CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI.4
1.1. Bối cảnh nghiên cứu .4
1.2. Mục tiêu nghiên cứu .5
1.3. Câu hỏi nghiên cứu.5
1.4. Phạm vi nghiên cứu .5
1.5. Ý nghĩa của nghiên cứu .5
1.6. Điểm mới của luận án.6
1.7. Cấu trúc của luận án .7
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TRƯỚC .7
2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, hội nhập và tiêu thụ năng lượng.7
2.2. Lược khảo các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế và
tăng trưởng kinh tế .8
2.3. Lược khảo các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng
và tăng trưởng kinh tế. 13
2.4. Giả thuyết nghiên cứu. 15
2.5. Khoảng trống nghiên cứu . 15
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU. 17
3.1. Các hướng nghiên cứu của luận án . 17
3.2. Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế và tăng trưởng
kinh tế . 17
3.3. Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng
kinh tế . 18
3.4. Mô hình nghiên cứu tác động của hội nhập kinh tế, tiêu thụ năng lượng
đến tăng trưởng kinh tế. 18
3.5. Dữ liệu và nguồn thu thập dữ liệu. 18
3.6. Phương pháp nghiên cứu của luận án . 19
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN. 19
30 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Hội nhập, tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiên cứu chi tiết hơn 3 trụ cột trong chỉ số
toàn cầu hóa của Dreher cho 6 nước Asean trong giai đoạn từ 2006-2012. Nghiên cứu
đưa ra kết luận là hội nhập kinh tế và hội nhập chính sách có tác động khuyến khích
tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia này. Tuy nhiên hội nhập xã hội thì không có tác
động. Neagu (2017) lại tìm thấy tác động âm của hội nhập xã hội đến tăng trưởng kinh
tế của Romania giai đoạn 1990-2013. Đồng thời Neagu cũng khẳng định có mối quan
hệ nhân quả hai chiều giữa hội nhập kinh tế, hội nhập chính sách với tăng trưởng kinh
tế của Romania.
Số lượng các nghiên cứu về hội nhập và tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam
còn khiêm tốn. Phạm Lan Hương (2013) tìm thấy tác động tích cực của toàn cầu hóa
đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế -xã hội của Việt Nam. Theo tác giả,
điều quan trọng giúp Việt Nam có thể hội nhập thành công đó là giáo dục, đặc biệt là
năng lực của các nhà quản lý doanh nghiệp. Đạt và Vân (2017) sử dụng chỉ số toàn
cầu hóa của Dreher trong giai đoạn từ 1995-2014 cho kinh tế Việt Nam, tìm được
bằng chứng thống kê để kết luận Việt Nam nên hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế
thế giới. Theo Trần Thọ Đạt và Nguyễn Thị Cẩm Vân (2017), hội nhập kinh tế giúp
Việt Nam thu hút được nguồn vốn FDI tốt hơn và cải thiện tình trạng thâm hụt của
cán cân thương mại.
Khái quát lại, có thể thấy các nghiên cứu trước về tác động của hội nhập
tổng quan đến tăng trưởng kinh tế còn khá khiêm tốn, mặc dù mỗi nghiên cứu đều
phân tích sâu một khía cạnh, nhưng kết luận của các nghiên cứu là tương đồng. Phần
lớn đều thống nhất là hội nhập tổng quan có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế. Do vậy, ứng dụng cụ thể cho trường hợp kinh tế Việt Nam (là quốc gia đang phát
triển), luận án kỳ vọng tác động của hội nhập tổng quan đến tăng trưởng kinh tế sẽ là
tác động tích cực.
Hội nhập tài chính và tăng trưởng kinh tế
Mối quan hệ giữa hội nhập tài chính và tăng trưởng kinh tế đã được nhiều
nghiên cứu thực hiện, tuy nhiên kết luận của các nghiên cứu là không đồng nhất, thậm
chí còn tranh luận trực tiếp.
