Cơ chế ĐCPL là một trong những vấn đề quan trọng trong hệ thống
kiến thức cơ bản của khoa học pháp lý. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của
cơ chế ĐCPL, do sự khác biệt về cách tiếp cận và những nguyên nhân khác,
vẫn có những ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế ĐCPL: Có quan điểm
đồng nhất tác động pháp luật với điều chỉnh pháp luật; Có quan điểm cho
rằng ĐCPL gồm phương thức điều chỉnh pháp luật và phương thức điều
chỉnh hành vi, chưa chú trọng đến yếu tố cầu thành; Có quan điểm cho rằng,
Cơ chế chứa đựng 2 nội dung là cấu trúc của một chỉnh thể và phương thức
vận hành của chỉnh thể, từ đó định nghĩa“Cơ chế ĐCPL là hệ thống các
phương tiện pháp luật có MQH mật thiết, tác động qua lại với nhau trong
một thể thống nhất theo một quá trình nhất định để điều chỉnh các quan hệ
xã hội với sự bảo đảm của nhà nước nhằm đạt được mục đích xác định”.
Chúng tôi nhất trí với quan điểm này và cho rằng, định nghĩa này đã phản
ánh được một cách toàn diện tính chất, đặc điểm và nội hàm của khái niệm.
Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân là một dạng của cơ chế
ĐCPL nói chung, có thể định nghĩa như sau: Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà
nước và cá nhân là hệ thống các phương tiện pháp luật có MQH mật thiết
với nhau trong một thể thống nhất, được vận hành theo những nguyên tắc,
quá trình được pháp luật quy định để điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá
nhân với sự bảo đảm của nhà nước nhằm đạt được những mục đích xác định
27 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quá trình phát triển của xã hội. Sự phát triển
của nhận thức con người về tự nhiên, xã hội và về bản thân mình là một quá
trình. Chính khát vọng về quyền được sống, được tự do, hạnh phúc, an toàn
và phát triển của mỗi người đã thúc đẩy mọi người mong muốn có nhà nước
và đi đến thỏa thuận chung, thành lập ra nhà nước và MQH giữa nhà nước
và cá nhân xuất hiện theo quy luật đó.
* Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là MQH mật thiết và phụ
thuộc lẫn nhau, xuất phát từ những nhu cầu khách quan và chủ quan, từ mục
đích của việc xác lập và điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân, từ tính
chất, đặc điểm và trách nhiệm xã hội của mỗi chủ thể, giữa nhà nước và cá
nhân có MQH rất mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau, được biểu hiện ở nhiều
nội dung và hình thức khác nhau. Vì vậy, khi xem xét MQH giữa nhà nước
và cá nhân phải đặt nhà nước và cá nhân trong sự tác động qua lại và phụ
thuộc lẫn nhau. Dưới góc độ hình thức pháp lý, MQH giữa nhà nước và cá
nhân là MQH bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý.
* MQH giữa nhà nước và cá nhân có tính phong phú, đa dạng có thể
phân định chúng thành những nhóm quan hệ cơ bản có nội dung là các quyền
và nghĩa vụ, bao gồm: quan hệ nhà nước và cá nhân liên quan đến việc điều
chỉnh và thực hiện quyền con người; quan hệ nhà nước và cá nhân liên quan
đến việc điều chỉnh và thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
quan hệ nhà nước và cá nhân liên quan đến việc điều chỉnh và thực hiện chủ
quyền nhân dân; quan hệ nhà nước và cá nhân thông qua chủ thể thứ ba là
các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và tôn giáo.
