Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM
2.1. Nhận thức về dân chủ và dân chủ cơ sở
2.1.1. Quan niệm về dân chủ
Dân chủ trước hết là thuộc tính của Nhà nước, trong đó người dân thể hiện
quyền làm chủ của mình, kể cả quyền tạo lập và kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhà
nước có trách nhiệm bảo đảm bằng quyền năng của Nhà nước, thông qua các phương
thức thực hiện quyền lực nhà nước để nhân dân thực hiện các quyền của mình.
Theo cách hiểu thông dụng ở Việt Nam “dân chủ là hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào
các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lý giải “dân chủ” một cách hết sức giản dị, cô đọng và dễ hiểu,
theo đó: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”, “nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Dân chủ, với tính cách là một chế độ, được thực hiện dưới hai hình thức cơ
bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Dân chủ đại diện
Dân chủ trực tiếp
27 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 561 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cứu đề tài luận án
1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Những phân tích về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về dân chủ,
và dân chủ cơ sở trong luận án cho thấy, có thể nghiên cứu, tham khảo, chọn lọc,
và tiếp thu một số kiến thức và quan điểm, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
rất lớn, phong phú và đa dạng, được tiếp cận từ nhiều hướng với các mức độ liên
quan khác nhau
Thứ hai, nhiều vấn đề liên quan đến chủ đề luận án đã được làm sáng tỏ và đề
tài có thể tiếp thu, không cần phải trở lại để phân tích, lập luận làm sáng tỏ thêm.
Thứ ba, nhiều vấn đề trọng yếu liên quan trực diện tới chủ đề nghiên cứu
của luận án chưa được đề cập giải quyết hoặc chưa được giải quyết thấu đáo.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu đề tài luận án
Xuất phát từ sự phân tích thực trạng tình hình nghiên cứu liên quan đến chủ
đề luận án nêu trên, có thể thấy không gian nghiên cứu dành cho luận án còn hết
sức rộng rãi, bao gồm những vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những thay đổi mới trong nhận thức lý luận về dân
chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nhất nguyên chính trị, một Đảng
cộng sản cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm và nội dung của dân chủ cơ sở,
các mối quan hệ phát sinh trong tiến trình dân chủ hoá ở cơ sở (đi từ chủ quyền
nhân dân, quyền con người để xác định các mối quan hệ cơ bản hướng tới đảm
bảo quyền lực nhân dân và quyền con người: mối quan hệ giữa công dân với các
tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và các
thiết chế khác đối với phát huy dân chủ cơ sở).
Thứ ba, nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố hợp thành
của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam.
Thứ tư, nghiên cứu xác lập các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Các tiêu chí cần được
xem xét ở mức độ toàn diện và cụ thể.
9
Thứ năm, nghiên cứu đánh giá toàn diện, tổng thể về quá trình xây dựng,
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và thực trạng cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
Thứ sáu, nghiên cứu dự báo bối cảnh phát huy dân chủ ở Việt Nam trong
giai đoạn tới.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM
2.1. Nhận thức về dân chủ và dân chủ cơ sở
2.1.1. Quan niệm về dân chủ
Dân chủ trước hết là thuộc tính của Nhà nước, trong đó người dân thể hiện
quyền làm chủ của mình, kể cả quyền tạo lập và kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhà
nước có trách nhiệm bảo đảm bằng quyền năng của Nhà nước, thông qua các phương
thức thực hiện quyền lực nhà nước để nhân dân thực hiện các quyền của mình.
Theo cách hiểu thông dụng ở Việt Nam “dân chủ là hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào
các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lý giải “dân chủ” một cách hết sức giản dị, cô đọng và dễ hiểu,
theo đó: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”, “nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Dân chủ, với tính cách là một chế độ, được thực hiện dưới hai hình thức cơ
bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Dân chủ đại diện
Dân chủ trực tiếp
2.1.2. Quan niệm về dân chủ cơ sở và thực hiện dân chủ cơ sở
Dân chủ cơ sở là sự phản ánh vị thế quyền lực của nhân dân trên địa bàn cơ
sở. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối của
Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan. Thực
hiện dân chủ ở cấp xã là toàn bộ quá trình hiện thực hóa các quyền thể hiện sự tham
gia của công dân vào chu trình thực hiện quyền lực tại cơ sở.
Thực hiện dân chủ cơ sở được thông qua bằng nhiều hình thức và phương
pháp khác nhau, cụ thể là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham gia.