Nhóm 1: Nhóm ủng hộ hội nhập tài chính
Acemoglu và Zilibotti (1997), Edison và cộng sự (2002a) là những tác giả
ủng hộ mạnh mẽ cho việc các quốc gia nên thúc đẩy hội nhập tài chính. Họ cho rằng
hội nhập tài chính quốc tế sẽ tạo điều kiện chia sẻ rủi ro, mở rộng thị trường tiêu thụ,
hình thành các chuỗi cung ứng toàn cầu, từ đó nâng cao chuyên môn hóa sản xuất,
phân bổ vốn và tăng được tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó, hội nhập tài chính
quốc tế sẽ cải thiện hoạt động của hệ thống tài chính nội địa thông qua tăng cường
cạnh tranh và phát triển các dịch vụ tài chính. Hội nhập cũng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thông qua việc giúp các doanh nghiệp giảm các chi phí đầu vào (lãi suất đi
vay), tăng lợi nhuận và khuyến khích đầu tư nội địa.
Nghiên cứu của Bonfiglioli (2008), Altomonte và Nicolini (2012) cho thấy
khi các doanh nghiệp nội địa phải hội nhập và cạnh tranh với các doanh nghiệp đa
quốc gia thì bắt buộc họ phải nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện năng suất lao
động. Nghiên cứu của Bauer và cộng sự (2014) bổ sung thêm là nhờ cạnh tranh mà
các doanh nghiệp nội địa sẽ tái cấu trúc được các chi phí và nghĩa vụ thuế. Nghiên
cứu của Dreger và Zhang (2014); Samina và cộng sự (2019) còn cho rằng các quốc
gia đang phát triển chỉ có con đường duy nhất là hội nhập để có thể tiếp cận được các
tiến bộ kỹ thuật tiên tiến của các nước phát triển. Nghiên cứu của Lawal và cộng sự
(2016); Saucier và Rana (2017); Boglioni (2018); Danlami và cộng sự (2018) đều tìm
thấy khi quốc gia hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thì cải thiện được cán cân
thương mại, thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng. Mặt tích cực nữa của hội nhập tài
chính đó là sự hỗ trợ cho các hoạt động khởi nghiệp (Coulibaly và cộng sự, 2018).
Nhóm 2: Nhóm không ủng hộ hội nhập tài chính
Lucas (1990) phát hiện ra một nghịch lý (sau này được gọi tên là nghịch lý
Lucas). Theo lý thuyết thì dòng vốn phải dịch chuyển từ Mỹ sang Ấn Độ, tuy nhiên
sự kiện thực tế đã diễn ra theo chiều ngược lại, tức là dòng vốn lại chảy từ Ấn Độ vào
Mỹ. Lý giải nghịch lý này, Lucas cho rằng vốn không chảy đến quốc gia nghèo do tại
đó vốn nhân lực thấp, thị trường không hoàn hảo, tồn tại rủi ro xuất phát từ các quốc
gia nghèo không tuân thủ các nghĩa vụ của mình và có thể cắt đứt mối quan hệ với
các nhà đầu tư.
Phát hiện của Lucas đã thúc đẩy nhóm không ủng hộ hội nhập tài chính.
Boyd và Smith (1992) phát biểu rằng hội nhập tài chính quốc tế ở các nước có thể chế
và chính sách yếu kém có thể dẫn đến một lượng vốn đi ra ngoài, từ nước thiếu vốn
sang nước thừa vốn có thể chế tốt hơn. Kinh tế trong nước đã thiếu vốn nay càng thiếu
trầm trọng hơn. Rodrik (1998), Edwards (2001), Okada (2013) cũng cho rằng hội nhập
tài chính quốc tế cao đã đẩy các nền kinh tế mới nổi rơi vào tình trạng suy thoái, lợi
ích thu được thì ít trong khi hệ lụy tiêu cực rất khó kiểm soát. Các thị trường mới nổi
có thể thể chế tài chính lạc hậu hơn nên rất dễ bị tác động bởi sự biến động của thị
trường tài chính toàn cầu, đặc biệt nghiêm trọng đối với các quốc gia có tài khoản vốn
mở. Giải thích tác động tiêu cực này, Rahman và Shahari (2017), Vinh và Phong
(2017), Trang và Kiều (2015) cho rằng việc hội nhập tài chính sẽ không giống nhau
giữa nước phát triển và nước đang phát triển, chủ yếu là bởi vì các quốc gia có một
chính sách dự trữ và một khối lượng dự trữ ngoại hối khác nhau. Các nước đang phát
triển có khối lượng dự trữ ngoại hối ít, nên khi kinh tế thế giới xảy các các “cú sốc
kinh tế” thì thường phản ứng chậm và yếu.