* MQH giữa nhà nước và cá nhân được thể hiện chủ yếu dưới hình
thức các QHPL với đặc thù riêng về chủ thể, khách thể và nội dung
2.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN
2.2.1. Khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa
nhà nước và cá nhân
Cơ chế ĐCPL là một trong những vấn đề quan trọng trong hệ thống
kiến thức cơ bản của khoa học pháp lý. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của
cơ chế ĐCPL, do sự khác biệt về cách tiếp cận và những nguyên nhân khác,
vẫn có những ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế ĐCPL: Có quan điểm
đồng nhất tác động pháp luật với điều chỉnh pháp luật; Có quan điểm cho
9
rằng ĐCPL gồm phương thức điều chỉnh pháp luật và phương thức điều
chỉnh hành vi, chưa chú trọng đến yếu tố cầu thành; Có quan điểm cho rằng,
Cơ chế chứa đựng 2 nội dung là cấu trúc của một chỉnh thể và phương thức
vận hành của chỉnh thể, từ đó định nghĩa“Cơ chế ĐCPL là hệ thống các
phương tiện pháp luật có MQH mật thiết, tác động qua lại với nhau trong
một thể thống nhất theo một quá trình nhất định để điều chỉnh các quan hệ
xã hội với sự bảo đảm của nhà nước nhằm đạt được mục đích xác định”.
Chúng tôi nhất trí với quan điểm này và cho rằng, định nghĩa này đã phản
ánh được một cách toàn diện tính chất, đặc điểm và nội hàm của khái niệm.
Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân là một dạng của cơ chế
ĐCPL nói chung, có thể định nghĩa như sau: Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà
nước và cá nhân là hệ thống các phương tiện pháp luật có MQH mật thiết
với nhau trong một thể thống nhất, được vận hành theo những nguyên tắc,
quá trình được pháp luật quy định để điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá
nhân với sự bảo đảm của nhà nước nhằm đạt được những mục đích xác định.
2.2.2. Nội dung, đặc điểm của cơ chế điều chỉnh pháp luật mối
quan hệ giữa nhà nước và cá nhân
2.2.2.1. Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và
cá nhân có cấu trúc gồm các phương tiện pháp luật cơ bản có mối quan hệ
mật thiết với nhau trong một thể thống nhất
Thứ nhất, hệ thống QFPL, xét ở góc độ chung, là cơ sở hình thành nên
quy chế pháp lý của cá nhân, bao gồm các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp
lí của cá nhân, các bảo đảm cho việc thực hiện chúng, được thể hiện ở hệ
thống QPPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân bao gồm:(1) Hệ
thống QPPL điều chỉnh các QHPL giữa nhà nước và cá nhân trong lĩnh vực
quyền con người; (2) Hệ thống QPPL điều chỉnh các QHPL giữa nhà nước
và cá nhân trong lĩnh vực quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; (3) Hệ
thống QPPL điều chỉnh các QHPL giữa nhà nước và cá nhân trong lĩnh vực
bảo đảm và phát huy chủ quyền nhân dân;(4) Hệ thống QPPL điều chỉnh các
QHPL giữa nhà nước và cá nhân thông qua chủ thể thứ ba là các tổ chức
kinh tế, xã hội, tôn giáo.
Trong đó, QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân, không chỉ
chứa đựng các khuôn mẫu mô hình hành vi cụ thể mà còn thể hiện thành các
nguyên tắc chung, được quy định chủ yếu bằng Hiến pháp
Thứ hai, văn bản áp dụng pháp luật trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà
nước và cá nhân giữ vai trò là phương tiện pháp luật để cụ thể hoá quy phạm
10
pháp luật thành quyền và nghĩa vụ hay một biện pháp chế tài cụ thể, hoặc để
xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một sự kiện pháp lý.
Thứ ba, QHPL trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân là
một loại hình QHPL đặc biệt thể hiện ở tính chất của QHPL, tính xác định
của các bên chủ thể và tính chất phức tạp của các QHPL này.
Thứ tư, hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể trong MQH giữa nhà
nước và cá nhân là hình vi do chính các chủ thể xác lập chứ không phải do
nhà nước. Kết quả của hành vi quyết định cơ chế ĐCPL đã hoàn thành hay
cần chuyển sang giai đoạn truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Các phương tiện pháp luật này có MQH mật thiết, tương tác vận hành
theo những nguyên tắc, quy luật xác định. Vì vậy, nghiên cứu cơ chế ĐCPL
MQH giữa nhà nước và cá nhân phải có quan điểm biện chứng, khách quan,
toàn diện trong cấu trúc tổng thể.
