 6. HOAN NGHÊNH/YÊU THÍCH 5. H/Đ TÂM LÍ 2B. Lấn át /giành đoạt 2A. Tiêu thụ 3. LAN RA 1C.Tham gia một bữa cỗ/tiệc 1B. Ăn một bữa ăn cụ thể 6A. Lo lắng/dày vò EAT (ăn) 13 Sơ đồ số 6: mô hình tỏa tia của từ “ăn” trong tiếng Việt ĂN 1. NẠP NĂNG LƢỢNG 1D. Một hình thức ăn cụ thể 2A. Một hình thức ăn cụ thể 1C. Ăn một bữa cỗ, tiệc 1B. Ăn một bữa ăn cụ thể 1A. Đƣa thức ăn vào miệng 2. NHAI TRẦU, HÖT THUỐC 3. TIẾP NHẬN 3A.Thụ hƣởng 3B.Tiêu thụ 3C. Thu nạp 3D. Hấp thu/ngấm 3E. Giành đoạt 3F. Phải chịu 4. HÕA HỢP 4A. Gắn chặt/dính vào 4B.Hài hòa, phù hợp 5. LAN RA 6. TƢƠNG ÖNG/ NGANG GIÁ 7. QUAN HỆ TÌNH DỤC 5A. Phá hủy/tiêu hao 5B. Mở rộng phạm vi 5C. Thuộc về đối tƣợng khác 8. LÀM TRONG THỜI GIAN NGĂN 9. KIẾM SỐNG 10. TRỤC LỢI 11. THỰC HIỆN HÀNH ĐỘNG 12. GÂY CHÉT NGƢỜI 14 2.2.2. Nghĩa của từ drink trong tiếng Anh và uống trong tiếng Việt Trong tiếng Anh, từ drink đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “to take liquid into your mouth and swallow it” (Oxford advanced learner’s dictionary) nghĩa là “đưa chất lỏng vào miệng và nuốt”. Qua khảo sát trên cứ liệu từ điển Oxford [141] và căn cứ trên ngữ liệu thu thập đƣợc, chúng tôi thấy rằng, ngoài nghĩa gốc là “đưa chất lỏng vào miệng và nuốt”, từ drink trong tiếng Anh còn có một số nghĩa chuyển, xa dần nghĩa gốc. Với tiếng Việt, chúng tôi đã tiến hành khảo sát từ điển (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên) và nguồn ngữ liệu từ báo chí và một số tác phẩm văn học. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau: từ uống trong tiếng Việt có 8 nghĩa. Các nghĩa của từ drink trong tiếng Anh và từ uống trong tiếng Việt đƣợc tổng hợp trong bảng so sánh sau đây: STT Nghĩa của từ uống Trong TA Trong TV 1) Đƣa chất lỏng vào miệng, nuốt + + 2) Uống chất có cồn + + 3) Tiêu tốn tiền (vì uống rƣợu) + - 4) Tiếp thụ không khí + + 5) Thấm, hút + - 6) Chúc mừng + + 7) Chú ý lắng nghe, thƣởng thức + + 8) Đƣa đến trạng thái nào đó + - 9) Tiêu thụ nhiên liệu - + 10) Quan hệ tình dục - + 11) Trải nghiệm cuộc sống - + Bảng 2: So sánh nghĩa của từ “drink” trong tiếng Anh và từ “uống” trong tiếng Việt Qua bảng so sánh trên ta thấy rằng, về mặt số lƣợng nghĩa của từ drink trong tiếng Anh và từ uống trong tiếng Việt ngang nhau (8 nghĩa trong tiếng Anh, 8 nghĩa trong tiếng Việt). Ngoài các nghĩa riêng, hai ngôn ngữ có chung 5 lớp nghĩa là: đưa chất lỏng vào miệng và nuốt, uống chất có cồn, tiếp thụ không khí, chúc mừng, chú ý lắng nghe và thưởng thức. Từ bảng so sánh nghĩa của từ drink trong tiếng Anh và từ uống trong tiếng Việt, áp dụng lí thuyết về mô hình tỏa tia của David Lee và Evan & Green (đã nói trong phần 1.2.2), chúng tôi có đƣợc mô hình tỏa tia của từ drink trong tiếng Anh và từ uống trong tiếng Việt nhƣ sau: 15 Sơ đồ số 7: mô hình tỏa tia của từ „drink” trong tiếng Anh Sơ đồ số 8: mô hình tỏa tia của từ „uống” trong tiếng Việt UỐNG 1. Đƣa chất lỏng vào miệng 8. Trải nghiệm cuộc sống 7. Quan hệ tình dục 6. Tiêu thụ nhiên liệu 