Ở Việt Nam, thực hiện dân chủ cơ sở được biểu hiện trước hết ở sự tồn tại và
hoạt động của các thiết chế đại diện của nhân dân, bao gồm Hội đồng nhân dân
(HĐND) cấp xã và các đoàn thể nhân dân.
10
2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ
cơ sở
2.2.1. Khái niệm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là tổng thể các nguyên tắc, thể chế,
thiết chế và các điều kiện đảm bảo, gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp
luật quy định, nhằm xác lập các quyền và khả năng để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ tại cơ sở.
2.2.2. Đặc điểm của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở gắn liền với pháp luật và
điều chỉnh pháp luật.
Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở thể hiện trách nhiệm của
Nhà nước và yêu cầu của người dân trong việc bảo đảm thực thi quyền con người,
quyền công dân tại địa bàn cơ sở.
Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở chỉ vận hành có hiệu quả
trong môi trường dân chủ, pháp quyền của đất nước và trên cơ sở nguyên tắc công
khai, minh bạch của Nhà nước.
Thứ tư, giá trị và năng lực tác động thực tế của cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở phụ thuộc vào nhận thức, khả năng của mỗi cá nhân công dân, trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức và sự tôn trọng, hỗ trợ từ phía xã hội.
Thứ năm, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở mang tính cụ thể và linh
hoạt, nhanh chóng, có tác dụng đảm bảo tính nguyên vẹn của ý chí chính trị của
nhân dân, chuyển tải ý chí chính trị của nhân dân một cách cụ thể và hiệu quả đối
với các vấn đề của địa phương và quốc gia, tạo lập cơ sở để nhân dân trực tiếp kiểm
soát con đường chính trị của bộ máy Đảng và Nhà nước.
2.2.3. Vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là phương tiện pháp lý cơ
bản, hiệu quả nhất bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực thi quyền làm
chủ của nhân dân tại địa bàn cơ sở.
Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có vai trò quan trọng trong
việc củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở, góp phần phát triển kinh
tế xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn cơ sở.
Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở góp phần tạo ra sự đồng
thuận, sự đoàn kết và nhất trí cả về chính trị và tinh thần tại cộng đồng dân cư cơ
bản của xã hội.
Thứ tư, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở giúp kiểm soát được tệ quan
liêu, cục bộ - căn bệnh trầm kha của Nhà nước, của các nhà quản lý, nhất là tại địa
bàn cơ sở.
11
2.3. Các thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
2.3.1. Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở
Nguyên tắc là những định hướng cơ bản được con người đặt ra dựa trên
những quan điểm, tư tưởng nhất định làm nền tảng cho các mối quan hệ xã hội, đòi
hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo nhằm bảo đảm trật tự xã hội.
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một hệ thống gồm các bộ phận cấu
thành có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau vì vậy phải vận hành theo các
nguyên tắc, quy trình nhất định do luật định.
Ở Việt Nam, ghi nhận các nguyên tắc sau:
1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2. Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực
hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
3. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân.
4. Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã.
5. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
2.3.2. Thể chế thực hiện dân chủ cơ sở
Thể chế thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống luật và các quy định khác do
Nhà nước tạo ra hay thừa nhận nhằm xác lập những quyền và khả năng để nhân
dân thực hiện dân chủ tại cơ sở.
2.3.3. Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở
Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở là toàn bộ các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan đến quá trình thực hiện dân chủ cơ sở, được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở pháp luật, góp phần đảm bảo quá trình hiện thực hóa dân chủ tại cơ sở.
2.3.4. Các bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Về cơ bản, các bảo đảm thực hiện hiện dân chủ cơ sở bao gồm:
Thứ nhất, bảo đảm về chính trị
Thứ hai, bảo đảm về pháp lý
Thứ ba, bảo đảm về nguồn lực (nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực)
Thứ tư, bảo đảm về xã hội
2.4. Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là những dấu hiệu,
chuẩn mực dựa vào đó để nhận biết, đánh giá được mức độ đạt được của cơ chế là
tốt hay chưa tốt, đạt hay chưa đạt, thể hiện mức độ tác động của cơ chế đối với việc
hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở. Xác định tiêu chí hoàn thiện cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn trong quá trình xây dựng pháp luật, thúc đẩy quyền dân chủ và tạo lập các
điều kiện thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
12
2.4.1. Tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Tính toàn diện là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống
pháp luật nói chung, của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở nói riêng. Tính
toàn diện là tiêu chuẩn để định lượng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, có ý
nghĩa quan trọng nhằm tiếp tục nghiên cứu để xác định tiêu chuẩn về định tính của
cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở.
