Nội dung Đảng lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường
Nội dung Đảng lãnh đạo CTBVMT là những công việc Đảng phải làm
trong một giai đoạn nhất định nhằm giữ cho môi trường trong lành, bảo11
đảm sự tồn tại, phát triển của mỗi người dân, cả dân tộc Việt Nam và bảo
đảm sự phát triển toàn diện đất nước. Nội dung ấy, gồm:
Một là, Đảng xây dựng các nghị quyết, chỉ thị xác định rõ mục tiêu
chung, mục tiêu cụ thể, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể về
BVMT.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa nghị quyết, chỉ thị của
Đảng về BVMT thành pháp luật, pháp lệnh của Nhà nước, các chương trình
dự án quốc gia về BVMT để thực hiện trong toàn xã hội và chỉ đạo các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện.
Ba là, Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực môi trường
Bốn là, Đảng lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là
cấp ủy trực thuộc Trung ương cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
BVMT và tổ chức thực hiện.
Năm là, Đảng lãnh đạo phát huy vai trò của cơ quan nhà nước, MTTQ
và các đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế,
các tổ chức xã hội và nhân dân thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về BVMT.
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 592 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- chức năng, nhiệm vụ,
vai trò và đặc điểm
2.1.1.1. Chức năng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chức năng của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo chính trị. Tức
là, Đảng đề ra đường lối cách mạng, lãnh đạo tổ chức thực hiện và tiến hành
7
công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm. Đảng không
can thiệp, không bao biện làm thay công việc của Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị - xã hội, cũng không buông lỏng lãnh
đạo các tổ chức này. Đảng lãnh đạo là để phát huy tính chủ động, sáng tạo
và vai trò của các tổ chức này, trong thực hiện thắng lợi Cương lĩnh và
đường lối chính trị, các nghị quyết, quyết định của Đảng.
2.1.1.2. Nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Một là, Đảng lãnh đạo các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và các tổ chức khác, trong đó trọng
tâm là lãnh đạo Nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt
coi trọng lãnh đạo Nhà nước.
Ba là, Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó lãnh đạo
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm.
2.1.1.3. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay
Thứ nhất, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò rất quan
trọng đối với việc xây dựng HTCT vững mạnh, hoạt động hiệu quả.
Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò quyết định
việc giữ vững và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.
2.1.1.4. Đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền trong
nền chính trị nhất nguyên.
Hai là, Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế.
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền đang tự đổi mới,
tự chỉnh đốn mạnh mẽ; Nhà nước ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
8
Bốn là, số lượng đảng viên của Đảng xuất thân từ giai cấp công nhân
tuy đã được cải thiện, song tỷ lệ còn thấp, việc phát triển những đảng trong
công nhân còn nhiều khó khăn.
Năm là, hoạt động của nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên hiện
nay vẫn còn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm lịch sử dân tộc, con người
Việt Nam truyền thống và phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ
Đảng lãnh đạo các cuộc chiến tranh chống xâm lược và thời kỳ thực hiện cơ
chế hành chính tập trung, bao cấp trước đây.
2.1.2. Môi trường và bảo vệ môi trường nước ta hiện nay
2.1.2.1. Khái niệm về môi trường
Môi trường là toàn bộ những cái của tự nhiên, gồm: đất, nước,
không khí, vi sinh vật, động vật, môi sinh, hệ sinh thái và những cái do con
người tạo ra, tác động đến sự tồn tại, phát triển của con người và các sinh
vật khác.
2.1.2.2. Vai trò của môi trường ở nước ta
Một là, môi trường là một trong những yếu tố quyết định sự sống,
phát triển của con người và dân tộc Việt Nam.
Hai là, môi trường có vai trò to lớn đối với việc duy trì và phát triển
hệ sinh thái.
Ba là, môi trường có vai trò rất to lớn và quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế.
Bốn là, môi trường có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã
hội và sự ổn định chính trị của các địa phương và đất nước.
2.1.2.3. Đặc điểm môi trường ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, môi trường ở nước ta có khí hậu nhiệt đới, gió mùa.
Thứ hai, môi trường ở nước ta có những đặc thù của vùng, miền, tạo
nên sự đa dạng, phong phú.
Thứ ba, môi trường ở nước ta có diện tích biển tương đối lớn và rừng
đa dạng, phong phú
Thứ tư, môi trường ở nước ta đang chịu hậu quả nặng nề của sự biến
đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng cao.