2.2.2.2. Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và
cá nhân được vận hành theo những nguyên tắc, quá trình nhất định
Sự vận hành của cơ chế ĐCPL hiện nay được chỉ đạo bởi các nguyên
tắc: (1) Đề cao vai trò và giá trị của Hiến pháp và luật, thừa nhận Hiến
pháp và luật giữ vai trò tối thượng trong đời sống nhà nước và xã hội. Việc
xây dựng và thực hiện cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân phải
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. (2) Đề cao chủ quyền nhân dân, bảo đảm
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. (3)
Tôn trọng quyền con người, quyền công dân; bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. (4) Quyền
công dân không tác rời nghĩa vụ công dân. (5) Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật. (6) Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ.
Quá trình vận hành theo một quy trình gồm ba giai đoạn, là giai
đoạn thiết lập khuôn mẫu hành vi; giai đoạn cá biệt hoá khuôn mẫu hành
vi; Giai đoạn các quyền và nghĩa vụ pháp lý được hiện thực hoá. Với
tính chất đặc thù của mình, cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá
nhân đòi hỏi phải được vận hành một cách linh hoạt nhưng chặt chẽ
bằng các cấp độ, phương thức khác nhau, nhằm bảo đảm tính thống nhất
cao của cơ chế.
11
2.2.3. Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước
và cá nhân được nhà nước bảo đảm nhằm đạt được những mục đích
xác định
Sự bảo đảm của nhà nước là điều kiện quan trọng cho sự vận hành
của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. Bao gồm các hoạt động
ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. Đồng thời, với
vai trò là một bên trong MQH giữa nhà nước và cá nhân, nhà nước là chủ thể
đồng thời cũng là đối tượng của ĐCPL, nhà nước phải thực hiện đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
2.3. CÁC TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN CỦA
CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ
NƯỚC VÀ CÁ NHÂN
Mức độ hoàn thiện của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân
được phản ánh qua mức độ hoàn thiện của mỗi phương tiện pháp luật
2.3.1. Mức độ hoàn thiện của hệ thống các nguyên tắc, quy phạm
pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân Trước hết,
được đánh giá qua mức độ hoàn thiện của các nguyên tắc điều chỉnh MQH
giữa nhà nước và cá nhân, thể hiện ở mức độ bao quát được các tư cách của
cá nhân trong MQH với nhà nước; mức độ phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội, truyền thống lịch sử văn hoá quốc gia và xu hướng phát triển của văn
hoá, văn minh nhân loại tối cao của hiến pháp và hiệu quả của cơ chế bảo
hiến; Thứ hai, được đánh giá ở mức độ hoàn thiện của hệ thống QFPL cụ thể
điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân, thể hiện ở tính toàn diện,
đồng bộ, phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ thống QFPL điều chỉnh
MQH giữa nhà nước và cá nhân.
2.3.2. Chất lượng của hoạt động áp dụng pháp luật Được đánh giá
ở tính hợp pháp, hợp lý và kịp thời của văn bản áp dụng pháp luật trong cơ
chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân.
2.3.3. Tính hiện thực của các quan hệ pháp luật, được thể hiện ở
nhiều yếu tố như: năng lực chủ thể của chủ thể pháp luật; tính hợp pháp,
hợp lý, khả thi của quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể; và tính
đa dạng của chủ thể.
2.3.4. Kết quả của hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể, được
đánh giá qua tính hợp hiến, hợp pháp của hành vi; tính tích cực chủ động của
chủ thể và ý nghĩa kinh tế - xã hội mà hành vi mang lại.
