Tình hình kinh tế, xã hội và đối ngoại của đất nước
Về kinh tế, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được những thành
tựu to lớn. Cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta, pháp
luật về bảo vệ BMNN cũng đang dần được hoàn thiện để bảo vệ và thúc đẩy
nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển đúng hướng. Tuy vậy, nhiều
QPPL về bảo vệ BMNN vẫn là “sản phẩm” của thời kỳ đầu của quá trình đổi
mới, do vậy, nó chưa phản ánh được một cách đầy đủ, toàn diện các quy luật
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Về mặt xã hội, tư tưởng dân chủ, nhân quyền, tư tưởng nhà nước pháp
quyền XHCN mà cốt lõi là đề cao quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân ngày càng được phổ biến rộng rãi và được nhận thức rõ
ràng hơn. Việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân liên quan
nhiều đến việc bảo vệ BMNN, thậm chí có khi xảy ra sự xung đột. Mặt khác,
trên thực tế còn xảy ra tình trạng lạm dụng bảo vệ BMNN để từ chối tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Về đối ngoại, nước ta đang hội nhập sâu, rộng vào đời sống quốc tế.
Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi trong quá trình phát triển mà hội nhập11
quốc tế mang lại, nước ta cũng phải đối mặt với không ít thách thức, khó
khăn, trong đó có những vấn đề liên quan trực tiếp đến bảo vệ BMNN.
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm rõ quá trình
phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam
hiện nay, làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập đó; xác định các quan điểm và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
1.2.2.2. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu đề tài luận án
Với kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu và căn cứ vào các lý thuyết
có liên quan đến chủ đề nghiên cứu, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu. Từ
đó, luận án đứng trước một số câu hỏi nghiên cứu quan trọng cần phải trả lời:
- Pháp luật về bảo vệ BMNN là gì?
- Pháp luật về bảo vệ BMNN có đặc điểm, vai trò như thế nào?
- Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN ra sao?
- Việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN dựa
vào những tiêu chí nào?
- Quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay như thế nào?
7
- Những kết quả đạt được; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
những hạn chế, bất cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay là gì?
- Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay cần xuất
phát từ những quan điểm mang tính chất định hướng nào?
- Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam
hiện nay là gì?
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VÀ VAI TRÒ
CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
2.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước và bảo vệ bí mật nhà nước
2.1.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước
Hiện nay, BMNN được hiểu là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa
điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực
khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì
gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
2.1.1.2. Khái niệm bảo vệ bí mật nhà nước
Bảo vệ BMNN là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất
bại các hoạt động xâm phạm BMNN.
Nội dung bảo vệ BMNN gồm có: tham mưu cho Đảng, Nhà nước tổ
chức triển khai công tác bảo vệ BMNN; thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về bảo vệ BMNN; xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch, áp
dụng các biện pháp bảo vệ BMNN, khu vực, địa điểm cấm, nơi diễn ra các
hoạt động có nội dung thuộc phạm vi BMNN; phòng, chống lộ, mất BMNN
và hoạt động của các thế lực thù địch, các đối tượng phạm tội hoạt động thu
thập BMNN; điều tra, xử lý các vụ lộ, mất BMNN, đối tượng có hành vi thu
thập, chiếm đoạt, tiết lộ, tiêu huỷ trái phép BMNN.
8
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
2.1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất
bại các hoạt động xâm phạm BMNN, được thể hiện trong các VBQPPL do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định.
2.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Ngoài các đặc trưng của pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ
BMNN có những đặc điểm riêng như:
- Pháp luật về bảo vệ BMNN được hình thành từ rất sớm.
- Pháp luật về bảo vệ BMNN luôn phải đáp ứng đồng thời các yêu cầu
của quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và công nhận, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
- Pháp luật về bảo vệ BMNN gồm các QPPL thể hiện trong nhiều
VBQPPL với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau.
- Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN là những quan hệ
xã hội có tầm quan trọng đặc biệt, thuộc nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.1.3. Nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ bí mật
nhà nước
2.1.3.1. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL có mối liên hệ chặt
chẽ, thống nhất, điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội, gồm:
- Nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN.
