Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng bảo lãnh
tiền vay tại tổ chức tín dụng:
- Thứ nhất, về việc thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh: xuất phát từ
quan điểm nghĩa vụ trả nợ trước hết thuộc về bên có nghĩa vụ chính. Do
vậy, tác giả cho rằng các quy định về bảo lãnh cũng nên quy định theo
hướng nghĩa vụ trả nợ TCTD trước tiên thuộc về bên vay, chỉ khi nào bên
vay không còn khả năng trả nợ thì bên bảo lãnh mới phải thực hiện nghĩa
vụ trả nợ thay trong phạm vi cam kết.
- Thứ hai, cần quy định về người nhận bảo đảm ngay tình: Đối với
Hội đồng Thẩm phán TANDTC, trước mắt cần có quan điểm chính thức về
việc bảo vệ TCTD nhận bảo đảm ngay tình (có thể ban hành dưới dạng Án
lệ). Về lâu dài phải nghiên cứu, sửa đổi khoản 2 Điều 133 BLDS.
- Thứ ba, cần quy định rõ thêm về trường hợp bảo đảm nghĩa vụ
bảo lãnh:
Tác giả kiến nghị, lần sửa đổi BLDS tiếp theo cần bổ sung thêm
quy định về hậu quả của việc cầm cố, thế chấp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh,
theo hướng, người bảo lãnh dùng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp cho
người nhận bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tức là tài sản
cầm cố, thế chấp không trực tiếp bảo đảm cho nghĩa vụ của người được bảo
lãnh mà để đảm bảo cho nghĩa vụ của người bảo lãnh.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: honganh20 | Lượt xem: 535 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng từ thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của tòa án nhân dân tối cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thẩm 
Các tác giả dẫn lại các quy định của pháp luật, quy định của Pháp 
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để phân tích thẩm quyền kháng 
nghị giám đốc thẩm, chỉ ra một số điểm khác nhau trong quy định của các 
văn bản tố tụng. 
1.3.7.Về thủ tục tái thẩm 
Tác giả Ngô Anh Dũng, Đào Xuân Tiến phân tích luật thực định 
về các căn cứ kháng nghị tái thẩm, bao gồm: mới phát hiện được tình tiết 
quan trọng của vụ án mà đương sự không thể biết được khi giải quyết vụ 
án; kết luận giám định hoặc lời dịch của người phiên dịch rõ ràng không 
đúng sự thật; Thẩm phán, Kiểm sát viên cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án 
hoặc cố tình kết luận trái pháp luật; Bản án hoặc quyết định có hiệu lực mà 
Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy. 
1.3.8.Về thời hạn kháng nghị tái thẩm 
Các văn bản tố tụng đều quy định là một năm kể từ ngày người có 
thẩm quyền kháng nghị tái thẩm phát hiện được những tình tiết là căn cứ tái 
thẩm; Pháp lệnh có quy định thêm là việc kháng nghị không gây thiệt hại 
cho đương sự nào thì không giới hạn về thời gian. 
 1.3.9. Về kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ giải pháp 
hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: 
Các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu ở phần trên, hầu hết 
đều có những kiến nghị về sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật liên quan 
đến giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD 
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 
2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
của Luận án: 
 Có thể nói, tình hình nghiên cứu trong, ngoài nước về chế định bảo 
lãnh là rất sôi động, bằng chứng là có rất nhiều công trình khoa học nghiên 
cứu về vấn đề này. Chưa có công trình nào tiến hành nghiên cứu thực trạng 
giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh thông qua hoạt động giám đốc thẩm, 
tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao 
3. Những kết quả của các công trình nghiên cứu mà tác giả sẽ 
kế thừa: 
8 
Tác giả kế thừa quan điểm, bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối 
nhân, nhưng trong quá trình phát triển nhiều hệ thống đã chấp nhận bảo 
lãnh đối vật; hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập không phải là hợp 
đồng phụ của hợp đồng tín dụng. 
