Những kết quả đạt được
Các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước đã đề cập những nội dung cơ bản về công tác tư tưởng, CTTT, hoạt động BCV. Nhiều công trình nghiên cứu đã làm rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, phương thức hoạt động BCV cũng như chất lượng hoạt động BCV và yêu cầu phải đổi mới hoạt động BCV trong giai đoạn hiện nay. Do chưa có nhiều công trình nghiên cứu, nên nhiều vấn đề trong lĩnh vực này chưa được làm rõ hoặc còn có những ý kiến khác nhau nhưng các nghiên cứu nêu trên là những gợi ý quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu và đề ra những giải pháp thích hợp trong việc nâng cao chất lượng hoạt động BCV ở VĐBSCL hiện nay.
Về lý luận, các công trình khoa học đều khẳng định vị trí, vai trò, quan trọng của hoạt động BCV trong công tác tư tưởng của Đảng. Đó là loại hình tuyên truyền đặc biệt, được thể hiện qua giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền. Các nhà khoa học đã tìm hiểu, luận giải về yêu cầu, nội dung, phương thức, phương pháp hoạt động BCV phù hợp với từng nhóm đối tượng. Các tác giả đã khẳng định hoạt động TTM là một hình thức hoạt động chủ yếu, có từ rất sớm trong HĐTT của đảng cộng sản, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức chỉ đạo của BTG các cấp mà người thực hiện trực tiếp là các BCV. Đặc biệt, các nghiên cứu đã nêu ra phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động BCV. Một số công trình nghiên cứu về VĐBSCL đã chỉ ra những đặc trưng của vùng đất phía Nam của Tổ quốc và thực trạng của công tác tư tưởng trong đó có đề cập đến những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động TTM, BCV. Đây là những căn cứ quan trọng để tác giả nghiên cứu, vận dụng, đề ra những phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động BCV của VĐBSCL hiện nay.
Về thực tiễn, các công trình đã nghiên cứu hoạt động TTM, BCV với tư cách là một hoạt động của tổ chức, phối hợp các lực lượng và hoạt động nghiệp vụ tuyên truyền, nghệ thuật diễn giảng, thuật hùng biện của người BCV. Một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến công tác TTM, BCV cụ thể ở một số địa phương. Nghiên cứu về chất lượng hoạt động BCV, nhiều tác giả đã chỉ ra những tiêu chí đánh giá chất lượng, như công tác lãnh đạo, chỉ đạo, công tác tổ chức hoạt động, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và các điều kiện đảm bảo cũng như công tác kiểm tra, giám sát hoạt động BCV
Nghiên cứu hoạt động TTM và chất lượng hoạt động BCV ở VĐBSCL dù chưa có nhiều công trình nhưng các nghiên cứu đã cho thấy một phần thực trạng công tác TTM, hoạt động BCV cũng như các yêu cầu về số lượng, chất lượng của ĐNBCV ở VĐBSCL Đây là những nội dung quan trọng, gợi ý cho tác giả luận án nghiên cứu đề tài sát hợp với điều kiện thực tế của VĐBSCL.
29 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Chất lượng hoạt động báo cáo viên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyên đề, số 3/2014. Tác giả Lương Ngọc Vĩnh trong bài viết “Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền của Đảng trong thời kỳ mới”, Tạp chí BCV, số 07, tháng 7/2015. Bàn về chất lượng hoạt động TTM, tác giả Trần Quang Nhiếp trong bài báo “Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng trong thời kỳ mới”, Tạp chí BCV, số 07, tháng 7/2013. Cuốn sách “Công tác tư tưởng - văn hóa ở cấp huyện” do TS. Đào Duy Quát (chủ biên) NxB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác giả Nguyễn Chí Mỳ, trong bài viết “Nâng cao tính thuyết phục trong công tác tuyên truyền miệng hiện nay”, Tạp chí BCV, số 10, tháng 10/2013. Tác giả Nguyễn Chí Mỳ, với bài viết “Một số suy nghĩ về phương pháp tuyên truyền miệng hiện nay”, Thông tin chuyên đề, số 3/2014. Tác giả Lương Khắc Hiếu trong bài viết “Phát huy ưu thế tuyên truyền miệng trong công tác tư tưởng”, Tạp chí BCV, số 08, tháng 8/2013.