5. Chú ý lắng nghe, thƣởng thức 2. Uống chất có cồn 3. Tiếp thụ không khí 4. Chúc mừng DRINK 1. Đƣa chất lỏng vào miệng 2. Uống chất có cồn 8. Đƣa đến một trạng thái khác 7. Chú ý lắng nghe, thƣởng thức 6. Chúc mừng 3. Tiêu tốn tiền 4. Tiếp thụ không khí 5.Thấm, hút 16 Trong 4 mô hình tỏa tia trên, ý niệm ăn trong tiếng Việt có khả năng lan tỏa, vận động mạnh mẽ nhất với 04 chùm nghĩa phái sinh từ nghĩa gốc, tổng số thành tố nghĩa là 24. Ý niệm ăn trong tiếng Anh, đại diện là eat có 04 chùm nghĩa phái sinh từ nghĩa gốc, tổng số thành tố nghĩa là 13. Ý niệm uống trong tiếng Anh, đại diện là drink có 8 thành tố nghĩa, ý niệm uống trong tiếng Việt cũng có số lƣợng thành tố nghĩa tƣơng đƣơng là 8. 2.3. Nền tảng tri nhận tạo nên cơ chế chuyển di ý niệm của ăn và uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) Vận dụng quan điểm của Newman (1997) về cơ chế chuyển nghĩa của ý niệm ăn uống đƣợc nêu ra trong cuốn “The linguistics of eating and drinking”, chúng tôi khái quát 03 hƣớng chuyển di ý niệm của miền ăn uống sang các miền ý niệm khác gồm: (i) Chuyển di ý niệm dựa trên sự hoàn thành của hoạt động ăn uống; (ii) Chuyển di ý niệm dựa trên sự nội tại hóa (nhìn từ góc độ tác thể); (iii) Chuyển di ý niệm dựa trên sự tiêu biến của đồ ăn/thức uống (nhìn từ góc độ bị thể). 2.3.1. Chuyển di ý niệm dựa trên sự hoàn thành của hoạt động ăn uống Nhƣ đã nói ở trên, hoạt động ăn uống có những nét giống nhau, tuy nhiên không giống nhau một cách hoàn toàn. Khi nói đến ăn là chúng ta liên tƣởng tới sự thay đổi về trạng thái của đồ ăn, từ dạng vật chất thô trải qua quá trình nhai, nghiền chuyển sang dạng vật chất tinh hơn, cuối cùng chuyển hóa thành chất dinh dƣỡng đi nuôi cơ thể. Nhƣ vậy, hoạt động ăn nói chung và các động từ chỉ sự ăn nói riêng hàm chỉ một quá trình “hoàn chỉnh”, sự hoàn thành của một chu trình làm việc (perfectivity). Hoạt động uống hơi khác biệt vì ở đó không diễn ra quá trình chuyển đổi trạng thái vật chất (ở đây là đồ uống) giống nhƣ quá trình ăn. Đồ uống sau khi đƣợc đƣa vào khoang miệng sẽ trải qua quá trình thay đổi ngay trong đƣờng đi của nó là qua khoang miệng, ống họng và đi qua các tuyến tiêu hóa. Quá trình này gần nhƣ một “đƣờng thẳng” vì không xảy ra sự nhai nghiền, nhào trộn thức ăn nào trong khoang miệng cũng nhƣ trong dạ dày. Rõ ràng hoạt động “ăn” sẽ tạo ra một hình ảnh về một quá trình thay đổi vật chất hoàn chỉnh, còn hoạt động “uống” lại gợi nên hình ảnh về sự liên tục, lặp lại. Chính nét khác biệt này tạo ra sự phân tách trong khả năng chuyển di của ý niệm ăn ý niệm uống. 2.3.2. Chuyển di ý niệm dựa trên sự nội tại hóa (nhìn từ góc độ tác thể) Khi tƣ duy ngôn ngữ, con ngƣời sẽ dựa trên những trải nghiệm thân thể của mình với môi trƣờng xung quanh để mô hình hóa, khái quát hóa thành những lƣợc đồ hình ảnh, từ đó hình thành nên ý niệm, ý nghĩa và kết quả cuối cùng là ngôn ngữ. Trƣớc hết với tƣ cách là tác thể (agent), con ngƣời hiểu, trải nghiệm qua quá trình ăn uống và từ đó tƣ duy sang ngôn ngữ sử dụng. Trong quá trình ăn uống, con ngƣời với vai trò là tác nhân gây ra hành động tạo ra một hình ảnh rõ nét về tính nội tại hóa (internalization). 