Về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tác giả kế thừa quan điểm cho 
rằng cần giao lại thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các 
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện cho Chánh 
án TAND cấp tỉnh; cần phải rút ngắn thời hạn kháng nghị và không quy định 
các trường hợp được kéo dài đến 05 năm; phải thu phí đối với yêu cầu giám 
đốc thẩm, tái thẩm. 
4. Những vấn đề mà Luận án tiếp tục nghiên cứu: 
Cần phải nghiên cứu để làm thế nào bảo lãnh vẫn giữ bản chất đối 
nhân, đồng thời vẫn có sức hấp dẫn đối với các TCTD; chỉ ra những bất cập 
trong giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh theo thủ tục giám đốc thẩm, 
tái thẩm tại TANDTC. Kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện, nâng cao hiệu 
quả việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại 
TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC. 
5. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu: 
5.1. Lý thuyết nghiên cứu của đề tài: 
- Lý thuyết về hợp đồng nói chung và lý thuyết về hợp đồng bảo 
lãnh tiền vay tại các TCTD nói riêng; lý thuyết về bảo vệ quyền và lợi ích 
của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại các TCTD; Lý 
thuyết về phòng ngừa rủi ro trong bảo lãnh tín dụng ngân hàng; Lý thuyết 
về quyền tự định đoạt của các đương sự, về bảo vệ quyền lợi chính đáng 
của các đương sự trong vụ án; Lý thuyết về Tòa án xét xử đảm bảo công lý, 
công bằng; Lý thuyết về đảm bảo độc lập xét xử của Tòa án. 
5.2.Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu của đề tài 
Câu hỏi thứ nhất, thực trạng hệ thống pháp luật về bảo lãnh tiền 
vay tại TCTD đã hoàn chỉnh chưa, những vấn đề gì còn thiếu quy định của 
pháp luật? Quy định nào không hợp lý? 
Với giả thuyết, cơ sở lý luận của pháp luật bảo lãnh tiền vay tại các 
TCTD ở Việt Nam chưa đầy đủ, toàn diện; Các quy định của pháp luật về 
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại các TCTD còn bất cập, thiếu sót, tản mạn, 
chưa có tính hệ thống; 
Câu hỏi thứ hai, những vấn đề thường xảy ra tranh chấp trong hợp 
đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD? Nguyên nhân của những tranh chấp này? 
9 
Giả thuyết, các nội dung thường xảy ra tranh chấp liên quan đến 
phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh; biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh; thời điểm 
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nguyên nhân do chưa có đầy đủ các quy định 
của pháp luật; chưa thỏa thuận rõ trong quá trình giao kết hợp đồng. 
Câu hỏi thứ ba, thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp 
đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đã 
hoàn thiện chưa, còn có điểm gì bất cập? 
Giả thuyết, pháp luật tố tụng dân sự về giám đốc thẩm, tái thẩm còn 
chưa hoàn thiện, đặc biệt là về thời hạn giám đốc thẩm, tái thẩm, về thẩm 
quyền kháng nghị và về căn cứ để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, tái 
thẩm. 
Câu hỏi thứ tư, thực tiễn quy trình giải quyết tranh chấp hợp đồng 
bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại 
TANDTC đã phù hợp chưa, cần khắc phục những hạn chế nào? 
Giả thuyết, thủ tục tiếp nhận, thụ lý đơn đề nghị còn chưa hợp lý; 
các bước tiến hành nghiên cứu, báo cáo vụ án chưa thật sự khoa học. 
5.3. Hƣớng tiếp cận nghiên cứu: 
Hướng tiếp cận nghiên cứu của Luận án này được thực hiện từ các 
quan điểm của pháp luật Tố tụng dân sự về giám đốc thẩm, tái thẩm và 
pháp luật dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng biện pháp bảo lãnh. 