Nhóm 3: Nhóm đối lập và nhóm có điều kiện
Edwards (2001) tìm thấy bằng chứng thống kê là sự dịch chuyển dòng vốn
quốc tế sẽ tác động âm đến tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển, nhưng tác động
dương đến tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, kết luận này bị
nghiên cứu của Arteta và cộng sự (2001), Edison và cộng sự (2002b) cho rằng không
đủ tin cậy vì chưa kiểm định được tính vững của kết quả. Trong các nghiên cứu khác,
Quinn (1997) cho rằng hội nhập tài chính sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế, nhưng cũng bị nghiên cứu của Kraay (1998), Arteta và cộng sự (2001) phủ định vì
thiếu tính vững.
Một số nghiên cứu lại chỉ ra rằng tác động của hội nhập tài chính đến tăng
trưởng kinh tế chỉ diễn ra trong một số điều kiện nhất định. Bashar và Khan (2007)
hội nhập tài chính sẽ phát huy mặt tích cực khi quốc gia tiếp nhận có chất lượng nguồn
nhân lực tốt. Batuo và cộng sự (2018), Pradhan và cộng sự (2018) lại cho rằng hội
nhập tài chính chỉ tốt đối với các quốc gia có hệ thống tài chính và hạ tầng về công
nghệ thông tin phát triển. Cuối cùng là nghiên cứu của Trang và Kiều (2015) cho rằng
hội nhập tài chính chỉ tốt đối với các quốc gia có lượng dự trữ ngoại hối lớn.
Hội nhập thương mại và tăng trưởng kinh tế
Mối quan hệ giữa hội nhập thương mại và tăng trưởng kinh tế cũng là chủ
đề ghi nhận nhiều tranh luận của các nhà kinh tế học. Sự bất đồng quan điểm thể hiện
ở cả khía cạnh lý thuyết cũng như minh chứng thực nghiệm. Baldwin và Seghezza
(1996) cho rằng hội nhập thương mại giúp thu hút nhiều vốn hơn cho khu vực phi
thương mại, sản xuất hàng hóa trong nước được sử dụng các hàng hóa trung gian từ
nhập khẩu giúp chất lượng tốt hơn giá bán cao hơn, sự cạnh tranh trên thị trường quốc
tế làm cho giá máy móc thiết bị thấp hơn dẫn đến giảm các gánh nặng về chi phí đầu
tư ban đầu cho các doanh nghiệp. Romer (1989), Danlami và cộng sự (2018), Ma và
cộng sự (2019) lý luận hội nhập thương mại cũng có thể tác động đến tăng trưởng
kinh tế thông qua cải thiện công nghệ do những lan tỏa công nghệ theo chiều ngang
và/hoặc theo chiều dọc trong cùng chuỗi cung ứng hay giữa các chuỗi cung ứng sản
phẩm toàn cầu với nhau. Lợi ích kinh tế theo quy mô của hoạt động nghiên cứu và
phát triển sẽ được chuyển giao dần dần trong quá trình tiếp nhận đầu tư, và phụ thuộc
lẫn nhau trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Frankel và Cavallo (2008) cho rằng các nền kinh tế có hội nhập thương mại
lớn thường phải điều chỉnh giảm tỉ giá thực để cân bằng tài khoản vãng lai, do đó hệ
quả tiêu cực của việc giảm giá đồng tiền ít nghiêm trọng hơn, kết quả là quốc gia đó
ít có khả năng bị vỡ nợ. Ngoài ra hội nhập thương mại còn giúp các quốc gia ít bị tổn
thương bởi các hệ lụy tiêu cực của hội nhập tài chính khi dòng vốn đột ngột bị ngừng
hoặc bị rơi vào khủng hoảng tài chính. Hội nhập thương mại giúp nền kinh tế thanh
toán nợ tốt hơn và từ đó tránh khỏi tình trạng suy thoái. Nhưng Musila và Yiheyis
(2015) lại không tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa hội nhập thương mại với
tăng trưởng kinh tế của Kenya giai đoạn 1982-2009. Còn Bolaky và Freund (2004)
cho rằng độ lớn của hội nhập thương mại sẽ mạnh mẽ hơn ở các quốc gia có thể chế
tốt hơn. Bên cạnh đó, có một sự quan ngại rất lớn là các nước phát triển thường giữ
vai trò chi phối các tổ chức thương mại và đầu tư của thế giới như: Tổ chức thương
mại quốc tế WTO, Quỹ tiền tệ thế giới IFM nên các chính sách/tiêu chuẩn/quy định
được ban hành bởi các định chế thương mại và tài chính lớn này thường mang lại
nhiều lợi ích cho các nước phát triển.
