Tóm tắt Luận án Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Cơ chế ĐCPL là một trong những vấn đề quan trọng trong hệ thống

kiến thức cơ bản của khoa học pháp lý. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của

cơ chế ĐCPL, do sự khác biệt về cách tiếp cận và những nguyên nhân khác,

vẫn có những ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế ĐCPL: Có quan điểm

đồng nhất tác động pháp luật với điều chỉnh pháp luật; Có quan điểm cho

rằng ĐCPL gồm phương thức điều chỉnh pháp luật và phương thức điều

chỉnh hành vi, chưa chú trọng đến yếu tố cầu thành; Có quan điểm cho rằng,

Cơ chế chứa đựng 2 nội dung là cấu trúc của một chỉnh thể và phương thức

vận hành của chỉnh thể, từ đó định nghĩa“Cơ chế ĐCPL là hệ thống các

phương tiện pháp luật có MQH mật thiết, tác động qua lại với nhau trong

một thể thống nhất theo một quá trình nhất định để điều chỉnh các quan hệ

xã hội với sự bảo đảm của nhà nước nhằm đạt được mục đích xác định”.

Chúng tôi nhất trí với quan điểm này và cho rằng, định nghĩa này đã phản

ánh được một cách toàn diện tính chất, đặc điểm và nội hàm của khái niệm.

Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân là một dạng của cơ chế

ĐCPL nói chung, có thể định nghĩa như sau: Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà

nước và cá nhân là hệ thống các phương tiện pháp luật có MQH mật thiết

với nhau trong một thể thống nhất, được vận hành theo những nguyên tắc,

quá trình được pháp luật quy định để điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá

nhân với sự bảo đảm của nhà nước nhằm đạt được những mục đích xác định

pdf27 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 596 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quá trình phát triển của xã hội. Sự phát triển của nhận thức con người về tự nhiên, xã hội và về bản thân mình là một quá trình. Chính khát vọng về quyền được sống, được tự do, hạnh phúc, an toàn và phát triển của mỗi người đã thúc đẩy mọi người mong muốn có nhà nước và đi đến thỏa thuận chung, thành lập ra nhà nước và MQH giữa nhà nước và cá nhân xuất hiện theo quy luật đó. * Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là MQH mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau, xuất phát từ những nhu cầu khách quan và chủ quan, từ mục đích của việc xác lập và điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân, từ tính chất, đặc điểm và trách nhiệm xã hội của mỗi chủ thể, giữa nhà nước và cá nhân có MQH rất mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau, được biểu hiện ở nhiều nội dung và hình thức khác nhau. Vì vậy, khi xem xét MQH giữa nhà nước và cá nhân phải đặt nhà nước và cá nhân trong sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Dưới góc độ hình thức pháp lý, MQH giữa nhà nước và cá nhân là MQH bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý. * MQH giữa nhà nước và cá nhân có tính phong phú, đa dạng có thể phân định chúng thành những nhóm quan hệ cơ bản có nội dung là các quyền và nghĩa vụ, bao gồm: quan hệ nhà nước và cá nhân liên quan đến việc điều chỉnh và thực hiện quyền con người; quan hệ nhà nước và cá nhân liên quan đến việc điều chỉnh và thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quan hệ nhà nước và cá nhân liên quan đến việc điều chỉnh và thực hiện chủ quyền nhân dân; quan hệ nhà nước và cá nhân thông qua chủ thể thứ ba là các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và tôn giáo. * MQH giữa nhà nước và cá nhân được thể hiện chủ yếu dưới hình thức các QHPL với đặc thù riêng về chủ thể, khách thể và nội dung 2.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN 2.2.1. Khái niệm cơ chế điều  chỉnh pháp  luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân Cơ chế ĐCPL là một trong những vấn đề quan trọng trong hệ thống kiến thức cơ bản của khoa học pháp lý. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của cơ chế ĐCPL, do sự khác biệt về cách tiếp cận và những nguyên nhân khác, vẫn có những ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế ĐCPL: Có quan điểm đồng nhất tác động pháp luật với điều chỉnh pháp luật; Có quan điểm cho 9 rằng ĐCPL gồm phương thức điều chỉnh pháp luật và phương thức điều chỉnh hành vi, chưa chú trọng đến yếu tố cầu thành; Có quan điểm cho rằng, Cơ chế chứa đựng 2 nội dung là cấu trúc của một chỉnh thể và phương thức vận hành của chỉnh thể, từ đó định nghĩa“Cơ chế ĐCPL là hệ thống các phương tiện pháp luật có MQH mật thiết, tác động qua lại với nhau trong một thể thống nhất theo một quá trình nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội với sự bảo đảm của nhà nước nhằm đạt được mục đích xác định”. Chúng tôi nhất trí với quan điểm này và cho rằng, định nghĩa này đã phản ánh được một cách toàn diện tính chất, đặc điểm và nội hàm của khái niệm. Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân là một dạng của cơ chế ĐCPL nói chung, có thể định nghĩa như sau: Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân là hệ thống các phương tiện pháp luật có MQH mật thiết với nhau trong một thể thống nhất, được vận hành theo những nguyên tắc, quá trình được pháp luật quy định để điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân với sự bảo đảm của nhà nước nhằm đạt được những mục đích xác định. 2.2.2. Nội dung, đặc điểm của cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân 2.2.2.1. Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân có cấu trúc gồm các phương tiện pháp luật cơ bản có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một thể thống nhất Thứ nhất, hệ thống QFPL, xét ở góc độ chung, là cơ sở hình thành nên quy chế pháp lý của cá nhân, bao gồm các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lí của cá nhân, các bảo đảm cho việc thực hiện chúng, được thể hiện ở hệ thống QPPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân bao gồm:(1) Hệ thống QPPL điều chỉnh các QHPL giữa nhà nước và cá nhân trong lĩnh vực quyền con người; (2) Hệ thống QPPL điều chỉnh các QHPL giữa nhà nước và cá nhân trong lĩnh vực quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; (3) Hệ thống QPPL điều chỉnh các QHPL giữa nhà nước và cá nhân trong lĩnh vực bảo đảm và phát huy chủ quyền nhân dân;(4) Hệ thống QPPL điều chỉnh các QHPL giữa nhà nước và cá nhân thông qua chủ thể thứ ba là các tổ chức kinh tế, xã hội, tôn giáo. Trong đó, QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân, không chỉ chứa đựng các khuôn mẫu mô hình hành vi cụ thể mà còn thể hiện thành