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 
Trong chương này, tác giả tiến hành tổng quan các công trình nghiên 
cứu trên các sách, báo, Tạp chí, Đề tài khoa học cấp Bộ, các Luận án Tiến sĩ, 
Luận văn Thạc sĩ, Giáo trình, sách tham khảo, các Hội thảo khoa học, bài viết 
của các tác giả trong và ngoài nước về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên 
quan đến đề tài, kết luận sơ bộ sau: 
Đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm nghĩa 
vụ, nhưng số lượng công trình nghiên cứu riêng biệt về biện pháp bảo đảm 
này là chưa nhiều. Chỉ có hai công trình nghiên cứu chuyên sâu là Luận văn 
Thạc sĩ của chính tác giả và Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Văn Đàm. 
Những công trình nghiên cứu về giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố 
tụng dân sự đều bám sát các quy định của luật thực định. Quá trình sửa đổi 
luật thực định, các quy định về giám đốc thẩm, tái thẩm ít nhiều có thay đổi. 
Chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về giải quyết tranh chấp 
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại 
TANDTC. 
10 
Chƣơng 2 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 
HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG 
THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM 
2.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp hợp đồng bảo lãnh 
tiền vay tại tổ chức tín dụng 
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ 
chức tín dụng 
 Có thể hiểu bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD là người thứ ba có 
thể là cá nhân, tổ chức (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với TCTD cho vay tiền 
(gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho cá nhân, tổ chức 
vay tiền (gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến hạn trả nợ bên được bảo 
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ 
trả tiền. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện 
nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ trả 
tiền. Bên bảo lãnh cũng có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ 
nghĩa vụ trả nợ vay cho bên được bảo lãnh. 
Đặc điểm của bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng: 
Thứ nhất, bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết bảo đảm thực hiện 
nghĩa vụ thay cho người khác, nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc 
thực hiện không đúng nghĩa vụ. 
Thứ hai, Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân: 
Theo cách phân chia của pháp luật thời La Mã cổ đại, hiện nay 
pháp luật dân sự ở một số quốc gia phân chia quyền tài sản thành hai loại cơ 
bản: Một là, quyền cho phép chủ thể chi phối trực tiếp đối với vật mà không 
cần thông qua hành vi của người khác (vật quyền hay còn gọi là quyền đối 
vật); hai là quyền yêu cầu chủ thể khác thực hiện một công việc (trái quyền 
hay còn gọi là quyền đối nhân). 
Thứ ba, quan hệ bảo lãnh tồn tại dưới dạng hợp đồng: Đại đa số 
các nhà khoa học và hệ thống luật thực định cơ bản đã thống nhất được luận 
điểm, bảo lãnh tồn tại dưới dạng hợp đồng. 
Thứ tư, hợp đồng bảo lãnh có tính độc lập tương đối: Mặc dù đối 
tượng của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD chính là nghĩa vụ phát 
sinh từ hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, hợp đồng bảo lãnh không phải là 
hợp đồng phụ mà độc lập với hợp đồng tín dụng. 
11 
Các đặc điểm của bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín 
dụng: Ngoài những đặc điểm chung của biện pháp bảo lãnh như nêu trên, 
bảo lãnh tiền vay tại TCTD còn có một số đặc điểm riêng biệt sau: 
- Thứ nhất, bên nhận bảo lãnh luôn là tổ chức tín dụng: trong 
mối quan hệ làm phát sinh nghĩa vụ (khoản tiền) được bảo đảm, bên cho 
vay tiền là TCTD, nên TCTD sẽ đồng thời là bên nhận bảo đảm và đối với 
quan hệ bảo lãnh thì tổ chức này sẽ là bên nhận bảo lãnh. 
- Thứ hai, nghĩa vụ được bảo lãnh là khoản tiền vay trên cơ sở 
hợp đồng tín dụng: Nghĩa vụ cần bảo lãnh trong mối quan hệ này là 
khoản tiền vay của các cá nhân, tổ chức tại TCTD thông qua hợp đồng tín 
dụng. 