2.3. Lược khảo các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa tiêu thụ năng
lượng và tăng trưởng kinh tế
Trong nhiều thập kỉ qua, mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng và tăng
trưởng kinh tế luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và hoạch định
chính sách. Bởi vì, năng lượng là ngành công nghiệp mũi nhọn ở nhiều quốc gia, hơn
nữa năng lượng tác động đến cả tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế. Tổng kết
các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới tìm được bốn dạng giả thuyết về mối quan
hệ giữa tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng kinh tế như sau:
Giả thuyết 1: Tăng trưởng kinh tế sẽ khuyến khích tiêu thụ năng lượng (được
gọi tên là giả thuyết Conversation). Theo đó, việc tăng trưởng kinh tế ở thời điểm hiện
tại sẽ kéo theo sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ năng lượng ở các giai đoạn tiếp theo. Đây
là dạng mối quan hệ một chiều.
Giả thuyết 2: Tiêu thụ năng lượng sẽ khuyến khích tăng trưởng kinh tế (được
gọi tên là giả thuyết Growth). Theo đó, việc tăng tiêu thụ năng lượng ở thời điểm hiện
tại sẽ thúc đây tăng trưởng kinh tế ở các giai đoạn tiếp theo. Đây cũng là dạng mối
quan hệ một chiều.
Giả thuyết 3: Tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ qua
lại (được gọi tên là giả thuyết Feedback). Theo đó, việc tăng tiêu thụ năng lượng ở
thời điểm hiện tại sẽ thúc đây tăng trưởng kinh tế ở các giai đoạn tiếp theo. Và khi
tăng trưởng kinh tế được cải thiện thì nhu cầu tiêu thụ năng lượng lại tăng lên một
mức mới. Đây là dạng mối quan hệ hai chiều, và tuần hoàn.
Giá thuyết 4: Tiêu thụ năng lượng không có mối quan hệ với tăng trưởng
kinh tế (được gọi tên là giả thuyết Neutrality). Theo đó, giữa tăng trưởng kinh tế và
tiêu thụ năng lượng không tồn tại mối quan hệ, hàm ý chúng tồn tại và vận động tuân
theo các quy luật riêng và độc lập hoàn toàn với nhau.
Lý giải cho sự tồn tại của bốn giả thuyết này, Apergis và Payne (2009), Lee
và Chang (2007) cho rằng nhu cầu tiêu thụ năng lượng phụ thuộc vào từng giai đoạn
phát triển của quốc gia. Quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia thành 3 giai đoạn
chính:
Giai đoạn 1: Giai đoạn tiền công nghiệp. Đặc trưng của giai đoạn này là hoạt
động sản xuất giản đơn vì chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên, người dân đa số làm
việc ở khu vực nông nghiệp, máy móc thiết bị chưa phát triển nên nhu cầu tiêu thụ
năng lượng cho sản xuất, cho tiêu dùng của các doanh nghiệp/hộ gia đình nhìn chung
ở quy mô còn nhỏ.