các nguyên tắc chung, được quy định chủ yếu bằng Hiến pháp Thứ hai, văn bản áp dụng pháp luật trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân giữ vai trò là phương tiện pháp luật để cụ thể hoá quy phạm 10 pháp luật thành quyền và nghĩa vụ hay một biện pháp chế tài cụ thể, hoặc để xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một sự kiện pháp lý. Thứ ba, QHPL trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân là một loại hình QHPL đặc biệt thể hiện ở tính chất của QHPL, tính xác định của các bên chủ thể và tính chất phức tạp của các QHPL này. Thứ tư, hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể trong MQH giữa nhà nước và cá nhân là hình vi do chính các chủ thể xác lập chứ không phải do nhà nước. Kết quả của hành vi quyết định cơ chế ĐCPL đã hoàn thành hay cần chuyển sang giai đoạn truy cứu trách nhiệm pháp lý. Các phương tiện pháp luật này có MQH mật thiết, tương tác vận hành theo những nguyên tắc, quy luật xác định. Vì vậy, nghiên cứu cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân phải có quan điểm biện chứng, khách quan, toàn diện trong cấu trúc tổng thể. 2.2.2.2. Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân được vận hành theo những nguyên tắc, quá trình nhất định Sự vận hành của cơ chế ĐCPL hiện nay được chỉ đạo bởi các nguyên tắc: (1) Đề cao vai trò và giá trị của Hiến pháp và luật, thừa nhận Hiến pháp và luật giữ vai trò tối thượng trong đời sống nhà nước và xã hội. Việc xây dựng và thực hiện cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. (2) Đề cao chủ quyền nhân dân, bảo đảm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. (3) Tôn trọng quyền con người, quyền công dân; bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. (4) Quyền công dân không tác rời nghĩa vụ công dân. (5) Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. (6) Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ. Quá trình vận hành theo một quy trình gồm ba giai đoạn, là giai đoạn thiết lập khuôn mẫu hành vi; giai đoạn cá biệt hoá khuôn mẫu hành vi; Giai đoạn các quyền và nghĩa vụ pháp lý được hiện thực hoá. Với tính chất đặc thù của mình, cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân đòi hỏi phải được vận hành một cách linh hoạt nhưng chặt chẽ bằng các cấp độ, phương thức khác nhau, nhằm bảo đảm tính thống nhất cao của cơ chế. 11 2.2.3. Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân được nhà nước bảo đảm nhằm đạt được những mục đích xác định Sự bảo đảm của nhà nước là điều kiện quan trọng cho sự vận hành của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. Bao gồm các hoạt động ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. Đồng thời, với vai trò là một bên trong MQH giữa nhà nước và cá nhân, nhà nước là chủ thể đồng thời cũng là đối tượng của ĐCPL, nhà nước phải thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. 2.3. CÁC TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN Mức độ hoàn thiện của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân được phản ánh qua mức độ hoàn thiện của mỗi phương tiện pháp luật 2.3.1. Mức độ hoàn thiện của hệ thống các nguyên tắc, quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân Trước hết, được đánh giá qua mức độ hoàn thiện của các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân, thể hiện ở mức độ bao quát được các tư cách của cá nhân trong MQH với nhà nước; mức độ phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống lịch sử văn hoá quốc gia và xu hướng phát triển của văn hoá, văn minh nhân loại tối cao của hiến pháp và hiệu quả của cơ chế bảo hiến; Thứ hai, được đánh giá ở mức độ hoàn thiện của hệ thống QFPL cụ thể điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân, thể hiện ở tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ thống QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân. 2.3.2. Chất lượng của hoạt động áp dụng pháp luật Được đánh giá ở tính hợp pháp, hợp lý và kịp thời của văn bản áp dụng pháp luật trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. 2.3.3. Tính hiện thực của các quan hệ pháp luật, được thể hiện ở nhiều yếu tố như: năng lực chủ thể của chủ thể pháp luật; tính hợp pháp, hợp lý, khả thi của quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể; và tính đa dạng của chủ thể. 2.3.4. Kết quả của hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể, được đánh giá qua tính hợp hiến, hợp pháp của hành vi; tính tích cực chủ động của chủ thể và ý nghĩa kinh tế - xã hội mà hành vi mang lại. 12 2.4. NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN 2.4.1. Yếu tố kinh tế Cụ thể là các điều kiện vật chất và trình độ phát triển kinh tế, cơ chế quản lý của nhà nước đều có tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới các thành tố, phạm vi, phương pháp điều chỉnh của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. Các giới hạn, nội dung của quyền và tự do của cá nhân được mở rộng, đòi