Tóm tắt Luận án Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Chương 3

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ

NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

3.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN

KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

* Giai đoạn 1945-1959

Giai đoạn này, các thiết chế mang tính nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

chưa được quy định cụ thể trong hiến pháp và pháp luật và trên thực tế. Các phương thức

nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn ít và không đa dạng. Các yếu tố bảo đảm của

cơ chế còn sơ khai. Có thể nói, đây là giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu của cơ

chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

* Giai đoạn 1959-1980

Bối cảnh của đất nước giai đoạn 1959 đến 1975 là đất nước chia làm hai miền với

hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam

thống nhất đất nước; năm 1975 đến 1980 đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH.

Thời kỳ này có một số văn bản luật, nghị quyết, nghị định, thông tư với vai trò là

những bộ phận của yếu tố thể chế được ban hành nhằm hiện thực hóa các quyền của nhân

dân, trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước trong chế độ dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, do

điều kiện thời chiến và đặc điểm tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình Xô viết nên

các yếu tố thể chế, thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước

chưa thực sự được chú trọng xác lập và bảo đảm thực hiện trên thực tế.

* Giai đoạn 1980-1992

Hiến pháp năm 1980 được ban hành ở thời kỳ đất nước thống nhất, cả nước đi lên

chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 1959 đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Ngoài các nguyên tắc và giá trị của các bản hiến pháp trước đó được tiếp tục ghi

nhận, khẳng định, Hiến pháp năm 1980 là bước phát triển mới về thể chế của cơ chế pháp

lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Giai đoạn này thực hiện đường lối đổi mới của

Đảng từ Đại hội VI năm 1986 nên bên cạnh Hiến pháp năm 1980 thì có nhiều chính sách,

pháp luật mới được xây dựng, ban hành để đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước. Trên cơ sở

Hiến pháp và pháp luật quy định, các tổ chính trị xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề

nghiệp cùng các bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội được thiết lập chặt chẽ, hợp lý

hơn giúp cho cơ chế vận hành, hoạt động có hiệu quả hơn.