- Thứ ba, bên bảo lãnh là tổ chức, cá nhân không chuyên trong 
hoạt động bảo lãnh: Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả không xem xét 
đối với nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Do vậy, bên bảo lãnh là tổ chức, cá 
nhân không chuyên nghiệp. 
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp đồng bảo lãnh tiền 
vay tại tổ chức tín dụng: 
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể khái niệm tranh chấp hợp 
đồng bảo lãnh như sau, “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD 
là những mâu thuẫn, bất đồng giữa bên bảo lãnh với TCTD, phát sinh trong 
quá trình giao kết, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng 
này”. 
- Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ 
chức tín dụng: 
- Về chủ thể trong quan hệ tranh chấp hợp đồng này: tranh chấp 
hợp đồng bảo lãnh chỉ là tranh chấp giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo 
lãnh; đối với hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD, điểm đặc biệt là bên 
nhận bảo lãnh luôn là TCTD (bên cho vay). 
- Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng 
phát sinh sau khi phát sinh vụ trả nợ của ngƣời đƣợc bảo lãnh: chỉ khi 
xảy ra một trong các điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh thì 
nghĩa vụ bảo lãnh mới phát sinh, khi đó mới xảy ra tranh chấp. 
- Về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái 
thẩm: Căn cứ để người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc 
thẩm, tái thẩm loại tranh chấp này đều có nguyên nhân từ những sai phạm 
về nội dung mà không phải là vi phạm tố tụng. 
12 
- Chƣa có vụ án nào liên quan đến hợp đồng bảo lãnh đƣợc giải 
quyết theo thủ tục rút gọn: Tính đến hết năm 2019 hệ thống Tòa án chưa 
thụ lý, giải quyết bất kỳ vụ án tranh chấp nào loại này theo thủ tục rút gọn. 
2.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng 
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái 
thẩm: 
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng 
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng. 
“Giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD là 
hoạt động của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm giải quyết 
các bất đồng, mâu thuẫn giữa TCTD nhận bảo lãnh và cá nhân, tổ chức 
(bảo lãnh) để tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm xác 
định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh”. 
Đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay 
tại tổ chức tín dụng: 
- Tùy theo điều kiện chủ thể và mục đích của các bên tham gia hợp 
đồng bảo lãnh mà tranh chấp này có thể được xác định là quan hệ dân sự 
hoặc kinh doanh, thương mại. 
 - Chứng cứ trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền 
vay tại tổ chức tín dụng được cung cấp đầy đủ, nội dung rõ ràng: Do đặc 
thù của quan hệ này, bên nhận bảo lãnh luôn là TCTD, nên chứng cứ được 
chuẩn bị đầy đủ, rõ ràng. 
- Được giải quyết đồng thời với tranh chấp hợp đồng tín dụng: 
Hợp đồng bảo lãnh được giải quyết chung trong vụ án yêu cầu thực 
hiện hợp đồng tín dụng, khi đó bên bảo lãnh tham gia tố tụng với tư cách là 
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. 
2.2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của giải quyết tranh chấp hợp 
đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái 
thẩm 
2.2.2.1. Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng 
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: 
Từ các góc độ tiếp cận, có nhiều quan điểm khác nhau về giám đốc 
thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự nói chung và đối với các tranh chấp hợp 
đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD nói riêng. Tuy nhiên, để nhận diện đầy đủ 
bản chất của giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các tranh chấp hợp đồng bảo 
lãnh tiền vay tại TCTD, cần làm rõ về đặc điểm của giám đốc thẩm, tái 
thẩm trong tố tụng dân sự. 
13 
Đặc điểm của giám đốc thẩm, tái thẩm 
Đặc điểm thứ nhất, đối tượng của giám đốc thẩm, tái thẩm là 
những bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật: 
 Các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đó có thể là: Quyết 
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Bản án, quyết định sơ 
thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân các cấp; Quyết định giám đốc thẩm, 
tái thẩm của các Tòa án nhân dân cấp cao. 