12
2.4. NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN CƠ CHẾ ĐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN
2.4.1. Yếu tố kinh tế
Cụ thể là các điều kiện vật chất và trình độ phát triển kinh tế, cơ chế
quản lý của nhà nước đều có tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới các thành tố,
phạm vi, phương pháp điều chỉnh của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và
cá nhân. Các giới hạn, nội dung của quyền và tự do của cá nhân được mở
rộng, đòi hỏi pháp luật phải có thay đổi phù hợp; sự thay đổi về cơ chế quản
lý kinh tế dẫn đến những thay đổi về đối tượng, phương pháp điều chỉnh và
sự vận hành của các phương tiện pháp luật trong cơ chế ĐCPL.
2.4.2. Yếu tố chính trị
Các phương tiện pháp luật cơ bản của cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà
nước và cá nhân luôn bị tác động, ảnh hưởng trực tiếp của quan hệ lợi ích
giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trước hết, Hiến pháp là văn bản
phản ánh tương quan giữa các lực lượng, giai cấp trong xã hội, chỉ đạo qúa
trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thứ hai, ở nước ta, đường
lối, chính sách của đảng cầm quyền có vai trò định hướng, tác động đến tất
cả các thành tố trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước. Thứ ba, sự trưởng
thành của cá nhân về năng lực làm chủ bản thân và xã hội là điều kiện quan
trọng cho việc hoàn thiện các thiết chế dân chủ, hoàn thiện cơ chế ĐCPL
MQH giữa nhà nước và cá nhân.
2.4.3. Tác động của đạo đức, tín ngưỡng, truyền thống lịch sử văn
hóa và các quy phạm xã hội khác
Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân luôn hướng đến việc đề
cao các giá trị khách quan, phổ biến của cá nhân. Đó là các giá trị phải được
xây dựng và phát triển trên nền tảng các giá trị đạo đức. Tín ngưỡng, tôn giáo
theo thời gian trở thành đặc trưng của nền văn hoá dân tộc, quyết định nội
dung, phương thức vận hành của các phương tiện pháp luật trong cơ chế
ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. Ngoài ra, các quy phạm xã hội khác,
đặc biệt là quy phạm của các tổ chức xã hội có tác động quan trọng bổ sung,
hỗ trợ cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân.
Việc nhận thức đầy đủ các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến cơ chế
ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân, giúp chúng ta có quan điểm toàn
diện hơn trong quá trình nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện cơ
chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân ở nước ngoài.
13
Chương 3
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ
GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP
LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN TỪ NĂM 1945
ĐẾN NAY
Cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân trong nhà nước kiểu
mới ra đời từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, có đặc điểm: Thứ nhất,
quá trình phát triển của cơ chế ĐCPL gắn liền với lịch sử lập hiến của dân
tộc và qúa trình phát triển của hệ thống pháp luật; Thứ hai, thời điểm ra đời
của hiến pháp luôn gắn liền với sự bắt đầu của những thay đổi lớn trong cơ
chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân; Thứ ba, nếu so với thời điểm
lịch sử của dân tộc thì những thay đổi lớn trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà
nước và cá nhân thường có “độ trễ”. Theo đó, quá trình phát triển của cơ chế
ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân được chia thành 3 giai đoạn:
3.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959
Đây là giai đoạn đầu tiên của một nhà nước kiểu mới cơ chế ĐCPL
MQH giữa nhà nước và cá nhân thời kỳ này có đặc điểm:
Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân đề cao chủ
quyền nhân dân, các quyền và tự do cá nhân, độc lập dân tộc, dân chủ. Hệ
thống QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân hướng đến xây dựng,
hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước kiểu mới, hoàn thiện thể chế thực hiện
các QCD. Thủ tục áp dụng, hình thức và hiệu lực của các văn bản áp dụng
pháp luật, nhìn chung khá đơn giản, bảo đảm tính nhanh chóng, kịp thời trong
điều kiện thời chiến. Tính hiện thực của các QHPL được bảo đảm bởi tính phù
hợp của pháp luật. Kết quả hành vi thực hiện pháp luật được củng cố bởi tính
tích cực của các chủ thể, quyết định thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ.