Thứ năm, môi trường ở nước ta đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.
9
2.1.3. Bảo vệ môi trường nước ta hiện nay - khái niệm, nội dung
và phương pháp
2.1.3.1. Khái niệm bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là toàn bộ hoạt động của tổ chức, con người về giữ
gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố
môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường;
khai thác, sử dụng hợp lý TNTN nhằm giữ gìn môi trường trong lành, bảo
đảm sức khỏe và chất lượng sống của nhân dân, góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và hội nhập quốc tế,
phát triển đất nước.
2.1.3.2. Nội dung bảo vệ môi trường nước ta hiện nay
Thứ nhất, ngăn ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường
Thứ hai, kịp thời phát hiện, khắc phục sự cố môi trường ở các khu vực
môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái, nhất là ở những nơi môi trường bị ô
nhiễm, suy thoái nghiêm trọng.
Thứ ba, nắm chắc các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và khai
thác hợp lý, bảo vệ và duy trì sự đa dạng sinh học
Thứ tư, tích cực, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ năm, giữ gìn vệ sinh chung, bảo vệ, giữ gìn và tôn tạo cảnh quan
môi trường.
2.1.3.3. Phương pháp bảo vệ môi trường nước ta
Một là, BVMT bằng nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về BVMT (phương pháp chính sách, pháp luật).
Hai là, BVMT bằng giáo dục, tuyên truyền, vận động, thuyết phục
nhân dân, cơ quan, tổ chức và nhất là các đơn vị sản xuất, kinh doanh tác
động trực tiếp đến môi trường về BVMT (phương pháp giáo dục)
Ba là, giám định chính xác thiệt hại từ ô nhiễm môi trường do cá nhân
và đơn vị gây nên buộc tổ chức này đền bù thỏa đáng những thiệt hại đó
(phương pháp hành chính).
Bốn là, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động gây ô nhiễm,
hủy hoại môi trường; xây dựng môi trường trong lành (phương pháp xây để
chống ô nhiễm, hủy hoại môi trường).
10
Năm là, Đảng lãnh đạo BVMT bằng việc phát huy mạnh mẽ của các
tổ chức trong HTCT, nhân dân, đặc biệt là Nhà nước (phương pháp sử dụng
sức mạnh của HTCT).
Sáu là, hợp tác quốc tế về BVMT (phương pháp sử dụng sức mạnh
trong nước kết hợp với sức mạnh quốc tế).
2.1.4. Công tác bảo vệ môi trường
2.1.4.1. Quan niệm về công tác bảo vệ môi trường
Công tác BVMT là những hoạt động của Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội; như, xây dựng tổ chức bộ máy BVMT; xây dựng hoàn
thiện pháp luật về BVMT; đầu tư ngân sách cho công tác BVMT; giáo dục,
tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức và ý thức của mỗi người
dân về vai trò của môi trường và công tác BVMT; thanh tra kiểm tra, giám
sát và xử lý những đơn vị, tổ chức, cá nhân vi phạm BVMT, nhằm giữ cho
môi trường trong lành, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mỗi người dân,
cả dân tộc Việt Nam và đảm bảo cho sự phát triển toàn diện đất nước
2.1.4.2. Nội dung công tác bảo vệ môi trường
Thứ nhất, xây dựng, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về môi trường
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật BVMT
Thứ ba, đầu tư tài chính cho CTBVMT
Thứ tư, tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về BVMT
Thứ năm, tuyên truyền, vận động cá nhân, tổ chức, cộng đồng chung
tay, góp sức BVMT
2.2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC TA - KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG THỨC
2.2.1. Khái niệm Đảng lãnh đạo bảo vệ môi trường
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTBVMT là toàn bộ hoạt động của
Đảng, như: xây dựng, ban hành các nghị quyết, chỉ thị về BVMT; quán triệt,
tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức đảng và
đảng viên, các tổ chức trong HTCT, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và nhân
dân theo quy định làm cho môi trường trong lành, cân bằng, bền vững.