Về nâng cao chất lượng hoạt động TTM, BCV ở các ngành, địa phương có các nghiên cứu đáng chú ý: Tổng hợp “Một số kết quả công tác tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên năm 2016; nhiệm vụ trọng tâm năm 2017”, Tạp chí BCV, số 01, tháng 01 năm 2017. Các bài viết trong cuốn Kỷ yếu tọa đàm“Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên thành phố Hồ Chí Minh”, (2014).
Công tác TTM và hoạt động BCV trong các ngành, các cấp, các đối tượng.
Về hoạt động BCV trong quân đội và công an đã có một số bài viết đáng chú ý. Tác giả Nguyễn Trọng Nghĩa trong bài “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác tuyên truyền miệng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong toàn quân”, Tạp chí BCV, số 10, tháng 10 năm 2017. Tác giả Hồ Bá Vinh trong bài viết “Xây dựng đội ngũ báo cáo viên quân đội đáp ứng yêu cầu công tác tuyên huấn trong tình hình mới”, Tạp chí BCV, số 4, tháng 04 năm 2016. Tác giả Nguyễn Văn Tín trong bài viết “Một số bài học kinh nghiệm rút ra sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 17 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tuyên truyền miệng của quân đội”, Tạp chí BCV, số 8, tháng 8 năm 2017.
Về hoạt động TTM, BCV trong lực lượng công an, tác giả Đào Gia Bảo với bài viết “Công tác tuyên truyền miệng, hoạt động báo cáo viên góp phần giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ Công an Nhân dân”, Tạp chí BCV, số 09, tháng 9 năm 2017. Tác giả Lỳ Mí Lử trong bài viết “Hà Giang nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên và công tác tuyên truyền miệng”, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 8/2006. Bàn về chất lượng CTTT, vận động đồng bào có đạo, tác giả Trần Văn Toán trong bài báo “Công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo ở Nam Định”, Tạp chí Tuyên giáo, số 10/2009. Tác giả Phạm Hữu Kiên trong bài báo “Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở Quảng Ninh”, Tạp chí Tuyên giáo, số 01/2013. Tác giả Đàm Văn Vượng trong bài viết “Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí BCV, số 11, tháng 11/2013. Tác giả Nguyễn Thanh Quang trong bài viết “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Báo điện tử Tuyên giáo, tháng 1/2017. Tác giả Nguyễn Thế Thắng trong báo cáo “Bắc Ninh nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí BCV, số 9, tháng 9 năm 2016. Tác giả Nguyễn Văn Tuấn với bài viết “Tỉnh Hòa Bình: 10 năm thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng trong hoạt động báo cáo viên”, Tạp chí BCV, số 5, tháng 5 năm 2017. Tác giả Phạm Hồng Cẩm trong bài viết “Quảng Ninh đổi mới nội dung, phương thức công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng”, Tạp chí Tuyên giáo, số 7/2017.
Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng nói chung, công tác TTM và BCV nói riêng đã giúp tác giả thấy rõ hơn vị trí, vai trò quan trọng của công tác TTM và hoạt động BCV trong hoạt động công tác tư tưởng của Đảng; sự cần thiết phải củng cố, kiện toàn và xây dựng ĐNBCV đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động BCV với tư cách là một tổ chức, đội ngũ hoạt động cũng như phẩm chất, năng lực của mỗi BCV. Những công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu tham khảo giúp tác giả kế thừa có chọn lọc, đề ra phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng hoạt động BCV của VĐBSCL hiện nay.
1.3. Các công trình nghiên cứu về đồng bằng sông Cửu Long và chất lượng hoạt động báo cáo viên ở Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Những vấn đề về ĐBSCL cũng như về công tác TTM, hoạt động BCV của Vùng đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu. Trong phạm vi tổng quan, tác giả trình bày kết quả nghiên cứu về một số lĩnh vực, góc độ, cụ thể như sau:
1.3.1. Những nghiên cứu về Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Cuốn sách “Nam Bộ xưa và nay” của nhiều tác giả, Nxb thành phố Hồ Chí Minh (1999). Tác giả Sơn Nam trong cuốn sách “Tiếp cận với đồng bằng sông Cửu Long”, Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh, (2000). Tập sách của Hội Khoa học lịch sử thành phố Hồ Chí Minh “Nam Bộ đất và người”, (tập I và tập II) của Nxb Trẻ (2004). Tác giả Vũ Minh Giang (chủ biên), trong cuốn “Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam”, Nxb Thế giới, Hà Nội (2006). Năm 2011 BTG Trung ương và Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ đã ban hành“Đề cương tuyên truyền trong đồng bào các dân tộc, tôn giáo vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2011 - 2015”.