3.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980
Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân đã có
những thay đổi quan trọng phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
mới. Hệ thống các QFPL được ban hành một cách chủ động và có kế hoạch,
phạm vi điều chỉnh của pháp luật được mở rộng. Thẩm quyền, thủ tục, hình
thức áp dụng pháp luật được quy định chặt chẽ hơn mang lại thay đổi về
chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật; Tính hiện thực của các QHPL
14
được củng cố và mở rộng bằng các bảo đảm về điều kiện kinh tế, chính trị
xã hội, tư tưởng. Hành vi thực hiện pháp luật được các chủ thể pháp luật
được củng cố bởi tinh thần tự nguyện, chủ động và tích cực mang lại những
thành tựu tích cực trong công cuộc đấu tranh thống nhất tổ quốc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
3.1.3. Giai đoạn 1980 đến 1992
Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong Hiến
pháp 1980 là sự tiếp tục hoàn thiện nguyên tắc tập quyền XHCN, quyền làm
chủ tập thể và các mục tiêu của CNXH trong Hiến pháp 1959. Hệ thống
QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong giai đoạn này có
nhiều thay đổi vượt lên trên các tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc điều chỉnh
MQH giữa nhà nước và cá nhân trong Hiến pháp 1980. Hoạt động áp dụng
pháp luật trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân đã phát triển về
tính hiệu lực, hiệu quả với sự ra đời của nhiều văn bản QFPL về thủ tục, trình
tự, thẩm quyền. QHPL trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân
phát triển trong sự đa dạng. Đồng thời, kết quả của hành vi thực hiện pháp
luật được thúc đẩy bởi tính tích cực của các chủ thể và được hỗ trợ nhờ
những chính sách cải cách, đổi mới kịp thời
3.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến nay
Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong Hiến
pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, đã thể hiện rõ hơn chủ quyền tối cao
của nhân dân. Hệ thống QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân có
sự phát triển nhằm hiện thực hoá các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà
nước và cá nhân. Chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật cũng được cải
thiện, nhờ những thay đổi về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật
và cơ chế giám sát bảo đảm tính công khai, minh bạch, đơn giản, nhanh
chóng, thuận tiện. Các QHPL trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá
nhân, nhìn chung, có sự phát triển đa dạng, tính hiện thực cao. Tính tích cực,
tự giác thực hiện hành vi pháp luật của các chủ thể xuất phát từ nhận thức
của cá nhân về vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của cá nhân, các giá trị lớn của xã hội.
3.2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI
QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Hệ thống các nguyên tắc, quy phạm pháp luật điều chỉnh mối
quan hệ giữa nhà nước và cá nhân
- Các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân trong
Hiến pháp năm1992 sửa đổi là phù hợp với thể chế chính trị của nước ta
15
và xu hướng phát triển của thế giới. Chế độ kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo
dục, khoa học, công nghệ và môi trường được quy định phù hợp với yêu
cầu phát triển, bảo đảm tính hiện thực của QCN, QCD, mục tiêu của
CNXH. Bên cạnh những kết quả đạt được, các quan điểm, tư tưởng,
nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân còn bộc lộ những
hạn chế nhất định: Thứ nhất, chưa phản ánh được đầy đủ chủ quyền tối
cao của nhân dân; Thứ hai, chưa phản ánh được tính khách quan của
QCN; Thứ ba, cơ chế bảo đảm tính tối cao của các nguyên tắc điều chỉnh
MQH giữa nhà nước và cá nhân còn thiếu hiệu quả.