2.2.2. Nội dung Đảng lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường
Nội dung Đảng lãnh đạo CTBVMT là những công việc Đảng phải làm
trong một giai đoạn nhất định nhằm giữ cho môi trường trong lành, bảo
11
đảm sự tồn tại, phát triển của mỗi người dân, cả dân tộc Việt Nam và bảo
đảm sự phát triển toàn diện đất nước. Nội dung ấy, gồm:
Một là, Đảng xây dựng các nghị quyết, chỉ thị xác định rõ mục tiêu
chung, mục tiêu cụ thể, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể về
BVMT.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa nghị quyết, chỉ thị của
Đảng về BVMT thành pháp luật, pháp lệnh của Nhà nước, các chương trình
dự án quốc gia về BVMT để thực hiện trong toàn xã hội và chỉ đạo các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện.
Ba là, Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực môi trường
Bốn là, Đảng lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là
cấp ủy trực thuộc Trung ương cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
BVMT và tổ chức thực hiện.
Năm là, Đảng lãnh đạo phát huy vai trò của cơ quan nhà nước, MTTQ
và các đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế,
các tổ chức xã hội và nhân dân thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về BVMT.
2.2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ
môi trường
* Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT là toàn bộ các
cách thức, hình thức, phương pháp, quy chế, quy định, quy trình, phong
cách, lề lối làm việcmà Đảng sử dụng để tác động vào Nhà nước, MTTQ
và các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và
nhân dân nhằm thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về BVMT.
* Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT, gồm:
Một là, Đảng lãnh đạo bằng các nghị quyết, chỉ thị và định hướng chủ
trương, chính sách lớn về BVMT.
Hai là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng phát huy vai trò của Nhà nước.
Ba là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận
động thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về BVMT.
Bốn là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng công tác tổ chức, cán bộ hoạt
động trong lĩnh vực môi trường và trực tiếp làm CTBVMT.
12
Năm là, Đảng lãnh đạo CTBVMT thông qua cấp ủy, tổ chức đảng,
đảng viên, nhất là cấp ủy trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về BVMT.
Sáu là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng việc phát huy vai trò của
MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp
thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về BVMT.
Bảy là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng công tác kiểm tra, giám sát.
Chương 3
CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN
VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
3.1.1. Ưu điểm
Thứ nhất, bộ máy quản lý nhà nước về BVMT từng bước được
kiện toàn.
Thứ hai, hệ thống pháp luật về BVMT ngày càng được hoàn thiện.
Thứ ba, nguồn ngân sách nhà nước cho CTBVMT ngày càng tăng.
Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về BVMT có
chuyển biến tích cực.
Thứ năm, CTBVMT có sự chung tay, góp sức của cộng đồng dân cư.
3.1.2. Những hạn chế
Thứ nhất, hệ thống quản lý nhà nước về BVMT chưa đủ mạnh, đội
ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa yếu.
Thứ hai, hệ thống pháp luật về BVMT còn nhiều bất cập.
Thứ ba, nhận thức và ý thức BVMT của lãnh đạo một số cấp, ngành,
chính quyền địa phương, doanh nghiệp và nhân dân chưa thật đầy đủ.
Thứ tư, kinh phí đầu tư cho CTBVMT còn khiêm tốn.
13
Thứ năm, việc tuyên truyền, vận động, phát huy vai trò của MTTQ,
các tổ chức chính trị - xã hội, cá nhân, tổ chức và nhân dân tham gia BVMT
còn nhiều hạn chế, bất cập.
3.2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.2.1. Ưu điểm
3.2.1.1. Về nội dung lãnh đạo
Một là, Đảng xây dựng các nghị quyết, chỉ thị xác định rõ mục tiêu
quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể về BVMT.
Hai là, Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy
và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực môi trường.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa nghị quyết của Đảng về
CTBVMT thành pháp luật, pháp lệnh của Nhà nước; các chương trình, dự
án Quốc gia về BVMT để thực hiện trong toàn xã hội và chỉ đạo các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện
Bốn là, Đảng lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là
cấp ủy trực thuộc Trung ương cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
CTBVMT và tổ chức thực hiện
Năm là, Đảng lãnh đạo phát huy vai trò của cơ quan nhà nước, MTTQ
các đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế,
các tổ chức xã hội thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về BVMT.
3.2.1.2. Về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc bảo vệ
môi trường
Một là, Đảng lãnh đạo bằng nghị quyết, chỉ thị, và định hướng, chủ
trương lớn về BVMT.
Hai là, Đảng lãnh đạo CTBVMT thông qua phát huy vai trò Nhà nước
Ba là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận
động thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về BVMT.