- Nhóm QPPL quy định quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN.
- Nhóm QPPL quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân
trong bảo vệ BMNN.
- Nhóm QPPL quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về bảo
vệ BMNN.
2.1.3.2. Vai trò của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Ngoài vai trò của pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ BMNN còn
thể hiện vai trò riêng của mình như:
9
- Pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần thể chế hóa chủ trương, đường
lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần bảo vệ nhóm quan hệ xã hội có
tầm quan trọng đặc biệt liên quan đến sự an nguy của chế độ XHCN và Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
- Pháp luật về bảo vệ BMNN tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ
BMNN, góp phần xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách bảo vệ BMNN.
2.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ
MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.2.1. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ
bí mật nhà nước ở Việt Nam
Một là, tính toàn diện của pháp luật về bảo vệ BMNN.
Hai là, tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN.
Ba là, tính phù hợp của pháp luật về bảo vệ BMNN.
Bốn là, tính minh bạch và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN.
Năm là, hình thức văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN.
Sáu là, kỹ thuật lập pháp của pháp luật về bảo vệ BMNN.
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo
vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam
2.2.2.1. Quan điểm của Đảng về bảo vệ bí mật nhà nước
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN chịu sự tác động trực tiếp từ
yếu tố quan điểm của Đảng về bảo vệ BMNN
2.2.2.2. Những vấn đề về pháp lý
Những vấn đề về pháp lý ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay có thể kể đến là: trình độ, năng lực xây
dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật; ý thức pháp luật và văn hóa
pháp lý; yêu cầu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
2.2.2.3. Tình hình thế giới và khu vực liên quan đến an ninh quốc gia
Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, gây mất ổn định, bất
trắc, khó lường nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các
10
mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống tiếp tục gia tăng trong
đó hoạt động khủng bố và vấn đề an ninh mạng đang đặt ra nhiều thách
thức lớn đối với ANQG của nhiều nước và Việt Nam. Khu vực châu Á -
Thái Bình ương trở thành khu vực địa chiến lược quan trọng của thế giới
và tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền trên
biển, sự trỗi dậy của Trung Quốc và quan hệ Mỹ - Trung Quốc. ASEAN trở
thành một cộng đồng phát triển năng động, là nhân tố quan trọng đối với
hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực, tiếp tục là nơi diễn ra tranh
giành ảnh hưởng giữa các nước lớn. Tranh chấp chủ quyền biển Đông giữa
một số nước ASEAN với Trung Quốc tiếp tục căng thẳng, quyết liệt, không
loại trừ xảy ra va chạm trên biển. Việt Nam đang trở thành nhân tố quan
trọng góp phần tích cực đối với hòa bình, ổn định khu vực và luôn được các
nước lớn tính toán trong chiến lược của mình.
2.2.2.4. Tình hình kinh tế, xã hội và đối ngoại của đất nước
Về kinh tế, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được những thành
tựu to lớn. Cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta, pháp
luật về bảo vệ BMNN cũng đang dần được hoàn thiện để bảo vệ và thúc đẩy
nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển đúng hướng. Tuy vậy, nhiều
QPPL về bảo vệ BMNN vẫn là “sản phẩm” của thời kỳ đầu của quá trình đổi
mới, do vậy, nó chưa phản ánh được một cách đầy đủ, toàn diện các quy luật
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Về mặt xã hội, tư tưởng dân chủ, nhân quyền, tư tưởng nhà nước pháp
quyền XHCN mà cốt lõi là đề cao quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân ngày càng được phổ biến rộng rãi và được nhận thức rõ
ràng hơn. Việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân liên quan
nhiều đến việc bảo vệ BMNN, thậm chí có khi xảy ra sự xung đột. Mặt khác,
trên thực tế còn xảy ra tình trạng lạm dụng bảo vệ BMNN để từ chối tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Về đối ngoại, nước ta đang hội nhập sâu, rộng vào đời sống quốc tế.
Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi trong quá trình phát triển mà hội nhập
11
quốc tế mang lại, nước ta cũng phải đối mặt với không ít thách thức, khó
khăn, trong đó có những vấn đề liên quan trực tiếp đến bảo vệ BMNN.
2.3. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
2.3.1. Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở một số nước trên thế giới
Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới, ta
thấy có một số nội dung sau:
Một là, về hình thức: Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước
thuộc hệ thống pháp luật XHCN và châu Âu lục địa, pháp luật về bảo vệ
BMNN là một hệ thống các VBQPPL có chứa các quy phạm quy định về
bảo vệ BMNN, trong đó đa số các nước đã ban hành một đạo luật riêng quy
định về bảo vệ BMNN.
Hai là, về nội dung: Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số
nước trên thế giới cho thấy một số vấn đề quan trọng nổi lên sau:
Về khái niệm BMNN: Ở mỗi nước khác nhau, quy định về khái niệm
BMNN cũng khác nhau. Tuy nhiên, đa số các nước đều coi BMNN là những
thông tin, tài liệu của nhà nước, chính phủ trên các lĩnh vực an ninh, quốc
phòng, ngoại giao, kinh tế, tố tụng hình sự (gọi chung là các lĩnh vực công)
mà có ảnh hưởng quan trọng đến ANQG và lợi ích dân tộc hoặc an toàn của
công dân (chẳng hạn Nhật Bản).
Về phạm vi BMNN: Các nước với các tên gọi khác nhau nhưng đều
phân thành các cấp độ bí mật đối với BMNN. Đa số các nước đều phân
thành ba loại, gồm: Mật, Tối mật, Tuyệt mật. Việc phân loại độ mật BMNN
căn cứ vào nội dung, tầm quan trọng và lợi ích quốc gia mà thông tin, tài
liệu đó chứa đựng.
Về chủ thể thực hiện việc phân loại BMNN: Các nước giao cho các cơ
quan nhà nước có liên quan ở cả cấp độ quốc gia, khu vực và trong phạm vi
cơ quan nhà nước đó.
Về trách nhiệm bảo vệ BMNN: Đa số các nước quy định trách nhiệm
bảo vệ BMNN thuộc các cơ quan của nhà nước; riêng Trung Quốc quy
định: BMNN phải được bảo vệ bởi pháp luật, tất cả các cơ quan nhà nước,
12
lực lượng vũ trang, các đảng chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, các tổ
chức và công dân có nghĩa vụ bảo vệ BMNN.
Về giải mật BMNN: Các nước khác nhau, quy định về vấn đề này cũng
khác nhau nhưng nhiều nước áp dụng cơ chế tự động giải mật.
2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Trong lộ trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, Việt Nam có thể
tham khảo một số kinh nghiệm sau đây:
Một là, xây dựng một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN. Đa số
các nước đều đã có một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN.
Hai là, quy định rõ ràng, chính xác khái niệm BMNN và phạm vi
BMNN. Khái niệm BMNN cần đi vào bản chất và chỉ ra những đặc trưng
của BMNN để làm cơ sở cho việc xác định cái gì là BMNN. Đồng thời
pháp luật về bảo vệ BMNN cần quy định rõ phạm vi BMNN gồm các nội
dung cơ bản như: quy định về độ mật; chủ thể có thẩm quyền phân loại
BMNN và trình tự, thủ tục để phân loại BMNN.
Ba là, hoàn thiện quy định về trách nhiệm bảo vệ BMNN. Đa số các
nước quy định trách nhiệm bảo vệ BMNN thuộc về các cơ quan nhà nước
và phân rõ trách nhiệm của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan
tư pháp; trách nhiệm của các cơ quan trung ương và của các cơ quan địa
phương. Trung Quốc là nước XHCN có quy định trách nhiệm bảo vệ
BMNN thuộc về cả hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế và cả công dân.
Bốn là, hoàn thiện quy định về giải mật BMNN. Pháp luật các nước
quy định về cách thức, cơ chế giải mật thông tin là khác nhau, trong đó
nhiều nước quy định cơ chế tự động giải mật.