- Hệ thống QFPL cụ thể điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và cá
nhân, đã phát triển toàn diện và đồng bộ đáp ứng yêu cầu của xã hội, với
những thay đổi về thủ tục ban hành văn bản QFPL và các quy định về công
tác pháp điển hoá, cơ chế kiểm tra, kiểm soát văn bản QFPL. Kỹ thuật pháp
lý cũng được nâng lên một cách đáng kể, bảo đảm tính ổn định, minh bạch,
thống nhất của hệ thống các QFPL. Tuy nhiên, HTPL điều chỉnh MQH giữa
nhà nước và cá nhân còn nhiều bất cập: Việc xây dựng pháp luật chủ yếu vẫn
phản ánh ý chí, lợi ích của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền;
một số QCD theo Hiến pháp chưa được tôn trọng và thực hiện đầy đủ do
thiếu hoặc bất cập về cơ sở pháp lý; Tình trạng chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước, dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm
làm giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; Nhiều QFPL chưa phù
hợp với các điều kiện thực tiễn gây khó khăn cho cá nhân thực hiện quyền
của mình; Tư duy “quản chặt” thời kỳ tập trung quan liêu, dẫn đến tính phức
tạp của bộ máy và hệ thống thể chế.
3.2.2. Chất lượng của hoạt động áp dụng pháp luật
Cùng với sự hoàn thiện của bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật,
thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật được kiểm soát chặt chẽ hơn,
bảo đảm tính công khai, minh bạch trong áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, nhiều văn bản áp dụng pháp luật còn bất
hợp pháp, hợp lý, thủ tục áp dụng pháp luật còn phức tạp, mất nhiều thời
gian, chưa kịp thời, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, xã hội và nhà nước,
xâm phạm các QCN, QCD mà Hiến pháp đã ghi nhận.
3.2.3. Tính hiện thực của quan hệ pháp luật thực hiện mối quan hệ
giữa nhà nước và cá nhân
Tính hiện thực của QHPL được bảo đảm bởi quyền tự định đoạt của cá
nhân được tôn trọng và ý thức pháp luật của cá nhân được nâng cao. Đồng
16
thời, hệ thống các QFPL coi trọng việc bảo vệ, phát huy các giá trị cá nhân
và hướng tới thực hiện các giá trị xã hội, đã tạo động lực cho cá nhân tham
gia vào các QHPL. Tuy nhiên, các QHPL thời kỳ này cũng bộc lộ không ít
những bất cập ảnh hướng đến tính hiện thực của QHPL như: sự phát triển
của nền kinh tế thị trường thiếu kiểm soát chặt chẽ, đã phát sinh các hành vi
gian dối, lừa đảo; hạn chế về ý thức pháp luật và sự phức tạp của thủ tục
pháp lý, làm cho chủ thể pháp luật không tuân thủ đầy đủ pháp luật khi thực
hiện quyền của mình; quyết định áp dụng pháp luật không rõ ràng, không
khả thi làm cho QHPL phát sinh khó thực hiện; Sự thiếu ổn định của HTPL,
tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các chủ thể
3.2.4. Hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể trong mối quan
hệ giữa nhà nước và cá nhân
Tính tích cực, chủ động của các chủ thể pháp luật trong việc thực hiện
hành vi pháp lý đã được cải thiện, kết quả hành vi thực hiện pháp luật của
các chủ thể pháp luật trong MQH giữa nhà nước và cá nhân đã mang lại
những thành tựu đáng kể trong việc bảo vệ và phát huy các QCN, QCD, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên có thể thấy, kết quả hành vi
thực hiện pháp luật của các chủ thể cũng còn nhiều tồn tại. Hành vi vi phạm
pháp luật xảy ra trên tất cả các lĩnh vực xã hội với số lượng không nhỏ, xâm
phạm an ninh, an toàn, tự do cá nhân; Tính tích cực của chủ thể bị hạn chế
bởi tính phức tạp của HTPL, chưa tạo được động lực cho cá nhân; hiệu quả
thấp của các chính sách an sinh xã hội, năng xuất lao động chưa cao.