2.4.2. Tính đồng bộ của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Tính đồng bộ của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở cần được nhận diện
ở hai mức độ: 1/ Tính đồng bộ bên ngoài, tức là khả năng “đồng hành”, khả năng
tương thích của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở với các hệ thống, các cơ chế
và giá trị xã hội khác được biểu hiện về mặt pháp luật và 2/ Tính đồng bộ giữa các
thành tố bên trong của cơ chế, từ các quy định pháp luật đến thực tiễn pháp luật và
nhận thức pháp luật của xã hội.
2.4.3. Tính phù hợp, khả thi của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Tính phù hợp của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là tiêu chí về nội
dung bên trong của cơ chế. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở được coi là hoàn
thiện phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về mặt nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phát
huy nền dân chủ XHCN.
Thứ hai, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một cách
khách quan. Yêu cầu về tính phù hợp của cơ chế thể hiện sự tương quan giữa trình
độ của pháp luật về dân chủ với sự phát triển nền kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội ở mỗi thời kỳ phát triển và hệ thống pháp luật nói chung, cũng như ở tương
quan giữa yêu cầu về quyền làm chủ tại cơ sở với khả năng hiện thực hóa các
quyền dân chủ.
Thứ ba, phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của quốc tế về dân chủ,
nhân quyền.
2.4.4. Tính minh bạch và khả năng tiếp cận của cơ chế pháp lý thực hiện
dân chủ cơ sở
Tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một đòi hỏi
không thể thiếu của nền dân chủ và của chế độ pháp quyền.
2.4.5. Mức độ tác động của cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở đối với đời sống
vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư tại cơ sở
Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở không chỉ phụ thuộc vào
mức độ hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở về hình thức và nội dung
pháp luật mà còn thể hiện ở hiệu quả tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở đối với đời sống dân chủ ở cơ sở nói riêng, sự phát triển của đất nước
nói chung.
13
Chương 3
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực trạng xây dựng các nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở
3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ và xây
dựng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, trong khái niệm về dân chủ, vấn đề
nhất quán và sáng tỏ nhất là sự khẳng định “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”,“quyền
hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi dân”. Hồ Chí Minh đã
nêu một mệnh đề cô đọng, súc tích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân
là người chủ”.
Đảng ta ngay từ khi ra đời đã khẳng định Đảng không có lợi ích nào khác
ngoài đem lại lợi ích cho nhân dân. Dân chủ là động lực và mục tiêu phấn đấu
của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định:
Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân, năng lực làm chủ, tham
gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế
quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn quy chế dân chủ ở cơ sở và pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách
nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội
Tóm lại, tư duy, nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về dân chủ và dân
chủ cơ sở ngày càng phát triển và hoàn thiện. Đảng ta đã thường xuyên và kịp thời
đề ra những chủ trương quan trọng nhằm mở rộng và phát huy dân chủ cơ sở, làm
cho việc thực hiện dân chủ cơ sở ngày càng thực chất và sâu sắc.
3.1.2. Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam bao gồm hai nhóm nguyên
tắc chính: 1/ nhóm nguyên tắc xây dựng và thực hiện các quyền dân chủ của người
dân tại cơ sở; 2/ nhóm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các thiết chế đảm bảo
thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở.
3.2. Thực trạng thể chế thực hiện dân chủ cơ sở
3.2.1. Quá trình xây dựng thể chế thực hiện dân chủ cơ sở
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây dựng
và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Thể chế hóa nội dung Chỉ thị 30/CT-TW, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 45-1998/NQ-UBTVQH10 ngày 26/2/1998 về việc ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Nghị quyết số 45).
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về việc ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định số 29). Với sự ra đời của Quy chế, lần đầu tiên
trong lịch sử xây dựng pháp luật, Nhà nước ta đã tạo ra một công cụ pháp lý về thực
hiện dân chủ, trao cho các tầng lớp nhân dân ở cơ sở những quyền dân chủ thực sự
14
Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 29, căn cứ vào Nghị quyết số 17/NQ-TW
ngày 18/3/2002 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn và Chỉ
thị số 10-CT/TW ngày 28/03/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy
mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Chính phủ đã ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003),
thay thế cho Nghị định số 29. Về cơ bản, Nghị định 79 vẫn giữ nguyên những nội
dung cốt lõi về các quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, chỉ có một số sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp, đi vào thực chất hơn, cụ thể hơn theo hướng tăng cường vai trò,
trách nhiệm của bộ máy chính quyền cấp xã trong việc thực hiện Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã.
Năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn thay cho Nghị định 79.
Sau 12 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII),
ngày 04/3/2010, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở. Gần đây nhất, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
3/6/2013 về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới liên quan đến nhiều nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Những văn bản pháp luật này đã góp phần thể chế hoá quyền làm chủ của
nhân dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội diễn ra ở cơ sở. Song nền tảng để thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã vẫn là Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn năm 2007. Đây là bộ phận quan trọng của pháp luật về dân chủ cơ
sở của nước ta.
3.2.2. Ưu điểm và hạn chế của thể chế thực hiện dân chủ cơ sở
Về ưu điểm:
Thứ nhất, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 là
văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay điều chỉnh toàn diện về việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó có nhiều tiến bộ so với Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã trước đây.
Thứ hai, việc thực thi Pháp lệnh năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành
đã có tác động tích cực và toàn diện lên đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở
tất cả các địa phương trong cả nước.
Về hạn chế, bất cập:
- Pháp lệnh thiếu những quy định cụ thể, minh bạch nên người dân không có
khả năng tiếp cận đầy đủ thông tin để thực hiện quyền năng của mình.
- Chưa xác định đúng tính chất của một số việc nhân dân bàn, biểu quyết để
cấp có thẩm quyền quyết định với những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi
cấp có thẩm quyền quyết định.
15
- Pháp lệnh chưa quy định thẩm quyền, chức năng của các cơ quan cao hơn
trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai thực
hiện dân chủ ở cơ sở như thế nào, có đúng quy định pháp luật không.
- Pháp lệnh chưa đề cập sự giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cơ sở
bởi các tổ chức xã hội dân sự khác ngoài Mặt trận Tổ quốc (MTTQ).
- Pháp lệnh không đề cập tính chịu trách nhiệm của các chủ thể cụ thể liên
quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật về thực hiện dân
chủ cơ sở; chưa quy định các biện pháp cụ thể có thể áp dụng để xử lý các vi phạm
pháp luật liên quan đến công tác thực hiện dân chủ ở cấp xã.
- Nguồn kinh phí chi cho hoạt động thực hiện dân chủ cơ sở vẫn chưa được
quan tâm đúng mức, chưa được đề cập cụ thể trong Pháp lệnh.
- Pháp lệnh cũng chưa đề cập việc nâng cao nhận thức, tập huấn các chuyên
đề pháp luật hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thực
thi pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ
dân phố.
- Các văn bản hướng dẫn thi hành trên các lĩnh vực cụ thể (xây dựng công
trình công cộng, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh cấp xã, bầu trưởng thôn, thanh
tra nhân dân, giám sát đầu tư cộng đồng...) chưa phù hợp.
- Hương ước/Quy ước đang được xây dựng theo phong trào, không có cơ chế
giám sát thực hiện, ít có tác dụng thực tế trong điều chỉnh các quan hệ xã hội tại các
cộng đồng dân cư cơ sở, nhất là vùng đô thị và nông thôn đồng bằng.
3.3. Thực trạng thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở
Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân
tham gia vào quá trình hiện thực hóa các quyền của người dân tại cơ sở. Theo đó, hệ
thống này rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, đóng vai trò quan trọng là các bộ
phận cấu thành cơ bản của hệ thống chính trị (HTCT) cơ sở bao gồm: tổ chức Đảng
cơ sở, chính quyền cơ sở và MTTQ Việt Nam tại cơ sở.
3.3.1. Vai trò tích cực của các thiết chế trong thực hiện dân chủ cơ sở
Theo đánh giá chung được nêu trong Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư
ngày 04/3/2010, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị
(khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, “cấp ủy, chính quyền,
mặt trận, đoàn thể các cấp đã có nhiều biện pháp chỉ đạo, triển khai sâu rộng, làm
chuyển biến tích cực về nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
Cấp chính quyền cơ sở đã đổi mới phong cách làm việc theo hướng gần dân,
sát dân hơn; tôn trọng, lắng nghe và chân thành tiếp thu ý kiến, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân; giải quyết
kịp thời những vướng mắc của nhân dân; đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa. Chính quyền cơ sở cũng như các cơ quan, tổ chức đã
gắn việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc thực hiện các kế hoạch, chương trình phát
16
triển kinh tế, xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời
sống của người dân, người lao động. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở cũng đã gắn
kết việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh
thần của người dân, người lao động.