1.3.2. Về chất lượng tuyên truyền miệng, chất lượng hoạt động báo cáo viên của Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Các công trình nghiên cứu về hoạt động TTM, BCV của VĐBSCL không nhiều, có thể kể đến một số công trình sau:
Luận án Tiến sĩ Khoa học chính trị của Đặng Trí Thủ “Công tác vận động đồng bào Khmer của các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Tây Nam bộ trong giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội (2012). Tác giả Nguyễn Hồng Vệ đã có một số bài viết về công tác TTM, BCV ở Cà Mau. Trong bài báo “Báo cáo viên Cà Mau - Lực lượng chủ yếu giữ vững trận địa công tác tư tưởng cơ sở”, Báo điện tử Tuyên giáo, 9/2008. Tác giả Nguyễn Hồng Vệ trong bài báo “Mấy suy nghĩ về “nghề báo cáo viên” trong giai đoạn hiện nay”, Thông tin chuyên đề, số 3/2014. Tác giả Hồ Văn Hoàng trong bài báo “Vai trò của đội ngũ báo cáo viên với phát triển bền vững”, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 10/2004. Tác giả Bùi Thụy Ngọc Hân trong bài viết “Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của báo cáo viên cấp ủy tỉnh Bến Tre hiện nay”, Báo điện tử Tuyên giáo, tháng 4/2014. Tác giả Trần Bình Trọng với bài viết “Tăng cường công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của ĐNBCV, TTV đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”, Trang thông tin điện tử BTG tỉnh ủy Trà Vinh, tháng 2/2016.
1.4. Nhận định về kết quả đã đạt được và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
1.4.1. Những kết quả đạt được
Các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước đã đề cập những nội dung cơ bản về công tác tư tưởng, CTTT, hoạt động BCV. Nhiều công trình nghiên cứu đã làm rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, phương thức hoạt động BCV cũng như chất lượng hoạt động BCV và yêu cầu phải đổi mới hoạt động BCV trong giai đoạn hiện nay. Do chưa có nhiều công trình nghiên cứu, nên nhiều vấn đề trong lĩnh vực này chưa được làm rõ hoặc còn có những ý kiến khác nhau nhưng các nghiên cứu nêu trên là những gợi ý quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu và đề ra những giải pháp thích hợp trong việc nâng cao chất lượng hoạt động BCV ở VĐBSCL hiện nay.
Về lý luận, các công trình khoa học đều khẳng định vị trí, vai trò, quan trọng của hoạt động BCV trong công tác tư tưởng của Đảng. Đó là loại hình tuyên truyền đặc biệt, được thể hiện qua giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền. Các nhà khoa học đã tìm hiểu, luận giải về yêu cầu, nội dung, phương thức, phương pháp hoạt động BCV phù hợp với từng nhóm đối tượng. Các tác giả đã khẳng định hoạt động TTM là một hình thức hoạt động chủ yếu, có từ rất sớm trong HĐTT của đảng cộng sản, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức chỉ đạo của BTG các cấp mà người thực hiện trực tiếp là các BCV. Đặc biệt, các nghiên cứu đã nêu ra phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động BCV. Một số công trình nghiên cứu về VĐBSCL đã chỉ ra những đặc trưng của vùng đất phía Nam của Tổ quốc và thực trạng của công tác tư tưởng trong đó có đề cập đến những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động TTM, BCV. Đây là những căn cứ quan trọng để tác giả nghiên cứu, vận dụng, đề ra những phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động BCV của VĐBSCL hiện nay.
Về thực tiễn, các công trình đã nghiên cứu hoạt động TTM, BCV với tư cách là một hoạt động của tổ chức, phối hợp các lực lượng và hoạt động nghiệp vụ tuyên truyền, nghệ thuật diễn giảng, thuật hùng biện của người BCV. Một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến công tác TTM, BCV cụ thể ở một số địa phương. Nghiên cứu về chất lượng hoạt động BCV, nhiều tác giả đã chỉ ra những tiêu chí đánh giá chất lượng, như công tác lãnh đạo, chỉ đạo, công tác tổ chức hoạt động, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và các điều kiện đảm bảo cũng như công tác kiểm tra, giám sát hoạt động BCV
Nghiên cứu hoạt động TTM và chất lượng hoạt động BCV ở VĐBSCL dù chưa có nhiều công trình nhưng các nghiên cứu đã cho thấy một phần thực trạng công tác TTM, hoạt động BCV cũng như các yêu cầu về số lượng, chất lượng của ĐNBCV ở VĐBSCL Đây là những nội dung quan trọng, gợi ý cho tác giả luận án nghiên cứu đề tài sát hợp với điều kiện thực tế của VĐBSCL.