Chương 3
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ
MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
13
3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950
Nước ta mới giành được chính quyền, chấm dứt thời kỳ thực dân,
phong kiến, đất nước còn muôn vàn khó khăn nhưng đã phải bước vào thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong giai đoạn này, chưa có
VBQPPL trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN, các QPPL quy định về bảo
vệ BMNN chủ yếu nằm trong các VBQPPL quy định về bảo vệ ANQG.
3.1.2. Gai đoạn từ năm 1950 đến năm 1991
Nhân dân ta tiến hành công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
cứu nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước
và cả nước tiến lên CNXH. Để thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong
giai đoạn này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL về bảo vệ ANQG,
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Đặc biệt, Nhà nước đã ban hành
những VBQPPL trực tiếp quy định về việc bảo vệ BMNN, BMQG, đó là
Sắc lệnh số 154/SL; Sắc lệnh số 69/SL và các văn bản hướng dẫn thi hành.
3.1.3. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000
Đã có rất nhiều VBQPPL về bảo vệ BMNN được ban hành, đặc biệt là
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 và các văn bản hướng dẫn thi hành có
ý nghĩa, vai trò quan trọng đáp ứng yêu cầu bảo vệ bảo vệ ANQG nói
chung và bảo vệ BMNN nói riêng trong thời kỳ đổi mới đất nước.
3.1.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Pháp luật về bảo vệ BMNN có bước phát triển quan trọng, một mặt
Nhà nước ta tiếp tục ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 để thay
thế Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 cùng các văn bản hướng dẫn thi
hành. Mặt khác, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL khác có chứa
QPPL về bảo vệ BMNN, từ Hiến pháp, đến các bộ luật, luật, văn bản dưới
luật, cùng với các điều ước quốc tế song phương và đa phương liên quan
đến bảo vệ BMNN. Hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN trong giai đoạn này
bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu bảo vệ BMNN trong điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tôn trọng và bảo vệ
các quyền con người, quyền công dân.
14
3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập về nội dung
điều chỉnh của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
3.2.1.1. Kết quả đạt được về nội dung điều chỉnh của pháp luật về
bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN. Pháp luật về
bảo vệ BMNN hiện nay có một hệ thống các QPPL quy định chung về bảo
vệ BMNN, bao gồm: quy định chung về BMNN; quy định về các hành vi bị
nghiêm cấm; về phạm vi BMNN và về biện pháp bảo vệ BMNN.
Hai là, nhóm QPPL quy định quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, bao
gồm: quy định về chủ thể quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, với trách
nhiệm của từng chủ thể và quy định về nội dung quản lý nhà nước về bảo
vệ BMNN.
Ba là, nhóm QPPL quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công
dân trong bảo vệ BMNN, bao gồm: quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức và công dân nói chung; quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức và công dân trong các hoạt động cụ thể; quy định về trách nhiệm thực
hiện công tác bảo vệ BMNN của Bộ Công an với tư cách là cơ quan được
giao thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN.
Bốn là, nhóm QPPL quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật
về bảo vệ BMNN:
Về khen thưởng, pháp luật về bảo vệ BMNN quy định: Cơ quan, tổ
chức, công dân có thành tích bảo vệ BMNN thì được khen thưởng theo quy
định của pháp luật và quy định cụ thể thành tích bảo vệ BMNN là như thế
nào bằng việc quy định cụ thể các trường hợp (hành vi) được khen thưởng
trong bảo vệ BMNN.
Về xử lý vi phạm, pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay đã quy định khá
cụ thể, đầy đủ về các hành vi xâm phạm BMNN bị coi là tội phạm, bị truy
cứu truy cứu trách nhiệm hình sự và cả những vi phạm pháp luật về bảo vệ
15
BMNN bị xử lý hành chính, đồng thời quy định rõ cả các hình thức xử lý
đối với các vi phạm đó.