Nguyên nhân của những bất cập trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà
nước và cá nhân được xác định: Thứ nhất, những hạn chế trong nhận thức về
MQH giữa nhà nước và cá nhân; Thứ hai, cơ chế bảo hiến chưa thực sự hiệu
quả làm cho các nguyên tắc điều chỉnh MQH giữa nhà nước và cá nhân được
thực thi một cách hạn chế trong hệ thống pháp luật, quá trình tổ chức thực thi
pháp luật và bảo vệ pháp luật; Thứ ba, bất cập về quy trình làm luật và chất
lượng của đại biểu Quốc hội là nguyên nhân dẫn đến tính thiếu thống nhất,
đồng bộ và phù hợp của hệ thống QFPL điều chỉnh MQH giữa nhà nước và
cá nhân; Thứ tư, quá trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước chưa theo
kịp yêu cầu của xã hội; Thứ năm, vị trí, vai trò của toà án nhân dân trong tổ
chức bộ máy nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu của nhà nước pháp
17
quyền XHCN trong việc bảo vệ công lý và QCN; Thứ sáu, chất lượng của
đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế; Thứ bảy, quá trình chuyển đổi và hội
nhập có tác động mạnh mẽ tới các chuẩn mực đạo đức, giá trị văn hoá truyền
thống của dân tộc.
Chương 4
NHỮNG YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ
GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN
4.1.1. Yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
- Chủ quyền nhân dân phải được phát huy trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước theo hướng nâng cao năng lực xây dựng thể chế, năng
lực dự báo và hiệu quả điều hành trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các
vấn đề là mặt trái của nền kinh tế thị trường, phải được giải quyết một cách
hiệu quả song song với các chính sách phát triển kinh tế.
- Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách phải được hoàn thiện để tháo
gỡ mọi rào cản, tạo thuận lợi giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất.
- Trong nền kinh tế thị trường, cần hạn chế sự can thiệp trực tiếp của
nhà nước đến các quan hệ thị trường, phát huy tối đa năng lực cá nhân, vai
trò tự điều tiết của xã hội, bằng việc thừa nhận rộng rãi các loại hình tổ chức
mang tính chất tự nguyện, như hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội kinh doanh
bất động sản,...
4.1.2. Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Vấn đề hoàn thiện cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân
phải được đặt trong MQH giữa các thiết chế trong hệ thống chính trị để
phát huy tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân với nhà nước và xã hội bằng
dân chủ trực tiếp và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, dựa trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
18
Bảo đảm tính tối cao của pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật và bị kiểm soát bởi pháp luật. Nhà nước và cá nhân là những chủ thể
bình đẳng, khi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của cá nhân, nhà
nước và xã hội đều phải chịu trách nhiệm; đề cao QCN, QCD với tính chất là
những giá trị khách quan mà nhà nước có trách nhiệm ghi nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm.
4.1.3. Yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập nâng
cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế
Việt Nam cần chủ động, tích cực hơn nữa trong việc tiếp cận, kế thừa
các giá trị phổ biến của nhân loại về dân chủ, nhân quyền và xây dựng nền
kinh tế thị trường, NNPQ trong điều kiện đặc thù của Việt Nam. Cùng với
việc tiếp thu các giá trị nhân loại, cần giữ vững đặc thù về thể chế chính trị,
quan tâm xây dựng, bảo vệ và phát huy nền văn hoá tiến tiến, đậm đà bản sắc
của dân tộc, gìn giữ các giá trị xã hội, lòng tự tôn, tự hào dân tộc.
4.2. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN
4.2.1. Quán triệt các quan điểm của Đảng và Hiến pháp năm 2013
trong việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà
nước và cá nhân
Quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng về “mở rộng dân chủ, phát huy
tối đa nguồn lực con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là
mục tiêu của sự phát triển”, hoàn thiện các hình thức dân chủ trực tiếp và
gián tiếp trong cơ chế ĐCPL MQH giữa nhà nước và cá nhân. Các quyền
làm chủ trực tiếp của công dân trong Hiến pháp năm 2013 phải được thể chế
hoá đầy đủ và phát huy có hiệu qủa trong thực tiễn. Đồng thời, thể chế hoá
nguyên tắc QLNN là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát trong việc thực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_co_che_dieu_chinh_phap_luat_moi_quan_he_giua_nha_nuoc_va_ca_nhan_o_viet_nam_hien_nay_2632_1917193.pdf