Bốn là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng công tác tổ chức, cán bộ hoạt
động trong lĩnh vực môi trường và trực tiếp làm CTBVMT.
Năm là, Đảng lãnh đạo CTBVMT thông qua cấp ủy, các tổ chức đảng,
đảng viên, nhất là cấp ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng về CTBVMT.
14
Sáu là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng việc phát huy vai trò của
MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp
và nhân dân thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTBVMT.
Bảy là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện.
3.2.2. Những hạn chế, khuyết điểm
3.2.2.1. Về nội dung lãnh đạo
Một là, Đảng chưa kịp thời trong việc xác định nhiệm vụ cụ thể của
các tổ chức chính trị - xã hội và nhiệm vụ cụ thể từng vùng trong
CTBVMT; nghị quyết, chỉ thị của Đảng chưa chỉ ra cụ thể các chỉ tiêu cần
đạt được của các loại môi trường
Hai là, Đảng chưa thật quyết liệt trong việc định hướng Nhà nước sửa
đổi Luật Môi trường trong khi có nhiều nội dung của Luật không phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn; một số loại môi trường vẫn còn thiếu các văn bản
quy phạm pháp luật hướng dẫn, quy định dẫn đến việc triển khai gặp nhiều
khó khăn.
Ba là, hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về môi trường vẫn còn bất
cập, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ; đội ngũ cán bộ ở một số lĩnh vực
còn thiếu; chưa được đào tạo trình độ cao, chuyên môn sâu về CTBVMT.
Bốn là, nhận thức của các cấp ủy về CTBVMT chưa đầy đủ; công tác
lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị về CTBVMT còn
thiếu thường xuyên, quyết liệt, một số nghị quyết, chỉ thị về CTBVMT chưa
được tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc.
Năm là, Đảng lãnh đạo phối hợp thống nhất hành động giữa Nhà nước
và MTTQ các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội có lúc còn thiếu
chặt chẽ, thiếu sự gắn kết. Công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ
và các đoàn thể xã hội đối với những hành vi vi phạm luật pháp về BVMT
chưa đạt hiệu quả cao. Sự phối hợp giữa Bộ Tài nguyên Môi trường và
MTTQ Việt Nam trong việc triển khai các chương trình về BVMT có lúc có
khi còn thiếu đồng bộ, hiệu quả.
3.2.2.2. Về phương thức lãnh đạo
Một là, vấn đề môi trường và BVMT được Đảng ta quan tâm đưa vào
nội dung Văn kiện Đảng nhưng còn mờ nhạt, chưa thật kịp thời, chưa đáp
ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
15
Hai là, hệ thống pháp luật của Nhà nước về BVMT chậm đổi mới,
Luật BVMT năm 2005 có nhiều hạn chế, bất cập so với thực tiễn, song việc
lãnh đạo sửa đổi, bổ sung còn chậm. Luật BVMT năm 2015 quy định giám
định thiệt hại về môi trường mà chưa có quy định về giám định thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bị thiệt hại
Ba là, công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục chưa được thực
hiện thường xuyên, đồng bộ và hiệu quả; phổ biến chính sách, chủ trương,
pháp luật, thông tin về môi trường và phát triển bền vững cho mọi người
chưa đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó, việc tuyên tuyền, vận động để thực
hiện xã hội hóa về BVMT chưa cụ thể nên nhiều lĩnh vực BVMT mặc dù đã
có chủ trương xã hội hóa song sự tham gia của cộng đồng rất hạn chế
Bốn là, việc xây dựng kiện toàn tổ chức bộ máy làm CTBVMT chưa
đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Số lượng các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường chủ yếu tập trung ở Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện.
Còn ở địa phương, chưa có cán bộ chuyên trách CTBVMT.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ chưa được lãnh đạo,
chỉ đạo kịp thời, nên nhìn chung, số lượng cán bộ chuyên trách về môi
trường và phòng chống tội phạm môi trường còn khiêm tốn, chưa đáp ứng
tốt yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Năm là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với chính quyền cùng cấp
về cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị của Đảng về BVMT và lãnh đạo tổ chức
thực hiện tại địa phương chưa thường xuyên; chưa đặt nhiệm vụ BVMT
ngang hàng với các nhiệm vụ khác; việc ban hành và triển khai thực hiện
nghị quyết về BVMT còn chậm. Công tác quản lý, giáo dục và kiểm tra
đảng viên phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong BVMT chưa được
quan tâm.