2.3.2.1. Chuyển di ý niệm dựa trên trải nghiệm thoải mái, thỏa mãn của chủ thể 2.3.2.2. Chuyển di ý niệm dựa trên trải nghiệm không thoải mái của chủ thể 2.3.2.3. Chuyển nghĩa dựa trên cảm giác do ăn uống mang lại cho chủ thể 2.3.3. Chuyển nghĩa dựa trên sự tiêu biến của đồ ăn/ thức uống (nhìn từ góc độ bị thể) Ở đây vai trò của đối tƣợng tiếp thụ đồ ăn/thức uống không còn đƣợc chú trọng. Cái đƣợc chú trọng chính là hiệu ứng tạo nên khi hình ảnh đồ ăn/thức uống phải trải qua một qua trình xử lí cơ học có phần bạo liệt và bị chuyển hóa thành các chất khác nhau để tham gia vào quá trình tiêu hóa và đào thải. Dựa trên trải nghiệm này, ngƣời sử dụng ngôn ngữ đã ý niệm hóa sang các miền ý niệm khác, cụ thể chúng tôi đề cập ở đây là các hiện tƣợng tự nhiên (địa lý, thiên văn, địa chất, sinh học, hóa học v.v..), hiện tƣợng xã hội, hoạt động kinh tế-xã hội, hoạt động tâm sinh lí. 17 2.3.3.1. Sự tiêu biến các thực thể trong các hiện tượng tự nhiên 2.3.3.2. Hiện tượng đấu tranh trong tự nhiên và xã hội 2.3.3.3. Trải nghiệm cuộc sống 2.3.3.4. Diễn biến về tâm lí, tình cảm * Tiểu kết chƣơng 2: Chƣơng 2 đã đƣa ra khái quát về cơ chế sinh học của hoạt động ăn uống gồm các giai đọan cơ bản của quá trình ăn uống. Nhìn chung hành động ăn uống luôn tuân theo một chu trình chung từ “cảm giác đói/khát” (hunger/thirst) tạo ra nhu cầu ăn/uống cho con ngƣời, thậm chí bắt buộc con ngƣời phải ăn/uống để thỏa mãn cảm giác đó. Bắt đầu của chu trình này là phải có một lƣợng chất rắn/ lỏng đƣợc đƣa vào trong miệng (intake). Tiếp theo là quá trình nhai, nghiền đồ ăn/thức uống diễn ra trong khoang miệng. Đồ ăn/thức uống phải trải qua một quá trình này gọi là tiêu hóa (digestion). Chức năng của hành vi ăn uống là để nuôi dƣỡng cơ thể (nourishment). Sau khi ăn, chủ thể sẽ có đƣợc cảm giác từ ăn uống đem lại (taste), đƣợc cảm nhận thông qua vị giác (gustation). Cơ chế sinh học của quá trình ăn uống là cơ sở quan trọng, là kim chỉ nam để chúng tôi thực hiện các bƣớc nghiên cứu tình hình chuyển di ý niệm từ miền ăn uống sang các miền khác. Căn cứ trên quan điểm của Newman (1997), chúng tôi đã nêu ra và chứng minh bằng các ví dụ cụ thể cơ sở của hiện tƣợng chuyển di ý niệm của miền ăn uống, cụ thể là hiện tƣợng tỏa tia ý niệm của nhóm từ chỉ ý niệm ăn uống. Theo đó, quá trình chuyển nghĩa cần phải đƣợc xét từ hai góc nhìn khác nhau: (1) từ góc độ tác thể tức là chú trọng tính nội tại hóa của chủ thể, (2) từ góc độ bị thể tức là chú trọng vào hình ảnh bị phá hủy và tiêu biến của đồ ăn/thức uống. Ngoài ra, cảm giác do ăn uống mang lại cũng là một nguồn gốc quan trọng tạo ra hiệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfan_du_y_niem_cua_pham_tru_an_uong_trong_tieng_anh_doi_chieu_voi_tieng_viet_139_1937777.pdf
Tài liệu liên quan