Vai trò của MTTQ Việt Nam và mối quan hệ giữa chính quyền cơ sở với Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể được tăng cường; quyền và nghĩa vụ của công dân
được thực hiện tốt hơn; vai trò tự quản của cộng đồng dân cư ngày càng phát huy
hiệu quả và được khẳng định.
Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước để giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở.
Thực hiện dân chủ cơ sở đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của nhân dân lao
động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân.
3.3.2. Bất cập, hạn chế của các thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở
Về phương diện tổ chức, các thiết chế tham gia thực hiện hiện dân chủ cơ sở
tồn tại trong trạng thái liên kết tương đối lỏng với cấp trên và trong mối tương quan
không thực sự thuận chiều với các yếu tố của xã hội tự quản truyền thống.
Về phương diện hoạt động, mức độ bất cập của các thiết chế thực hiện dân
chủ cơ sở thể hiện rõ nhất trong phương thức hoạt động của cơ quan đại diện và
quyền lực (HĐND cấp xã) và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tại cơ sở.
3.4. Thực trạng các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở
3.4.1. Thực trạng môi trường chính trị - pháp lý
Có thể khẳng định, hiện nay Việt Nam đang có môi trường chính trị tương
đối thuận lợi cho việc đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở. Trong nhận thức chính trị
của Đảng và Nhà nước Việt Nam, dân chủ và quyền con người là một khái niệm
tích cực, là một giá trị chung của nhân loại được tạo lập bởi sự phấn đấu của các
dân tộc qua các thời đại. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định thực hiện dân chủ trên
các phạm vi không gian khác nhau của đất nước là bản chất và mục tiêu của chế độ
xã hội ta, là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, vì vậy chính sách nhất quán
của Nhà nước Việt Nam là phát huy dân chủ, tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, thể hiện bằng luật pháp, bằng các chính sách cụ thể trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và ngày
càng hoàn thiện. Nhà nước nỗ lực xây dựng và kiện toàn các thiết chế nhằm phát
huy dân chủ cơ sở trên thực tế. Hệ thống các cơ quan nhà nước đảm bảo thực hiện
chức năng bảo vệ pháp luật, đảm bảo các quyền dân chủ và lợi ích công dân được
củng cố.
3.4.2. Thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội
Tốc độ thúc đẩy nhanh nhất trong việc tạo lập các điều kiện đảm bảo thực
hiện dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng ở nước ta nằm trong lĩnh vực kinh
17
tế. Nhờ công cuộc đổi mới và đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt ở mức cao liên tục
trong hơn một thập kỷ qua
Về mặt xã hội, văn hóa nhân quyền ở nước ta đang đạt ở mức độ thấp so với
yêu cầu thực hiện dân chủ cơ sở
3.5. Thực trạng tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
3.5.1. Những tác động tích cực
Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã tác động tích cực đến
nhận thức và khả năng làm chủ của người dân, tác động mạnh mẽ đến ý thức, trách
nhiệm và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở.
Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã góp phần củng cố và hoàn
thiện hệ thống chính trị cơ sở.
Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã thúc đẩy bầu không khí
dân chủ, đảm bảo quyền lực nhân dân, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, lành
mạnh hóa các quan hệ văn hóa - xã hội tại địa bàn cơ sở.
3.5.2. Những hạn chế, bất cập
Việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi
còn hình thức, chất lượng chưa cao, chưa thành nền nếp.
Thứ nhất, nhận thức của nhân dân về các quyền làm chủ của người dân ở cơ
sở còn thấp.
Thứ hai, kết quả hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở
chưa có đổi mới đột phá, làm hạn chế các quyền dân chủ của người dân
Thứ ba, tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở nói chung, của
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng đến xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa bàn cơ sở còn hạn chế.
3.5.3. Nguyên nhân của các kết quả và hạn chế
3.5.3.1. Nguyên nhân của các kết quả
Thứ nhất, đường lối, chính sách pháp luật về thực hiện dân c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_hoan_thien_co_che_phap_ly_thuc_hien_dan_chu_co_so_o_viet_nam_hien_nay_1503_1916280.pdf