Sáu là, Đảng lãnh đạo CTBVMT bằng phát huy vai trò MTTQ, các tổ
chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, tổ chức xã hội thực hiện nghị quyết,
chỉ thị của Đảng về BVMT chưa thường xuyên; sự thống nhất hành động
giữa các cơ quan làm CTBVMT với MTTQ các cấp nhiều lúc chưa tốt; việc
tham gia BVMT của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
chưa thật rõ nét.
16
Bảy là, Đảng chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát cấp ủy các cấp,
lãnh đạo, chỉ đạo công tác BVMT; kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên hoạt
động trong chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội về tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của
Đảng về BVMT.Công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng
viên trong việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà
nước về BVMT hiệu quả chưa cao.
3.2.3. Nguyên nhân và những kinh nghiệm
3.2.3.1. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của ưu điểm
Thứ nhất, Đảng xác định vai trò của môi trường và CTBVMT, đề ra
các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTBVMT và quán triệt thực hiện
Thứ hai, Đảng đã nhận thức đúng, sâu sắc tính cấp thiết của
CTBVMT trong giai đoạn hiện nay và xác định đúng nội dung lãnh đạo,
phương thức lãnh đạo đối với CTBVMT.
Thứ ba, phần lớn cấp ủy trực thuộc chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTBVMT, đa số cấp ủy cấp
huyện và cơ sở cấp cơ sở đề cao trách nhiệm, tích cực tìm tòi và thực hiện
các giải pháp thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTBVMT.
Thứ tư, các cơ quan nhà nước về môi trường, BVMT đã xác định rõ
trách nhiệm của mình trong thực thi công vụ; bộ máy quản lý nhà nước về
môi trường được coi trọng, củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt
động; hệ thống pháp luật về BVMT ngày càng hoàn chỉnh.
Thứ năm, phần lớn các tổ chức MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội và nhân dân tích cực tham gia thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng về CTBVMT và pháp luật của Nhà nước về BVMT.
Thứ sáu, nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và đông đảo nhân dân
tích cực tham gia BVMT theo quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về BVMT.
* Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
Thứ nhất, Đảng còn chậm ban hành và chỉ đạo thực hiện một số nghị
quyết, chỉ thị về CTBVMT để giải quyết kịp thời một số vấn đề cấp bách về
môi trường trong thực tiễn.
17
Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt nội dung của nhiều
nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTBVMT trong MTTQ, các tổ chức chính
trị - xã hội và nhân dân chưa thường xuyên đổi mới, hiệu quả không cao.
Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên về
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTBVMT ở nhiều nơi chưa
được coi trọng thường xuyên, thậm chí ở một số nơi bị buông lỏng.
Thứ tư, hệ thống luật pháp về BVMT chưa đầy đủ, đồng bộ là khó
khăn trong xử lý các vi phạm về môi trường; những kẽ hở trong luật pháp
về BVMT dễ bị lợi dụng để hoạt động có vẻ hợp pháp, nhưng thực chất là
hủy hoại môi trường; năng lực của các cơ quan và nhiều cán bộ, công chức
quản lý nhà nước về môi trường chưa đáp ứng tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ năm, khá nhiều người dân, chủ doanh nghiệp trong đó có một số
cán bộ, đảng viên có nhận thức chưa đúng đắn và đầy đủ về CTBVMT nên
chưa xác định đúng trách nhiệm cá nhân của mình trong tham gia BVMT.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo CTBVMT trong giai đoạn hiện nay ở nước ta
là vấn đề rất mới, lớn và rất khó, nên khó tránh khỏi những sai sót.
3.2.3.2. Những kinh nghiệm
Thứ nhất, cùng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng
phải đặc biệt coi trọng lãnh đạo CTBVMT; kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo
phát triển kinh tế với lãnh đạo CTBVMT.
Thứ hai, kịp thời ban hành các nghị quyết chuyên đề của Đảng về
CTBVMT, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách quyết liệt với quyết tâm
chính trị cao để BVMT.
Thứ ba, tăng cường lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật về BVMT và đẩy mạnh việc áp dụng trong thực tiễn sẽ bảo đảm cho
Đảng lãnh đạo CTBVMT đạt kết quả.