hỏi pháp luật phải có thay đổi phù hợp; sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế dẫn đến những thay đổi về đối tượng, phương pháp điều chỉnh và sự vận hành của các phương tiện pháp luật trong cơ chế ĐCPL. 2.4.2. Yếu tố chính trị Các phương tiện pháp luật cơ bản của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân luôn bị tác động, ảnh hưởng trực tiếp của quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trước hết, Hiến pháp là văn bản phản ánh tương quan giữa các lực lượng, giai cấp trong xã hội, chỉ đạo qúa trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thứ hai, ở nước ta, đường lối, chính sách của đảng cầm quyền có vai trò định hướng, tác động đến tất cả các thành tố trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước. Thứ ba, sự trưởng thành của cá nhân về năng lực làm chủ bản thân và xã hội là điều kiện quan trọng cho việc hoàn thiện các thiết chế dân chủ, hoàn thiện cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. 2.4.3. Tác động của đạo đức, tín ngưỡng, truyền thống lịch sử văn hóa và các quy phạm xã hội khác Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân luôn hướng đến việc đề cao các giá trị khách quan, phổ biến của cá nhân. Đó là các giá trị phải được xây dựng và phát triển trên nền tảng các giá trị đạo đức. Tín ngưỡng, tôn giáo theo thời gian trở thành đặc trưng của nền văn hoá dân tộc, quyết định nội dung, phương thức vận hành của các phương tiện pháp luật trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. Ngoài ra, các quy phạm xã hội khác, đặc biệt là quy phạm của các tổ chức xã hội có tác động quan trọng bổ sung, hỗ trợ cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. Việc nhận thức đầy đủ các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân, giúp chúng ta có quan điểm toàn diện hơn trong quá trình nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân ở nước ngoài. 13 Chương 3 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân trong nhà nước kiểu mới ra đời từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, có đặc điểm: Thứ nhất, quá trình phát triển của cơ chế ĐCPL gắn liền với lịch sử lập hiến của dân tộc và qúa trình phát triển của hệ thống pháp luật; Thứ hai, thời điểm ra đời của hiến pháp luôn gắn liền với sự bắt đầu của những thay đổi lớn trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân; Thứ ba, nếu so với thời điểm lịch sử của dân tộc thì những thay đổi lớn trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân thường có “độ trễ”. Theo đó, quá trình phát triển của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân được chia thành 3 giai đoạn: 3.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959 Đây là giai đoạn đầu tiên của một nhà nước kiểu mới cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân thời kỳ này có đặc điểm: Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân đề cao chủ quyền nhân dân, các quyền và tự do cá nhân, độc lập dân tộc, dân chủ. Hệ thống QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân hướng đến xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước kiểu mới, hoàn thiện thể chế thực hiện các QCD. Thủ tục áp dụng, hình thức và hiệu lực của các văn bản áp dụng pháp luật, nhìn chung khá đơn giản, bảo đảm tính nhanh chóng, kịp thời trong điều kiện thời chiến. Tính hiện thực của các QHPL được bảo đảm bởi tính phù hợp của pháp luật. Kết quả hành vi thực hiện pháp luật được củng cố bởi tính tích cực của các chủ thể, quyết định thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ. 3.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980  Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân đã có những thay đổi quan trọng phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.  Hệ thống các QFPL được ban hành một cách chủ động và có kế hoạch, phạm vi điều chỉnh của pháp luật được mở rộng. Thẩm quyền, thủ tục, hình thức áp dụng pháp luật được quy định chặt chẽ hơn mang lại thay đổi về chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật; Tính hiện thực của các QHPL 14 được củng cố và mở rộng bằng các bảo đảm về điều kiện kinh tế, chính trị xã hội, tư tưởng. Hành vi thực hiện pháp luật được các chủ thể pháp luật được củng cố bởi tinh thần tự nguyện, chủ động và tích cực mang lại những thành tựu tích cực trong công cuộc đấu tranh thống nhất tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. 3.1.3. Giai đoạn 1980 đến 1992 Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong Hiến pháp 1980 là sự tiếp tục hoàn thiện nguyên tắc tập quyền XHCN, quyền làm chủ tập thể và các mục tiêu của CNXH trong Hiến pháp 1959. Hệ thống QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong giai đoạn này có nhiều thay đổi vượt lên trên các tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong Hiến pháp 1980. Hoạt động áp dụng pháp luật trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân đã phát triển về tính hiệu lực, hiệu quả với sự ra đời của nhiều văn bản QFPL về thủ tục, trình tự, thẩm quyền. QHPL trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân phát triển trong sự đa dạng.  