pdf27 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 563 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m cho việc hoàn thiện và hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Yếu tố thiết chế có vai trò hiện thực hoá quy định của thể chế bằng thiết lập cấu trúc tổ chức và hoạt động tương ứng với cấu trúc hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước. Yếu tố bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế- xã hội cho cơ chế hoạt động có vai trò làm căn cứ cho việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, là nguồn lực để các thiết chế duy trì bộ máy và tổ chức hoạt động, đồng thời là cơ sở và điều kiện để thiết lập, vận hành toàn bộ cơ chế nhằm đạt được mục đích kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước cần phải chú ý đến xây dựng và hoàn thiện cả ba yếu tố trên đồng thời tạo điều kiện để các yếu tố có mối liên hệ, tác động tích cực, phù hợp với nhau trong toàn bộ cơ chế. 2.1.3. Vai trò của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Thứ nhất, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là công cụ, phương tiện pháp lý cơ bản, hiệu quả nhất góp phần bảo đảm cho nhân dân thực sự là người chủ của quyền lực nhà nước. Thứ hai, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là phương tiện góp phần đảm bảo cho tính pháp quyền của nhà nước được tăng cường, nhân tố làm cho nhà nước mạnh. Thứ ba, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có vai trò là phương tiện phát huy dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, thiết lập mối quan 9hệ bình đẳng giữa nhà nước và công dân, tổ chức và cá nhân trước pháp luật, trong nhà nước pháp quyền. Thứ tư, cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước phối hợp với cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước khác hợp thành sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho quyền lực nhà nước được kiểm soát một cách có hiệu lực, hiệu quả. 2.1.4. Mục đích và tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước * Mục đích hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Một là, góp phần đảm bảo cho toàn bộ quyền lực nhà nước được vận hành, sử dụng một cách hiệu quả hơn, ổn định hơn, chính đáng hơn. Hai là, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng chủ thể là nhân dân có mục đích góp phần phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Ba là, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh, thực sự của dân, do dân và vì dân. * Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Một là, nhóm tiêu chí mang tính chất chỉ đạo hoàn thiện nội dung cơ chế, bao gồm các tiêu chí sau: Tiêu chí về tính toàn diện của tất cả các yếu tố cấu thành cơ chế; Tiêu chí về tính toàn diện của tất cả các yếu tố cấu thành cơ chế; Tiêu chí về tính phù hợp về nội dung của cơ chế; Tiêu chí về tính thống nhất về nội dung của cơ chế; Tiêu chí về tính ổn định và ít thay đổi; Tiêu chí về tính dễ dàng, thuận lợi, tối ưu và chi phí thấp. Hai là, nhóm tiêu chí hoàn thiện về hình thức của cơ chế bao gồm các tiêu chí: Tiêu chí công khai, minh bạch, kịp thời và dân chủ; Tiêu chí về kỹ thuật xây dựng và hoàn thiện thể chế, thiết chế của cơ chế. 2.2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 2.2.1. Nội dung hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Thứ nhất, nhân dân kiểm soát việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp Thứ hai, nhân dân kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp Thứ ba, nhân dân kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp Thứ tư, nhân dân kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước của chính quyền địa phương Thứ năm, nhân dân kiểm soát người thực thi quyền lực nhà nước 2.2.2. Phương thức hoạt động của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Một là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp do hiến pháp quy định. 10 Hai là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các tổ chức đại diện như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận... Ba là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thông qua cơ chế " dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Bốn là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các phương tiện truyền thông đại chúng. Các phương tiện truyền thông đại chúng kết hợp với thực hiện tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản là một phương thức quan trọng để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Năm là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo về các việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước theo Điều 30, Hiến pháp năm 2013. Trình tự, thủ tục trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính là những cách thức được quy định theo một trật tự cụ thể do luật định, qua đó nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thuận tiện, hiệu quả. Việc luật hóa phương thức, trình tự, thủ tục có ý nghĩa pháp lý buộc cả chủ thể và đối tượng kiểm soát đều phải tuân thủ nghiêm túc, tránh được tùy tiện, trùng chéo trong thực hiện. Hậu quả pháp lý từ hoạt động nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước có yếu tố xác định tính chịu trách nhiệm của nhà nước trong việc tiếp thu, xử lý những bất cập, thiếu sót, khuyết điểm theo quy định của pháp luật tùy theo mức độ vi phạm, sai phạm. 2.3. CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM 2.3.1. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước một số nước Nghiên cứu cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước (Anh, Pháp Mỹ, Nga, Nhật, các nước, châu Á, Bắc Âu...), có thể rút ra một số điểm chung cơ bản sau đây: 2.3.1.1. Về thể chế - Hầu hết các nước đều khẳng định nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, quyền thiết lập nên quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước; - Ghi nhận đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, nguyên tắc công khai minh bạch hoạt động của nhà nước; - Quy định phương thức bầu cử dân chủ, cạnh tranh người đảm nhiệm chức vụ nhà nước. 2.3.1.2. Về thiết chế - Được thực hiện bằng các đảng phái chính trị đối lập (các đảng phái không cầm quyền) - Được thực hiện thông qua các tổ chức xã hội dân sự - Được thực hiện bằng các phương tiện thông tin đại chúng 11 * Những giá trị tham khảo cho Việt Nam Một là, quyền lập hiến phải luôn luôn thuộc về nhân dân, bằng hiến pháp, nhân dân thiết lập nên nhà nước và giao quyền, ủy quyền quyền lực của mình cho nhà nước. Vì thế, để nhà nước không lạm quyền, nhân dân không mất quyền thì nhân dân phải là chủ thể của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Hai là, bầu cử dân chủ, cạnh tranh để chọn ra người lãnh đạo xứng đáng đại diện cho nhân dân cần được nghiên cứu và áp dụng. Ba là, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế do hiến pháp quy định cần sớm được thể chế hóa bằng các đạo luật và được tổ chức thực hiện trên thực tế kết hợp với việc đề cao thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước và phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng, của các tổ chức xã hội dân sự... Bốn là, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế chính trị, pháp lý của đất nước theo hướng dân chủ, pháp quyền XHCN và xây dựng điều kiện kinh tế xã hội ổn định, phát triển, nâng cao đời sống vật chất, trình độ dân trí, nhận thức pháp luật cho nhân dân. Năm là, những kinh nghiệm, giá trị rút ra từ cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới cần được tham khảo, vận dụng trên cơ sở khoa học, thực tiễn, có chọn lọc, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam. Tiểu kết chương 2: Trên cơ sở làm rõ khái niệm, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế, vai trò, mục đích và tiêu chí của việc hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, Luận án đã đi sâu phân tích nội dung, phương thức, điều kiện bảo đảm vận hành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước; phân tích cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước của một số nước, từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam. Chương 3 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 3.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM * Giai đoạn 1945-1959 Giai đoạn này, các thiết chế mang tính nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được quy định cụ thể trong hiến pháp và pháp luật và trên thực tế. Các phương thức nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước còn ít và không đa dạng. Các yếu tố bảo đảm của cơ chế còn sơ khai... Có thể nói, đây là giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. 12 * Giai đoạn 1959-1980 Bối cảnh của đất nước giai đoạn 1959 đến 1975 là đất nước chia làm hai miền với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; năm 1975 đến 1980 đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Thời kỳ này có một số văn bản luật, nghị quyết, nghị định, thông tư với vai trò là những bộ phận của yếu tố thể chế được ban hành nhằm hiện thực hóa các quyền của nhân dân, trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước trong chế độ dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, do điều kiện thời chiến và đặc điểm tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình Xô viết nên các yếu tố thể chế, thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chưa thực sự được chú trọng xác lập và bảo đảm thực hiện trên thực tế. * Giai đoạn 1980-1992 Hiến pháp năm 1980 được ban hành ở thời kỳ đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 1959 đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ngoài các nguyên tắc và giá trị của các bản hiến pháp trước đó được tiếp tục ghi nhận, khẳng định, Hiến pháp năm 1980 là bước phát triển mới về thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Giai đoạn này thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI năm 1986 nên bên cạnh Hiến pháp năm 1980 thì có nhiều chính