3.2.1.2. Những hạn chế, bất cập về nội dung điều chỉnh của pháp
luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, nhiều vấn đề liên quan đến bảo vệ BMNN chưa được điều
chỉnh bằng pháp luật, chưa có QPPL quy định, chưa đảm được tính toàn
diện của pháp luật về bảo vệ BMNN.
Hai là, một số nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN còn
bất cập, chưa đầy đủ, cụ thể, chưa đảm bảo được tính phù hợp, minh bạch
và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN, như: về khái niệm BMNN; về
trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia bảo vệ
BMNN; về bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công
dân. Ngoài các nội dung trên, còn nhiều nội dung về bảo vệ BMNN cũng
chưa được quy định đầy đủ, cụ thể.
Ba là, một số nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN
không đồng bộ, thống nhất, như: Sự không thống nhất trong nội dung điều
chỉnh của BLHS với nội dung điều chỉnh của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN
năm 2000; sự không thống nhất trong nội dung điều chỉnh của các
VBQPPL trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN; sự không thống nhất trong
nội dung điều chỉnh về phạm vi độ mật.
3.2.2. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập về hình thức
của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
3.2.2.1. Kết quả đạt được về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà
nước ở Việt Nam hiện nay
Cho đến nay, pháp luật về bảo vệ BMNN đã có một hệ thống VBQPPL
về bảo vệ BMNN thuộc nhiều ngành luật khác nhau với các độ hiệu lực
pháp lý khác nhau, từ Hiến pháp đến các luật và VBQPPL dưới luật. Cùng
với các VBQPPL về bảo vệ BMNN ở trong nước, hiện nay Việt Nam đã ký
kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương, trong đó
có chứa các QPPL về bảo vệ BMNN.
16
3.2.2.2. Hạn chế, bất cập về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà
nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, hệ thống VBQPPL về bảo vệ BMNN ít được hệ thống hoá.
Hai là, ở nước ta vẫn chưa có Luật Bảo vệ BMNN, VBQPPL có hiệu
lực pháp lý cao nhất mang tính chất chuyên ngành, trực tiếp quy định về
bảo vệ BMNN hiện nay là Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.
Ba là, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia về bảo
vệ BMNN rất ít và mới chỉ tập trung vào một số nước mà Việt Nam có
quan hệ truyền thống trước đây.
Bốn là, kỹ thuật lập pháp trong một số văn bản về bảo vệ BMNN còn
hạn chế. Có thể thấy những hạn chế về kỹ thuật lập pháp trong quy định của
Bộ luật hình sự (BLHS) về các tội xâm phạm BMNN, thể hiện trong Điều
337, 338 BLHS năm 2015.
Năm là, các danh mục BMNN chưa được ban hành kịp thời, đầy đủ.
áu là, một số QPPL về bảo vệ BMNN được ban hành đã lâu nhưng
chưa thực sự đi vào cuộc sống, còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành
cũng như cơ chế để thực hiện.
3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của pháp luật về
bảo vệ bí mật nhà nước
3.2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội của đất nước thời gian
qua. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tạo ra những thay đổi to lớn trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi đó pháp luật về bảo vệ
BMNN có trên tất cả các lĩnh vực đó, là một bộ phận thuộc thượng tầng
kiến trúc nên mặc dù đã được quan tâm sửa đổi, bổ sung nhưng còn nhiều
nội dung chưa theo kịp những thay đổi nhanh chóng của cuộc sống.
- Sự gia tăng các VBQPPL về bảo vệ BMNN thuộc các ngành, lĩnh
vực khác nhau, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành và trong một thời
gian dài.
17
3.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Trong một thời gian dài Nhà nước ta chưa có chương trình xây dựng
pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược trong đó có pháp luật về
bảo vệ BMNN.
- Tư duy pháp lý về bảo vệ BMNN có những khía cạnh không theo kịp
sự thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ của đời sống.
- Thiếu các công trình nghiên cứu cơ bản, cung cấp luận chứng khoa
học cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN.