Đồng thời, kết quả của hành vi thực hiện pháp luật được thúc đẩy bởi tính tích cực của các chủ thể và được hỗ trợ nhờ những chính sách cải cách, đổi mới kịp thời 3.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến nay Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, đã thể hiện rõ hơn chủ quyền tối cao của nhân dân. Hệ thống QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân có sự phát triển nhằm hiện thực hoá các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân. Chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật cũng được cải thiện, nhờ những thay đổi về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật và cơ chế giám sát bảo đảm tính công khai, minh bạch, đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện. Các QHPL trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân, nhìn chung, có sự phát triển đa dạng, tính hiện thực cao. Tính tích cực, tự giác thực hiện hành vi pháp luật của các chủ thể xuất phát từ nhận thức của cá nhân về vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, các giá trị lớn của xã hội. 3.2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.2.1. Hệ thống các nguyên tắc, quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân - Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong Hiến pháp năm1992 sửa đổi là phù hợp với thể chế chính trị của nước ta 15 và xu hướng phát triển của thế giới. Chế độ kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường được quy định phù hợp với yêu cầu phát triển, bảo đảm tính hiện thực của QCN, QCD, mục tiêu của CNXH. Bên cạnh những kết quả đạt được, các quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân còn bộc lộ những hạn chế nhất định: Thứ nhất, chưa phản ánh được đầy đủ chủ quyền tối cao của nhân dân; Thứ hai, chưa phản ánh được tính khách quan của QCN; Thứ ba, cơ chế bảo đảm tính tối cao của các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân còn thiếu hiệu quả. - Hệ thống QFPL cụ thể điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân, đã phát triển toàn diện và đồng bộ đáp ứng yêu cầu của xã hội, với những thay đổi về thủ tục ban hành văn bản QFPL và các quy định về công tác pháp điển hoá, cơ chế kiểm tra, kiểm soát văn bản QFPL. Kỹ thuật pháp lý cũng được nâng lên một cách đáng kể, bảo đảm tính ổn định, minh bạch, thống nhất của hệ thống các QFPL. Tuy nhiên, HTPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân còn nhiều bất cập: Việc xây dựng pháp luật chủ yếu vẫn phản ánh ý chí, lợi ích của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền; một số QCD theo Hiến pháp chưa được tôn trọng và thực hiện đầy đủ do thiếu hoặc bất cập về cơ sở pháp lý; Tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước, dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm làm giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; Nhiều QFPL chưa phù hợp với các điều kiện thực tiễn gây khó khăn cho cá nhân thực hiện quyền của mình; Tư duy “quản chặt” thời kỳ tập trung quan liêu, dẫn đến tính phức tạp của bộ máy và hệ thống thể chế. 3.2.2. Chất lượng của hoạt động áp dụng pháp luật Cùng với sự hoàn thiện của bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật được kiểm soát chặt chẽ hơn, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, nhiều văn bản áp dụng pháp luật còn bất hợp pháp, hợp lý, thủ tục áp dụng pháp luật còn phức tạp, mất nhiều thời gian, chưa kịp thời, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, xã hội và nhà nước, xâm phạm các QCN, QCD mà Hiến pháp đã ghi nhận. 3.2.3. Tính hiện thực của quan hệ pháp luật thực hiện mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân Tính hiện thực của QHPL được bảo đảm bởi quyền tự định đoạt của cá nhân được tôn trọng và ý thức pháp luật của cá nhân được nâng cao. Đồng 16 thời, hệ thống các QFPL coi trọng việc bảo vệ, phát huy các giá trị cá nhân và hướng tới thực hiện các giá trị xã hội, đã tạo động lực cho cá nhân tham gia vào các QHPL. Tuy nhiên, các QHPL thời kỳ này cũng bộc lộ không ít những bất cập ảnh hướng đến tính hiện thực của QHPL như: sự phát triển của nền kinh tế thị trường thiếu kiểm soát chặt chẽ, đã phát sinh các hành vi gian dối, lừa đảo; hạn chế về ý thức pháp luật và sự phức tạp của thủ tục pháp lý, làm cho chủ thể pháp luật không tuân thủ đầy đủ pháp luật khi thực hiện quyền của mình; quyết định áp dụng pháp luật không rõ ràng, không khả thi làm cho QHPL phát sinh khó thực hiện; Sự thiếu ổn định của HTPL, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các chủ thể 3.2.4. Hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể trong mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân Tính tích cực, chủ động của các chủ thể pháp luật trong việc thực hiện hành vi pháp lý đã được cải thiện, kết quả hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật trong MQH giữa nhà nước và cá nhân đã mang lại những thành tựu đáng kể trong việc bảo vệ và phát huy các QCN, QCD, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên có thể thấy, kết quả hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể cũng còn nhiều tồn tại. Hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trên tất cả các lĩnh vực xã hội với số lượng không nhỏ, xâm phạm an ninh, an toàn, tự do cá nhân; Tính tích cực của chủ thể bị hạn chế bởi tính phức tạp của HTPL, chưa tạo được động lực cho cá nhân; hiệu quả thấp của các chính sách an sinh xã hội, năng xuất lao động chưa cao. Nguyên nhân của những bất cập trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân được xác định: Thứ nhất, những hạn chế trong nhận thức về MQH giữa nhà nước và cá nhân; Thứ hai, cơ chế bảo hiến chưa thực sự hiệu quả làm cho các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân được thực thi một cách hạn chế trong hệ thống pháp luật, quá trình tổ chức thực thi pháp luật và bảo vệ pháp luật; Thứ ba, bất cập về quy trình làm luật và chất lượng của đại biểu Quốc hội là nguyên nhân dẫn đến tính thiếu thống nhất, đồng bộ và phù hợp của hệ thống QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân; Thứ tư, quá trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước chưa theo kịp yêu cầu của xã hội; Thứ năm, vị trí, vai trò của toà án nhân dân trong tổ chức bộ máy nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu của nhà nước pháp 17 quyền XHCN trong việc bảo vệ công lý và QCN; Thứ sáu, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế; Thứ bảy, quá trình chuyển đổi và hội nhập có tác động mạnh mẽ tới các chuẩn mực đạo đức, giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Chương 4 NHỮNG YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN 4.1.1. Yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Chủ quyền nhân dân phải được phát huy trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng nâng cao năng lực xây dựng thể chế, năng lực dự báo và hiệu quả điều hành trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các vấn đề là mặt trái của nền kinh tế thị trường, phải được giải quyết một cách hiệu quả song song với các chính sách phát triển kinh tế. - Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách phải được hoàn thiện để tháo gỡ mọi rào cản, tạo thuận lợi giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. - Trong nền kinh tế thị trường, cần hạn chế sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đến các quan hệ thị trường, phát huy tối đa năng lực cá nhân, vai trò tự điều tiết của xã hội, bằng việc thừa nhận rộng rãi các loại hình tổ chức mang tính chất tự nguyện, như hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội kinh doanh bất động sản,... 4.1.2. Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Vấn đề hoàn thiện cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân phải được đặt trong MQH giữa các thiết chế trong hệ thống chính trị để phát huy tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân với nhà nước và xã hội bằng dân chủ trực tiếp và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. 18 Bảo đảm tính tối cao của pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và bị kiểm soát bởi pháp luật. Nhà nước và cá nhân là những chủ thể bình đẳng, khi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của cá nhân, nhà nước và xã hội đều phải chịu trách nhiệm; đề cao QCN, QCD với tính chất là những giá trị khách quan mà nhà nước có trách nhiệm ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. 4.1.3. Yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế Việt Nam cần chủ động, tích cực hơn nữa trong việc tiếp cận, kế thừa các giá trị phổ biến của nhân loại về dân chủ, nhân quyền và xây dựng nền kinh tế thị trường, NNPQ trong điều kiện đặc thù của Việt Nam. Cùng với việc tiếp thu các giá trị nhân loại, cần giữ vững đặc thù về thể chế chính trị, quan tâm xây dựng, bảo vệ và phát huy nền văn hoá tiến tiến, đậm đà bản sắc của dân tộc, gìn giữ các giá trị xã hội, lòng tự tôn, tự hào dân tộc. 4.2. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN 4.2.1. Quán triệt các quan điểm của Đảng và Hiến pháp năm 2013 trong việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân Quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng về “mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nguồn lực con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”, hoàn thiện các hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. Các quyền làm chủ trực tiếp của công dân trong Hiến pháp năm 2013 phải được thể chế hoá đầy đủ và phát huy có hiệu qủa trong thực tiễn. Đồng thời, thể chế hoá nguyên tắc QLNN là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftt_co_che_dieu_chinh_phap_luat_moi_quan_he_giua_nha_nuoc_va_ca_nhan_o_viet_nam_hien_nay_2632_1917193.pdf
Tài liệu liên quan