sách, pháp luật mới được xây dựng, ban hành để đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước. Trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật quy định, các tổ chính trị xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp cùng các bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội được thiết lập chặt chẽ, hợp lý hơn giúp cho cơ chế vận hành, hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, một số quy định của Hiến pháp chậm hoặc không được luật hóa; hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế, bất cập cả về số lượng và chất lượng khiến việc vận hành cơ chế gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. * Giai đoạn 1992-2012 Hiến pháp năm 1992 ra đời trong bối cảnh đất nước đang trong tiến trình tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Hiến pháp năm 1992 có đặc điểm phân kỳ thành hai giai đoạn: từ 1992 - 2001 và từ 2001 - 2012, do được sửa đổi, bổ sung năm 2001. Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành, hàng loạt các luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật khác ở các cấp được xây dựng để phù hợp với Hiến pháp. Sự thống nhất, đồng bộ của hiến pháp và hệ thống pháp luật là những bảo đảm về thể chế để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành có hiệu quả. Tuy nhiên, thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước giai đoạn này có một số hạn chế, đó là: Chưa quy định thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân; chưa quy định cử tri bãi nhiệm đại biểu dân bầu khi không còn xứng đáng với sự tín 13 nhiệm của nhân dân như thế nào; một số quyền con người, quyền công dân được hiến pháp quy định nhưng chưa được luật hóa nên việc thực hiện gặp nhiều khó khăn... * Giai đoạn 2013 đến nay Hiến pháp năm 2013 quy định " Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" (Khoản 3, Điều 2). Thừa nhận và quy định vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đồng nghĩa với việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 là cơ sở hiến định để tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, thiết chế và các bảo đảm của cơ chế, kết hợp với thực hiện dân chủ trực tiếp, nhân dân có những công cụ, phương tiện cần thiết để tích cực, chủ động thực hiện quyền năng kiểm soát quyền lực nhà nước của mình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chính mình. Tuy nhiên, thực trạng thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước giai đoạn này còn có những hạn chế sau: Một là, các quy định trong hiến pháp, pháp luật về trách nhiệm công khai, minh bạch và hậu quả pháp lý của việc thiếu công khai minh bạch, không bảo đảm quy trình, thủ tục công khai, minh bạch của các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước còn thiếu đồng bộ, không đầy đủ, chế tài không đủ mạnh. Hai là, các quyền của công dân có tính kiểm soát quyền lực nhà nước như: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình chưa được luật hóa đầy đủ, kịp thời khiến việc thực hiện trên thực tế còn tuỳ tiện, hình thức, kém hiệu quả. Ba là, các quy định của pháp luật để nhân dân với tư cách cá nhân công dân có thể kiểm soát được hoạt động tư pháp rất hạn chế, ít khả thi Bốn là, cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân từ khâu hiệp thương lựa chọn ứng cử viên đến lập danh sách ứng cử viên thiếu vắng sự giám sát, tham gia trực tiếp, thực chất của nhân dân. Năm là, nhân dân với tư cách là cá nhân chưa trực tiếp thực hiện được quyền dân chủ trực tiếp trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước về hoạt động lập pháp do pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, không thuận tiện 3.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THIẾT CHẾ VÀ CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ NHÂN DÂN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC, NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ 3.2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các thiết chế cấu thành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước - Đảng Cộng sản Việt Nam Kiểm soát của Đảng là tự kiểm soát quy định ngay trong Điều lệ của Đảng. Theo đó, là cơ chế ủy quyền được thiết lập cơ quan lãnh đạo các cấp thông qua bầu cử trong 14 Đảng và nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nội dung kiểm soát của Đảng chính là nội dung mà Đảng lãnh đạo. Đối tượng kiểm soát của Đảng chính là các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước. Các đảng viên là những người nắm những cương vị lãnh đạo, quản lý của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đoàn thể do đó họ vừa là chủ thể vừa là đối tượng (khách thể) của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước chính là nhân dân kiểm soát sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và đó cũng là nhân dân giám sát Đảng như tinh thần Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 2011, Hiến pháp năm 2013 và Quyết định 218- QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Tuy