- Việc bồi dưỡng kiến thức về bảo vệ BMNN, tổ chức, sắp xếp đội ngũ
cán bộ chuyên trách làm công tác xây dựng và áp dụng pháp luật ở các bộ,
ngành chưa tương xứng với yêu cầu bảo vệ BMNN trong tình hình mới.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO
VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về
bảo vệ an ninh quốc gia
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải quán triệt quan điểm chỉ
đạo là thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ ANQG, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
4.1.2. Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải bảo đảm tạo ra hệ thống
QPPL về bảo vệ BMNN đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch. Hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN phải bảo đảm phù hợp với quy
định của Hiến pháp năm 2013, sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp
18
luật; bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, minh bạch, khả thi, hiệu quả của pháp
luật về bảo vệ BMNN.
4.1.3. Tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, vững chắc cho công tác bảo
vệ bí mật nhà nước trong tình hình mới
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN để tạo khuôn khổ pháp lý đầy
đủ, vững chắc cho công tác bảo vệ BMNN đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã
hội và hội nhập quốc tế của đất nước, đồng thời đảm bảo tốt các quyền tự
do, dân chủ của công dân; phòng ngừa các hành vi lộ, lọt, mất BMNN và
hoạt động thu thập BMNN của các đối tượng; nghiêm cấm các hành vi lợi
dụng bảo vệ BMNN để che giấu hành vi vi phạm pháp luật.
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước vừa mang tính
thường xuyên, lâu dài, vừa mang tính cấp bách nhưng phải được tiến hành
thận trọng
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN là việc làm thường xuyên, lâu
dài và và mang tính cấp bách, là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam; phải đặt trong chiến lược tổng thể xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam. Mặt khác, pháp luật về bảo vệ BMNN điều
chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất quan trọng, nhạy cảm, liên quan đến
vấn đề chính trị nội bộ, liên quan đến sự ổn định, phát triển của chế độ, nhà
nước và xã hội nên việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải được
tiến hành kịp thời nhưng thận trọng, đảm bảo vững chắc ANQG, không để
tạo ra sơ hở, tạo cớ để các thế lực thù địch lợi dụng xâm phạm ANQG.
4.1.5. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước phải đảm
bảo tính kế thừa, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải được tiến hành trên cơ sở
tổng kết đầy đủ, toàn diện thực tiễn công tác bảo vệ BMNN ở nước ta trong
những năm qua, khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong
thực tiễn, kế thừa những quy định còn phù hợp; cần tập trung nghiên cứu
kinh nghiệm lập pháp, tham khảo kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ BMNN
19
của nước ngoài để vận dụng có chọn lọc vào quá trình xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Các giải pháp xây dựng pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
4.2.1.1. Cần sớm xây dựng Luật Bảo vệ bí mật nhà nước
Quá trình thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN, với những bất cập, hạn
chế của hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN nói chung và Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000 nói riêng, cùng với sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh
tế, xã hội, đặc biệt là để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về tôn
trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã đặt ra yêu cầu cấp thiết
cần sớm xây dựng Luật Bảo vệ BMNN thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000.
4.2.1.2. Cần kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thi hành và sửa
đổi, bổ sung các văn bản có liên quan
Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và khả thi của hệ thống pháp luật
về bảo vệ BMNN thì cần phải có một chiến lược tổng thể trong việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, trong đó cần sửa đổi, bổ
sung các VBQPPL khác có liên quan đến bảo vệ BMNN và kịp thời ban hành
các văn bản hướng dẫn thi hành để các QPPL về bảo vệ BMNN sớm đi vào
cuộc sống nhất là sau khi dự thảo Luật Bảo vệ BMNN được thông qua.
4.2.1.3. Cần kịp thời xác lập các loại danh mục bí mật nhà nước
Việc xác lập danh mục BMNN cần căn cứ vào quy định khái niệm
BMNN và tiêu chí xác định phạm vi BMNN để lập danh mục BMNN tương
ứng với các phạm vi cấp độ mật. Cần kịp thời xác lập và ba
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_hoan_thien_phap_luat_ve_bao_ve_bi_mat_nha_nu.pdf