1.4.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Mặc dù các nghiên cứu đã tập trung làm rõ các vấn đề có liên quan đến hoạt động BCV, song vẫn còn trống vắng các công trình nghiên cứu một cách cơ bản, tổng thể cơ sở lý luận, thực tiễn chất lượng hoạt động và các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động BCV ở VĐBSCL hiện nay. Đây chính là nội dung mà luận án cần tiếp tục làm rõ.
Luận án cần tiếp tục nghiên cứu với các định hướng sau:
Một là, kế thừa các công trình nghiên cứu về hoạt động BCV, chất lượng hoạt động BCV và các đề tài có liên quan để làm rõ hơn các khái niệm công cụ như hoạt động BCV, chất lượng hoạt động BCV, các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động BCV, các yếu tố tác động đến chất lượng BCV làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài.
Hai là, vận dụng lý luận để phân tích thực trạng hoạt động và chất lượng hoạt động BCV, những yếu tố chủ quan và khách quan tác động vào hoạt động BCV ở VĐBSCL; rút ra những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân; các giải pháp khắc phục những hạn chế trong chất lượng của hoạt động BCV. Kết quả nghiên cứu cần đạt tới là chỉ ra những nội dung cần thiết để nâng cao chất lượng hoạt động BCV ở VĐBSCL.
Ba là, đề xuất phương hướng và các nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động BCV ở VĐBSCL hiện nay, bao gồm nâng cao phẩm chất, năng lực của BCV, tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ các cấp, phù hợp với những điều kiện đặc thù của vùng, đổi mới tổ chức, nội dung, chương trình hoạt động của ĐNBCV trong vùng; phối, kết hợp chặt chẽ hoạt động TTM, BCV với các HĐTT khác trên địa bàn, nhằm trực tiếp phục vụ nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ tỉnh, thành phố trong vùng, góp phần vào việc nâng cao chất lượng hoạt động BCV cả nước nói chung.
Với cách tiếp cận nêu trên, mong muốn của luận án là bổ sung, phát triển thêm vào các kết quả nghiên cứu đã có, đóng góp vào sự phát triển lý luận khi xem xét chất lượng hoạt động BCV, vận dụng vào thực tiễn với hoàn cảnh và điều kiện đặc thù của VĐBSCL. Đó là những điểm mới của việc nghiên cứu đề tài và những đóng góp mới của tác giả vào vấn đề nghiên cứu.
Chương 2
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO VIÊN
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Báo cáo viên và hoạt động báo cáo viên
2.1.1. Khái niệm báo cáo viên, tuyên truyền viên
2.1.1.1. Khái niệm báo cáo viên
BCV là lực lượng TTM của Đảng được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến cấp huyện, do cấp ủy lựa chọn và ra quyết định công nhận. BCV là lực lượng chủ yếu trong công tác TTM, có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, củng cố niềm tin, định hướng tư tưởng và hành động cho cán bộ, đảng viên, nhân dân theo đường lối, quan điểm của Đảng.
2.1.1.2. Báo cáo viên và tuyên truyền viên
BCV, TTV là chức danh để chỉ những người làm công tác TTM, cổ động trực tiếp bằng lời nói đối với các đối tượng. BCV, TTV phối hợp với nhau, trở thành lực lượng TTM có tổ chức, có hệ thống từ Trung ương tới đảng bộ, chi bộ cơ sở, tới từng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong hoạt động của mình, BCV có quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng - đối tượng TTM, trực tiếp góp phần quan trọng tạo nên sự đồng thuận xã hội.
2.1.2. Hoạt động báo cáo viên
2.1.2.1. Khái niệm hoạt động
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là sự tác động một cách tích cực của con người vào hiện thực, là hệ thống hoạt động chung của các cá nhân có quan hệ lẫn nhau nhằm thực hiện một mục đích nhất định trong đời sống xã hội.