nhiên, thiết chế Đảng kiểm soát hoạt động của nhà nước chưa được luật của Nhà nước cũng như điều lệ của Đảng quy định cụ thể nên trên thực tế chưa hình thành một thiết chế cấu thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ có Ủy ban kiểm tra của Đảng các cấp thực hiện việc kiểm tra các tổ chức và cá nhân của Đảng vi phạm khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo. Đây chưa phải là một thiết chế Đảng kiểm soát hoạt động quyền lực nhà nước theo tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013. - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có bộ máy chuyên trách công tác từ trung ương đến cấp xã; có ban, tổ công tác Mặt trận ở cơ sở và khu dân cư. Ngoài ra, Mặt trận còn giữ vai trò tổ chức, quản lý, chỉ đạo thiết chế Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng ở cơ sở. Các tổ chức của Mặt trận, thành viên của Mặt trận đều có chức năng, nhiệm vụ chung nhất là: “giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước" và thực hiện " phản biện xã hội". Mặt trận hoạt động theo hiến pháp, pháp luật và điều lệ của Mặt trận. Tuy nhiên, với vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của nhà nước, ngoài quy định của Hiến pháp năm 2013, đến nay chưa một đạo luật nào cụ thể hóa nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội, nên Mặt trận Tổ quốc vẫn chưa thể hiện được đầy đủ tư cách là một thiết chế quan trọng bậc nhất trong cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. - Các tổ chức chính trị - xã hội (1) Công đoàn Việt Nam vừa hoạt động theo hiến pháp, pháp luật vừa hoạt động theo Điều lệ công đoàn Việt Nam, có hệ thống tổ chức như sau: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Liên đoàn lao động cấp tỉnh, thành phố); Liên đoàn lao động quận, huyện; Công đoàn ngành; công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn, với hơn 7,9 triệu đoàn viên và 114.000 Công đoàn cơ sở. Hoạt động của Công đoàn Việt Nam gồm có: Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động thông qua các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do bộ máy của Công đoàn phụ thuộc vào nhà nước và chủ doanh nghiệp cho nên tính độc lập, khách quan trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát còn hạn chế. Công tác cán bộ Công đoàn hầu hết là 15 do " chỉ đạo" " sắp xếp" của tổ chức chính trị hoặc của chủ doanh nghiệp nên tính đại diện cho người lao động không cao. (2) Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Với tính chất là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, thanh niên, Đoàn có hệ thống tổ chức bộ máy rộng khắp từ trung ương đến cơ sở với hơn 6 triệu đoàn viên và gần 7 triệu hội viên Hội liên hiệp thanh niên. Tuy nhiên, trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước thì vai trò còn chưa rõ, kết quả đạt được không nhiều, nhất là việc kiến nghị xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. (3) Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam có hệ thống tổ chức gồm 4 cấp: cấp Trung ương; tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương; huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh và cấp tương đương; xã/phường/thị trấn và tương đương, ở cơ sở có các tổ được hình thành theo địa bàn dân cư. Với lực lượng chiếm trên 50 % dân số và gần 15 triệu hội viên, Hội đã tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia quản lý nhà nước về bình đẳng giới; thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; tham gia xây dựng và giám sát thực hiện các chính sách, pháp luật đối với phụ nữ, gia đình, trẻ em, bình đẳng giới; giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, công chức, viên chức theo pháp luật; đề xuất với nhà nước giải pháp thực hiện các chính sách, pháp luật về phụ nữ; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ khi bị vi phạm... Tuy nhiên, việc thực hiện luật pháp, chính sách bảo đảm quyền lợi chính đáng cho phụ nữ còn hạn chế, hiệu quả chưa cao; một số chủ trương, chính sách được ban hành nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ lại thiếu cơ chế, biện pháp cụ thể, nên kết quả thực hiện thấp. (4) Hội nông dân Việt Nam có trên 7,4 triệu hội viên với gần 90000 chi hội. Thực hiện chức năng tham gia quản lý nhà nước, Hội nông dân Việt Nam đã tham gia giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tuy nhiên, hoạt động của Hội trong việc tham gia quản lý nhà nước còn có những hạn chế đó là: trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ một số tổ chức Hội chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Năng lực cán bộ tham gia xây dựng và phản biện chính sách còn nhiều hạn chế, chưa làm tốt chức năng đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân. (5) Hội cựu chiến binh Việt Nam có hệ thống tổ chức 4 cấp từ trung ương đến cấp xã và tương đương với gần 1,6 triệu hội viên/2,6 triệu cựu chiến binh và trên 1,1 triệu cựu quân nhân sinh hoạt trong 16.000 tổ chức Hội