Thứ tư, tăng cường lãnh đạo huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp
của HTCT, các tổ chức, và toàn dân, mọi nguồn lực trong và ngoài nước để
BVMT sẽ bảo đảm cho Đảng lãnh đạo CTBVMT đạt hiệu quả cao.
Thứ năm, đặc biệt coi trọng lãnh đạo việc xử lý kịp thời, nghiêm minh
những tổ chức và cá nhân vi phạm Luật BVMT, gây ô nhiễm môi trường.
18
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC TA ĐẾN NĂM 2030
4.1. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC TA ĐẾN NĂM 2030
4.1.1. Những thuận lợi, khó khăn, thách thức
4.1.1.1. Thuận lợi
Một là, công tác xây dựng đảng được Đảng tiếp tục đẩy mạnh và tăng
cường, năng lực lãnh đạo của Đảng được nâng lên, Đảng lãnh đạo
CTBVMT sẽ đạt kết quả lớn hơn
Hai là, các chủ trương, nghị quyết của Đảng về BVMT sẽ hoàn thiện
hơn, nhất là chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp lớn về BVMT trong Văn
kiện Đại hội XII của Đảng sẽ được Đảng cụ thể hóa bằng các nghị quyết,
chỉ thị cụ thể, là cơ sở, tiền đề rất quan trọng để Đảng lãnh đạo CTBVMT
đạt kết quả.
Ba là, Luật BVMT đầy đủ, hoàn thiện hơn, các cơ quan quản lý nhà
nước về BVMT ngày càng hoàn thiện, hoạt động ngày càng hiệu quả.
Bốn là, khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ với những
thành tựu to lớn, đặc biệt cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) sẽ
tạo ra những thiết bị, công cụ hiện đại, bảo đảm tốt hơn việc BVMT; hội
nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng về nhiều mặt, trong đó có hội
nhập, hợp tác quốc tế về BVMT.
Năm là, Đảng có thuận lợi lớn trong thu hút tất cả các tổ chức, lực
lượng và toàn dân tham gia CTBVMT, huy động và phát huy sức mạnh
tổng hợp các tổ chức, lực lượng và toàn dân vào CTBVMT.
Sáu là, những kinh nghiệm về lãnh đạo CTBVMT của Đảng, các cấp
ủy đảng trong những năm qua sẽ được phát huy trong những năm tới.
4.1.1.2. Khó khăn
Thứ nhất, các nghị quyết của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
nhất là Nghị quyết Trung ương 6 và Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII mới
được triển khai thực hiện nên năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, trong
đó có lãnh đạo CTBVMT, chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lý
nhà nước về BVMT chưa thể được nâng lên nhanh chóng trong vài năm tới.
19
Thứ hai, khá nhiều yếu kém trong lãnh đạo CTBVMT của Đảng
những năm qua khó khắc phục triệt để trong một vài năm trước mắt.
Thứ ba, hoạt động hủy hoại môi trường, vi phạm Luật BVMT ngày
càng diễn biến phức tạp, quy mô lớn với các thủ đoạn tinh vi, có tổ chức,
một số hoạt động có sự tiếp tay ngầm của một số cán bộ có chức, có quyền
và cán bộ quản lý nhà nước về BVMT biến chất.
Thứ tư, ngân sách nhà nước dành cho BVMT còn hạn hẹp, việc huy
động ngân sách trong nhân dân để BVMT còn gặp không ít khó khăn.
Thứ năm, hợp tác quốc tế về BVMT về lý thuyết là tất yếu, các nước
phải BVMT ở nước mình và phải hợp tác BVMT ở các nước khác, song
không dễ thuyết phục các nước viện trợ ngân sách đủ lớn để BVMT nước ta.
Thứ sáu, trong những năm tới lãnh đạo CTBVMT trong điều kiện của
sự phát triển kinh tế - xã hội tác động, gây sức ép đối với môi trường; biến
đổi khí hậu, thiên tai, sự cố môi trường tác động không nhỏ đến CTBVMT
của Đảng.
4.1.2. Phương hướng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác bảo vệ môi trường đến năm 2030
Một là, tiếp tục quán triệt và tìm các giải pháp phù hợp với tình hình
môi trường hiện nay, có tính khả thi để thực hiện tốt các nghị quyết chuyên
đề của Đảng về môi trường và BVMT
Hai là, tạo bước chuyển căn bản về phát huy vai trò, tính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_dang_cong_san_viet_nam_lanh_dao_cong_tac_bao.pdf