2.1.2.2. Khái niệm hoạt động báo cáo viên
Hoạt động BCV là một trong những hoạt động quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng, là hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ có tổ chức, có định hướng của ĐNBCV dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, nhằm giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình hình trong nước và quốc tế, góp phần tạo nên sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.
2.2. Chất lượng hoạt động báo cáo viên
2.2.1. Khái niệm chất lượng hoạt động báo cáo viên
Chất lượng hoạt động BCV là mức độ đáp ứng các yêu cầu của công tác TTM nhằm thực hiện mục đích của công tác tư tưởng, thể hiện phẩm chất, năng lực của BCV và chất lượng hoạt động của ĐNBCV dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động báo cáo viên
2.2.2.1. Chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
Chất lượng lãnh đạo thể hiện qua mức độ nhận thức về vị trí, vai trò của hoạt động BCV trong công tác tư tưởng nói chung và trong HĐTT. Mức độ nhận thức được thể hiện ở tính chủ động của cấp uỷ trong việc ban hành nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động BCV; quan tâm thường xuyên với hoạt động BCV, chỉ đạo BTG trong quản lý ĐNBCV và tổ chức hoạt động của họ.
2.2.2.2. Chất lượng tổ chức, định hướng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
Chất lượng tổ chức, định hướng hoạt động của ĐNBCV là chất lượng xây dựng, thực hiện chương trình, kế hoạch hoạt động và chất lượng hoạt động cung cấp, định hướng thông tin cho ĐNBCV.
2.2.2.3. Chất lượng tổ chức, phối hợp hoạt động báo cáo viên với các hoạt động tuyên truyền khác trên địa bàn
Chất lượng hoạt động BCV sẽ được nâng cao khi được phối hợp chặt chẽ với các HĐTT khác. Sự phối hợp ấy nhằm khắc phục những hạn chế vốn có trong so sánh với các hình thức tuyên truyền khác của hoạt động BCV và phát huy ưu thế của các loại hình tuyên truyền. Sự phối hợp ấy sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa, rộng rãi nội dung tuyên truyền trong xã hội.
2.2.2.4. Chế độ chính sách, phương tiện đảm bảo cho hoạt động báo cáo viên của ngành, địa phương
Thực hiện chế độ, chính sách thỏa đáng không chỉ là biểu hiện của sự quan tâm đến hoạt động BCV mà còn là sự kích thích tính tích cực, sự sáng tạo của ĐNBCV. Trên cơ sở xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của BCV, nội dung của chế độ chính sách đối với hoạt động BCV là tạo điều kiện làm việc, cho hoạt động TTM của BCV. Chế độ chính sách đối với BCV chính là sự đãi ngộ xứng đáng với lao động của BCV.
2.2.2.5. Phẩm chất và năng lực của báo cáo viên
Đây là tiêu chí nói lên "chất lượng" của người BCV, bao gồm phẩm chất và năng lực trong hoạt động TTM của họ. Phẩm chất và năng lực này được hình thành chủ yếu bằng sự cố gắng của cá nhân mỗi BCV. Ngoài yếu tố năng khiếu bẩm sinh có vai trò nhất định, phẩm chất, năng lực của BCV không phải là cái có sẵn và bất biến, mà phần lớn do đào tạo (bao gồm cả tự đào tạo), bồi dưỡng, qua rèn luyện trong thực tiễn hoạt động. Điều đó cũng nói lên vai trò, trách nhiệm của tổ chức trong đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực TTM cho BCV.
2.2.2.6. Sự chuyển biến trong nhận thức tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương - tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hoạt động báo cáo viên trong thực tiễn
Sự chuyển biến trong nhận thức tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương phản ánh kết quả hoạt động của BCV. Sự chuyển biến tư tưởng đầu tiên của người nghe biểu hiện thông qua thái độ quan tâm đến buổi nói chuyện. Đó là tình cảm tôn trọng, yêu mến của họ với BCV; sự mong muốn được nghe nói chuyện... Các chuyển biến này có thể biết được qua đánh giá thái độ của người nghe trong từng buổi TTM, với BCV; thông các cuộc điều tra dư luận xã hội định kỳ hoặc đột xuất, kết hợp với các đánh giá của cấp ủy, chính quyền địa phương.
2.2.3. Các yếu tố khách quan tác động đến chất lượng hoạt động báo cáo viên
Những tác động từ bên ngoài, của tình hình quốc tế và khu vực.
Tình hình trong nước; những điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng, miền tác động đến chất lượng hoạt động BCV.