ở cơ sở. Trong những năm qua, Hội cựu chiến binh các cấp đã tích cực, chủ động tham gia quản lý nhà nước như: tổ chức động viên hội viên thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội; tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động giám sát các cơ quan nhà nước trong xây dựng, thực thi các chính sách sau chiến tranh còn 16 thiếu chiều sâu; thực hiện phản biện dự thảo các chính sách, pháp luật có liên quan chưa được nhiều; việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên khi bị vi phạm chưa mạnh... - Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp hoạt động rộng khắp ở tất cả các giới, các ngành nghề, lĩnh vực trong xã hội theo hiến pháp, pháp luật và điều lệ của các tổ chức như: giúp đỡ lẫn nhau, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho hội viên, hội thành viên, ngành, nghề, lĩnh vực; tham gia tư vấn, phản biện, giám định, thẩm định xã hội các chính sách, chương trình, đề án, các dự thảo chính sách, pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước yêu cầu hoặc đặt hàng. Tuy nhiên, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp thể hiện vai trò phản biện độc lập đối với các dự thảo chính sách, pháp luật chưa được nhiều, có nội dung phản biện chưa sâu, có lĩnh vực còn để trống., nhất là các vấn đề liên quan trực tiếp đến người dân. Nhiều tổ chức vẫn phụ thuộc nhiều vào sự bao cấp ngân sách của nhà nước và bị hành chính hóa. Chính sách, pháp luật của nhà nước về lĩnh vực này có nhiều hạn chế, bất cập. - Ban Thanh tra nhân dân là hình thức thực hiện dân chủ cơ sở đồng thời là thiết chế mang tính nhân dân do các tổ chức Mặt trận, Công đoàn tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động nhằm kết hợp chặt chẽ giữa thanh tra nhân dân với thanh tra nhà nước trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các Ban thanh tra nhân dân ở cơ sở còn nhiều hạn chế do cơ chế thiết lập tổ chức, duy trì hoạt động chưa khoa học, hợp lý. Một số nơi hoạt động của Ban thanh thanh tra nhân dân còn hình thức. - Các phương tiện truyền thông đại chúng là thiết chế mang tính chính trị, xã hội rộng rãi. Nhân dân sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để biểu thị ý kiến đến nhà nước. Đó còn là kênh thông tin đa dạng, nhiều chiều cung cấp cho người dân các góc nhìn, các thông tin về xã hội và hoạt động quyền lực nhà nước qua đó nâng cao khả năng làm chủ của mình trong mối quan hệ với nhà nước. Các phương tiện truyền thông đại chúng rộng lớn, đa dạng, có sức hút mạnh và lan toả nhanh, vừa là chủ thể, vừa là công cụ, phương tiện, diễn đàn của nhân dân trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, tính độc lập, khách quan nhiều mặt còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thông tin sự thật, chưa tạo dựng không khí dân chủ, cung cấp phương pháp, cách thức, kinh nghiệm làm chủ cho người dân. 3.2.2. Thực trạng các yếu tố bảo đảm vận hành của cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước * Thực trạng về môi trường dân chủ, pháp quyền của đất nước để vận hành cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Hiện nay, môi trường dân chủ, pháp quyền của nhà nước ta đã đạt được quả đạt được những tiến bộ rõ rệt, điều đó thể hiện trên một số mặt cơ bản sau: 17 Thứ nhất, mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và công dân trong các quan hệ pháp luật cụ thể thể hiện ngày càng bình đẳng hơn về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm. Thứ hai, đề cao trách nhiệm của nhà nước trong việc phục vụ nhân dân; thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền con người, quyền công dân. Thứ ba, ghi nhận nhận đầy đủ phương thức làm chủ quyền lực nhà nước của nhân dân bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Tuy nhiên, thực tế môi trường dân chủ, pháp quyền mới được tạo lập trong các văn bản quy phạm pháp luật và việc vận hành, tổ chức thực hiện còn nhiều biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. * Thực trạng về môi trường dân trí và nhận thức pháp luật của nhân dân để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành có hiệu quả Hiện nay dân trí của nước ta không đồng đều, kiến thức và sự hiểu biết pháp luật của đa số nhân dân còn hạn chế, mức độ nhận thức có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, giữa các dân tộc, tôn giáo với nhau. * Thực trạng về môi trường kinh tế- xã hội để cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước vận hành, hoạt động có hiệu quả Kinh tế, xã hội của nước ta kể từ đổi mới đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một nước kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu nền kinh tế, dân số sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp có tỉ lệ cao, tốc độ đô thị hoá và mức sống người dân ở mức trung bình... * Thực trạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftt_hoan_thien_co_che_phap_ly_nhan_dan_kiem_soat_quyen_luc_nha_nuoc_o_viet_nam_5308_1917198.pdf
Tài liệu liên quan