Đặc điểm thứ hai, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm xác định 
những sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án; đánh giá 
những căn cứ có chứa đựng tình tiết mới làm thay đổi căn bản nội dung 
quyết định của Tòa án 
Những sai lầm, vi phạm nghiêm trọng trong bản án, quyết định 
của Tòa án đã có hiệu lực có thể là những sai lầm về nội dung hoặc về thủ 
tục tố tụng. 
Đặc điểm thứ ba, việc xét lại bản án, quyết định phải dựa trên 
kháng nghị của người có thẩm quyền. 
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự được tiến hành trên cơ sở 
có kháng nghị của người có thẩm quyền trong thời hạn pháp luật quy định 
đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có 
sai lầm nghiêm trọng. 
2.2.2.2. Nội dung của giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các tranh 
chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng: 
- Về quyền đề nghị giám đốc thẩm: (1) Cơ chế thứ nhất là trong hệ 
thống Tòa án phải tự phát hiện những sai sót để kịp thời giải quyết lại. (2) 
Cơ chế thứ, ngoài việc tự phát hiện của hệ thống Tòa án, các cơ quan, tổ 
chức, cá nhân khác cũng có quyền phát hiện, kiến nghị xem xét lại theo thủ 
tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 
- Về các căn cứ giám đốc thẩm, tái thẩm: Căn cứ giám đốc thẩm, 
tái thẩm là những căn cứ làm cơ sở xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái 
thẩm. Tùy theo hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia trong việc có phân chia 
thành giám đốc thẩm và tái thẩm hay gộp chung trong một thủ tục mà 
những căn cứ này có khác nhau. 
- Về thời hạn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định: 
Thời hạn yêu cầu xem xét lại bản án quyết định có hiệu lực pháp 
luật là khoảng thời gian người có quyền yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm có 
quyền làm đơn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp 
luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 
- Về thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm: 
14 
Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm là quyền hạn xem xét, 
quyết định của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm về vụ án có kháng 
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 
- Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm: 
Luật tố tụng của Việt Nam đang quy định theo hướng Hội đồng xét 
xử giám đốc thẩm có các quyền: Không chấp nhận kháng nghị và giữ 
nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án, 
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết 
định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; Hủy một 
phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật 
để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; 
Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ 
án; Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực 
pháp luật. 
 - Những vấn đề đặc thù trong giải quyết tranh chấp hợp đồng 
bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm so với các 
thủ tục khác: 
- Không cần phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ mà có thể 
đánh giá, quyết định luôn tại Hội đồng xét xử giám đốc thẩm (có thể sửa 
án, không cần hủy để giải quyết lại). 
- Do đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền của TCTD, các bên 
sẵn sàng hòa giải để nhanh chóng kết thúc vụ án. 
- Công tác nghiên cứu, thẩm định hồ sơ của TTV, Lãnh đạo Vụ 
giám đốc kiểm tra và những người có thẩm quyền tiếp theo không mất 
nhiều thời gian. 
- Rất nhiều hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay có liên quan đến 
tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh. 
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 
Khái niệm bảo lãnh cơ bản được thống nhất ở các điểm chính 
như bản chất của bảo lãnh, hình thức tồn tại. Tuy nhiên, vẫn còn có những 
điểm khác biệt, như nghĩa vụ bảo lãnh là liên đới theo luật hay ngược lại. 
Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD là một dạng 
tranh chấp đặc biệt và rất quan trọng, thậm chí còn quan trong hơn việc 
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. 
Giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục đặc biệt, nhằm phát hiện sửa 
chữa những sai sót của bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ 
thẩm, phúc thẩm trong việc áp dụng pháp luật, cũng như những tình tiết 
15 
mới được phát hiện mà trong quá trình giải quyết các cơ quan tiến hành tố 
tụng không thể biết. 