Trình độ nhận thức, tính chủ động, tự giác của đối tượng trong hoạt động của ĐNBCV.
2.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động báo cáo viên
2.3.1. Yêu cầu của công tác tư tưởng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng. Với đặc điểm chung của con người trong xã hội là hoạt động có ý thức, nên nhận thức tư tưởng của họ có vai trò quan trọng hàng đầu, chi phối hoạt động xã hội của họ. Trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, để giải quyết những vấn đề của thực tiễn cách mạng đặt ra, Đảng phải quan tâm đến công tác tư tưởng.
2.3.2. Yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chất chính trị, đạo đức, lối sống, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên hiện nay
Tham gia đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay, hoạt động BCV có nhiều lợi thế ở chỗ các nội dung TTM, vận động gắn liền với thực tế vận động ở cơ sở, giúp ổn định tình hình tư tưởng trong nhân dân, giúp các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp thực hiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
2.3.3. Vai trò quan trọng của đội ngũ báo cáo viên trong hoạt động tuyên truyền của Đảng
Cũng như bất cứ hoạt động nào của con người, chủ thể hoạt động bao giờ cũng giữ vai trò quyết định thành công hay thất bại của hoạt động đó. Vì vậy, có thể khẳng định BCV là người quyết định chất lượng hoạt động TTM. Với vai trò chủ thể trong hoạt động TTM, BCV là lực lượng tuyên truyền tập trung về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, người chịu trách nhiệm chính về kết quả hoạt động TTM.
2.3.4. Xuất phát từ những hạn chế của hoạt động báo cáo viên trong giai đoạn hiện nay
Trong thời gian qua, hoạt động BCV nói chung và hoạt động BCV của VĐBSCL nói riêng, còn những hạn chế, chất lượng hoạt động BCV chưa cao. Trong tổ chức hoạt động của ĐNBCV, chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động BCV, điều kiện, phương tiện vật chất cho hoạt động này còn hạn chế. Nhiều nơi cấp ủy chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực hoạt động này; còn khoán trắng cho BTG các cấp Những hạn chế nêu trên đòi hỏi phải có các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động BCV trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO VIÊN VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
3.1. Thực trạng đội ngũ báo cáo viên Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
3.1.1. Một số đặc điểm Vùng đồng bằng sông Cửu Long có ảnh hưởng đến hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
3.1.1.1. Về đặc điểm tự nhiên
Vùng ĐBSCL có 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương: các tỉnh An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và Thành phố Cần Thơ. ĐBSCL nằm ở cực nam của Việt Nam, phía Đông Bắc giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam giáp vịnh Thái Lan, phía Đông Nam giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 40.548 km2, bằng 12,25% diện tích tự nhiên của cả nước. Toàn vùng có bờ biển dài 743 km, đường biên giới với Campuchia dài hơn 340km. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2011, dân số trong vùng có 17.325.167 người, chiếm 19,8% dân số cả nước, với mật độ dân số gần 440 người/km2 .Về đặc điểm địa hình, ĐBSCL bị chia cắt bởi các kênh rạch chằng chịt, vào mùa nước nổi nhiều vùng nước ngập sâu 2 đến 3 mét. Về mùa khô, hiện tượng thiếu nước ngọt xảy ra ở một số nơi.
3.1.1.2. Đặc điểm về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
ĐBSCL có 3 mặt giáp biển và đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa gắn liền với biển. Những diễn biến phức tạp trong quan hệ của Việt Nam với các nước khu vực, đặc biệt là trên biển Đông, có tác trực tiếp đến tình hình kinh tế, xã hội và tư tưởng của nhân dân trong Vùng. Đẩy mạnh HĐTT, nâng cao chất lượng hoạt động BCV góp phần tham gia xử lý kịp thời những vấn đề nhạy cảm liên quan đến dân tộc, tôn giáo, đảm bảo an ninh nội địa và chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động TTM, BCV ở VĐBSCL.
3.1.2. Quá trình hình thành và thực trạng đội ngũ báo cáo viên Vùng đồng bằng sông Cửu Long
3.1.2.1. Quá trình hình thành đội ngũ báo cáo viên Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành lại nền độc lập của Tổ quốc, Đảng ta đã sớm có chủ trương xây dựng và phát triển ĐNBCV, TTV của Đảng ở VĐBSCL. Thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW, ngày 3 tháng 8 năm 1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IV về việc “Tổ chức đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyền viên”, ở ĐBSCL, ĐNBCV đã được tổ chức ở tất cả các tỉnh, thành, quận, huyện. Qua các tỉnh khảo sát, cấp tỉnh có 196 BCV, trong đó có 26 BCV nữ (chiếm 13,2%), có 4 BCV là người dân tộc (chiếm 2%). Cấp huyện có 1279 BCV, trong đó có 123 BCV nữ (chiếm 10,3%), 11 BCV là người dân tộc (chiếm 0,86%). Về trình độ chuyên môn: 100% BCV cấp tỉnh đạt trình độ đại học, trong đó 5 BCV có trình độ tiến sĩ (chiếm 2,55%), 33 BCV có trình độ thạc sĩ (chiếm 16,8%), còn lại 158 BCV có trình độ đại học (chiếm 80,65%). BCV cấp huyện có 1279/1279 BCV đạt trình độ đại học, trong đó 72 BCV có trình độ thạc sĩ (chiếm 5,63%), còn lại 1207 BCV có trình độ đại học (chiếm 94,37%).
3.1.2.2. Thực trạng hoạt động đội ngũ báo cáo viên Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Tổ chức định kỳ các HNBCV cấp tỉnh, cấp huyện. Thực hiện chế độ cung cấp và định hướng thông tin. Tổ chức hoạt động của ĐNBCV. Tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ cho ĐNBCV. Công tác kiểm tra, thi đua khen thưởng đối với hoạt động BCV. Phối hợp hoạt động BCV với các HĐTT khác.
3.2. Thực trạng chất lượng hoạt động báo cáo viên Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
3.2.1. Chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động báo cáo viên
3.2.1.1. Những ưu điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động báo cáo viên của các cấp ủy Đảng
Xuất phát từ kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, cấp ủy đảng các tỉnh, thành phố trong Vùng đã quan tâm đến công tác tư tưởng nói chung, công tác TTM và hoạt động BCV nói riêng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, đối với hoạt động của ĐNBCV. Cùng với việc tổ chức ĐNBCV, cấp ủy đảng các cấp đã căn cứ vào định hướng và nội dung thông tin cấp trên và căn cứ vào thực tế nhiệm vụ của địa phương, xây dựng và phê duyệt chương trình, kế hoạch, nội dung, chuyên đề hàng năm, giao cho BTG cùng cấp tổ chức, chỉ đạo BCV thực hiện.
3.2.1.2. Những hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động báo cáo viên
Báo cáo tổng kết công tác tư tưởng hằng năm của các tỉnh trong Vùng có nhận xét về sự quan tâm của một số cấp ủy đối với hoạt động BCV, chưa thực sự quan tâm hoặc chưa thường xuyên quan tâm đến hoạt động này. Biểu hiện rõ nhất là một số nơi còn có hiện tượng “khoán trắng” cho BTG cùng cấp. Sự quan tâm của cấp uỷ và chính quyền cấp tỉnh đa số mới dừng lại ở việc ra quyết định công nhận ĐNBCV, chưa ban hành các nghị quyết, văn bản chỉ đạo và chưa thường xuyên quan tâm đến hoạt động của đội ngũ này.
3.2.2. Chất lượng tổ chức các hoạt động chủ yếu của đội ngũ báo cáo viên
3.2.2.1. Ưu điểm
- Về lựa chọn, xác định nội dung tuyên truyền: Hoạt động BCV của các địa phương VĐBSCL cơ bản được thực hiện theo chương trình, kế hoạch. Tổ chức HNBCV và hội nghị cung cấp thông tin định kỳ ở các tỉnh VĐBSCL đã duy trì thường xuyên và tổ chức tốt HNBCV định kỳ, mỗi tháng một lần nhằm cung cấp thông tin thời sự, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, định hướng thông tin, hướng dẫn hoạt động hệ thống BCV cấp dưới. Để nâng cao chất lượng hoạt động cho ĐNBCV, các tỉnh VĐBSCL hằng năm đã mở một số lớp tập huấn nghiệp vụ TTM, hoạt động BCV.
3.2.2.2. Hạn chế
Việc chỉ đạo, định hướng nội dung tuyên truyền, còn có những hạn chế. Cơ chế vận hành của hoạt động chỉ đạo định hướng nội dung từ trên xuống
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_chat_luong_hoat_dong_bao_cao_vien_vung_dong.doc