Chƣơng 3 
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM, 
TÁI THẨM ĐỐI VỚI TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN 
VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỪ THỰC TIỄN CỦA TÒA ÁN 
NHÂN DÂN TỐI CAO 
3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp 
hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam: 
 Bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD đều dựa trên các quy định về 
bảo lãnh trong các BLDS 1995, 2005, 2015 và Nghị định 163/2006/NĐ-CP 
ngày 29/12/2006. 
3.1.1. Về hình thức của hợp đồng bảo lãnh: 
Đối với TCTD, cam kết bảo lãnh luôn phải được lập thành văn bản, 
có thể được lập riêng hoặc lập chung trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp 
đồng cầm cố, thế chấp tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh (khoản 1 Điều 
10). 
Các nội dung thường có xảy ra tranh chấp là, hợp đồng không được 
lập đúng với bản chất của quan hệ bảo đảm (quan hệ bảo đảm là bảo lãnh, 
nhưng các bên lại lập hợp đồng thế chấp tài sản của người thứ ba); cam kết 
bảo lãnh không được lập dưới dạng hợp đồng; hợp đồng bảo lãnh có điều 
khoản thỏa thuận biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản cụ thể, 
nhưng hợp đồng này không được công chứng, chứng thực, không đăng ký, 
đăng ký giao dịch bảo đảm.... 
 3.1.2. Về phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh: 
Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả 
thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp 
luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm 
toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại. 
3.1.2.1. Tranh chấp trong trường hợp phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh 
xác định về số lượng: 
Mặc dù trong hợp đồng bảo lãnh các bên thỏa thuận rõ phạm vi 
nghĩa vụ bảo lãnh là một số tiền cụ thể, nhưng lại không nói rõ số tiền này 
là tổng số nghĩa vụ được bảo lãnh hay chỉ là số tiền gốc được bảo lãnh. 
3.1.2.2. Đối với các trường hợp phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh không 
xác định về số lượng: 
16 
 Hết thời hạn giải ngân theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh, 
Ngân hàng và bên vay ký phụ lục hợp đồng gia hạn thời hạn vay thêm 01 
năm để nhận thêm số tiền vay, nhưng không được sự đồng ý của người bảo 
lãnh, nên số tiền phát sinh trong khoảng thời gian của phụ lục hợp đồng 
không nằm trong phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh. 
 Dạng tranh chấp khác là mặc dù trong hợp đồng bảo lãnh các bên 
đã giới hạn thời gian làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng đồng thời có 
thỏa thuận thêm, “các điều kiện chi tiết về việc vay và cho vay số tiền nêu 
trên (con số cụ thể) sẽ được ghi cụ thể trong giấy tờ về nghiệp vụ Ngân 
hàng mà bên vay, bên bảo lãnh và Ngân hàng sẽ ký tại trụ sở Ngân hàng”. 
3.1.2.3. Về vấn đề lãi suất: 
Về lãi chồng lãi: lãi chồng lãi được hiểu là tính lãi trên khoản tiền 
lãi chưa trả. Trong giai đoạn BLDS 2005 có hiệu lực, rất nhiều Tòa án khi 
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng chấp nhận yêu cầu của TCTD để 
tính lãi hoặc phạt đối với số tiền lãi trong hạn mà khách hàng chưa trả. 
Về trách nhiệm phải chia sẻ lãi suất nợ quá hạn do có lỗi trong việc 
không thực hiện nghĩa vụ phát mại tài sản để thu hồi nợ của Ngân hàng: 
bên vay yêu cầu TCTD phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đối với tài sản 
bảo đảm bị hư hỏng, thiệt hại và khoản tiền lãi suất nợ quá hạn do bên nhận 
bảo lãnh không xử lý tài sản để thu hồi nợ, khi nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh. 
3.1.3. Các vấn đề pháp lý của tài sản thế chấp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh: 
 Có nhiều dạng tranh chấp khác nhau liên quan đến tình trạng pháp 
lý của tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng bản chất là người bảo lãnh 
dùng tài sản chung để thế chấp bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh của mình mà 
không được sự đồng ý của đồng sở hữu hoặc tài sản bảo đảm không còn 
thuộc quyền sở hữu của người bảo lãnh; tài sản là nhà và quyền sử dụng đất 
mà người bảo lãnh được hưởng theo quyết định của bản án đã có hiệu lực 
pháp luật, chưa đứng tên đối với tài sản đó nhưng lại dùng để thế chấp bảo 
đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh. Quyền sử dụng đất được cấp cho hộ gia đình, 
nhưng khi thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh không được sự đồng ý 
của toàn bộ thành viên trong Hộ gia đình. Tài sản chung của vợ chồng, 
nhưng chỉ một bên ký hợp đồng thế chấp toàn bộ tài sản bảo đảm nghĩa vụ 
bảo lãnh. 
3.1.3.1. Tranh chấp liên quan đến quan hệ vay thêm : Nội dung 
cơ bản của quan hệ này là người chủ sở hữu tài sản có nhu cầu vay tiền, nên 
nhờ cá nhân, tổ chức khác vay giúp, đồng thời dùng tài sản của mình để bảo 
đảm cho khoản vay đó. Người được nhờ vay số tiền lớn hơn so với số tiền 
người chủ sở hữu tài sản cần vay và giữ lại số tiền chênh lệch. 
17 
3.1.4. Các tranh chấp khác: 
- Ngân hàng thẩm định nhầm tài sản để thế chấp bảo đảm nghĩa vụ 
bảo lãnh: tài sản các bên thỏa thuận dùng để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh là 
khối tài sản A, nhưng khi tiến hành định giá các bên lại định giá nhầm khối 
tài sản B. 
- Bảo lãnh cho nghĩa vụ hình thành trong tương lai: 
- Bảo lãnh có điều kiện: 
Trong một vụ án cụ thể, bên bảo lãnh thế chấp tài sản để bảo đảm 
cho nghĩa vụ bảo lãnh đối với khoản vay tại Ngân hàng, với điều kiện cho 
phép người vay vay bổ sung sau khi tất toán khoản vay trước. 
3.2. Thực trạng pháp luật về xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm 
tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng 
- Về việc phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực 
pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: 
 Theo số liệu thống kê của Vụ Giám đốc kiểm tra II Tòa án nhân 
dân tối cao từ 2015-2019, 100% các vụ án tranh chấp hợp đồng bảo lãnh 
bảo đảm tiền vay tại TCTD bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái 
thẩm đều do đương sự có yêu cầu (có thể gửi đơn trực tiếp hoặc gián tiếp 
thông qua các tổ chức, cá nhân khác). 
- Các quy định về người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc 
thẩm 
So với BLTTDS 2004 sửa đổi năm 2011, BTTDS 2015 có một số 
điểm mới sau: Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh 
không còn thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 
đối với bản án, quyết định có hiệu lực của TAND cấp huyện; thay vào đó 
là thẩm quyền thuộc Chánh án TAND cấp cao và Viện trưởng VKSND cấp 
cao theo lãnh thổ có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp 
huyện và Tòa án cấp tỉnh trong phạm vi lãnh thổ. 
- Về các căn cứ giám đốc thẩm: 
Một là, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với 
những tình tiết khách quan của vụ án, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp 
pháp của đương sự. 
Hai là, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự 
không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích 
hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. 
Ba là, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra 
bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp 
18 
của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước, quyền 
lợi ích của người thứ ba. 
Về thời hạn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định: 
Theo số liệu thống kê thể hiện, các vụ án do Viện trưởng 
VKSNDTC kháng nghị thường có thời hạn kháng nghị ngắn hơn so với 
Chánh án TANDTC. Đại đa số các vụ án do Chánh án TANDTC kháng 
nghị đều có thời hạn trên 02 năm (chiếm 89,4%), và phần nhiều là gần 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tom_tat_luan_an_giai_quyet_tranh_chap_hop_dong_bao_lanh_tien.pdf tom_tat_luan_an_giai_quyet_tranh_chap_hop_dong_bao_lanh_tien.pdf