Giai đoạn 2: Giai đoạn công nghiệp. Đặc điểm của giai đoạn này là sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật, máy móc thiết bị được đưa vào quá trình sản xuất thay thế
cho kỹ năng của người lao động ngày càng nhiều. Sự gia tăng của cải vật chất cũng
đồng nghĩa với việc tiêu hao nhiều năng lượng, lượng khí thải ra môi trường ngày
càng nhiều. Quá trình dịch chuyển lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực
công nghiệp diễn ra trên quy mô rộng, kéo theo hậu quả là quá trình đô thị hóa diễn
ra nhanh, hình thành các cụm, khu công nghiệp. Trong khi đó, ý thức bảo vệ môi
trường chưa hình thành, nhu cầu về gia tăng thu nhập lớn hơn nhu cầu về chất lượng
cuộc sống. Trong giai đoạn này, nhu cầu về tiêu thụ năng lượng tăng đột biến và không
có dấu hiệu ngừng lại.
Giai đoạn 3: Giai đoạn hậu công nghiệp. Giai đoạn này ghi nhận sự phát
triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng từ
công nghiệp sang dịch vụ. Cùng với thu nhập được cải thiện trong giai đoạn công
nghiệp thì ý thức của người dân, doanh nghiệp và Chính Phủ ngày càng được nâng
lên, họ dần tiến tới không chấp nhận đánh đổi chất lượng môi trường sống_do tiêu thụ
năng lượng gây ra với tăng trưởng kinh tế. Tiêu thu năng lượng có xu hướng chững
lại, giảm dần hoặc chuyển sang tiêu thụ các loại năng lượng sạch, thân thiện hơn với
môi trường.
2.4. Giả thuyết nghiên cứu
Tổng kết lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm, kết hợp với thực tiễn
quản lý hội nhập kinh tế và tiêu thụ năng lượng ở Việt Nam, luận án phát biểu các giả
thuyết nghiên cứu như sau:
Giả thuyết H1: Hội nhập tổng quan có tác động tích đến tăng trưởng kinh tế
Giả thuyết H2: Hội nhập tài chính có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
Giả thuyết H3: Hội nhập thương mại có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
Giả thuyết H4: Tiêu thụ điện và tiêu thụ xăng dầu có tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế
Giả thuyết H5: Tác động của tiêu thụ điện, tiêu thụ xăng dầu đến tăng trưởng kinh
tế là giống nhau qua các thời kỳ
Giả thuyết H6: Tác động của tiêu thụ điện, tiêu thụ xăng dầu đến tăng trưởng kinh
tế là tác động đối xứng
2.5. Khoảng trống nghiên cứu
Tổng kết các nghiên cứu thực nghiệm, luận án nhận thấy có một số khe hổng
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất: Các nghiên cứu trước đây chỉ xem tác động riêng lẻ của từng dạng
hội nhập đến tăng trưởng kinh tế. Mặc dù có ý nghĩa về khoa học, nhưng lại cung cấp
một cái nhìn không đầy đủ về tất cả các tác động của hội nhập. Bởi vì, hầu hết các
quốc gia đang phát triển như Việt Nam đều cùng một lúc tham gia tất cả các dạng hội
nhập tổng quan, hội nhập tài chính và hội nhập thương mại.
Thứ hai: Các nghiên cứu trước đây có phân tích tác động ngắn hạn và tác
động dài hạn, tuy nhiên lại đều dựa trên một giả định cơ bản là các tác động này giống
nhau trong mọi thời kỳ. Tăng trưởng kinh tế là thước đo tổng hợp của tất cả các hoạt
động kinh tế, do vậy nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Do vậy, tương ứng với từng thời
kỳ là từng quy mô của nền kinh tế, từng phương thức hoạt động sản xuất vật chất khác
nhau, tức là tăng trưởng kinh tế, hay hội nhập kinh tế sẽ đạt và chịu sự chi phối nhất
định bởi “hiệu ứng ngưỡng” của các yếu tố khác như chất lượng thể chế, hoặc tỉ lệ
lạm phát.
Thứ ba: Ngoài việc bỏ qua hiệu ứng ngưỡng, các nghiên cứu thực nghiệm
trước đây cho kinh tế Việt Nam còn dựa trên một giả định đó là không tồn tại “điểm
gãy cấu trúc” trong toàn bộ dữ liệu. Trong giai đoạn 1986-2018, nền kinh tế Việt Nam
có hai cột mốc quan trọng về hội nhập kinh tế đó là: (i) Năm 1995, Mỹ bỏ cấm vận
kinh tế và Việt Nam được kết nạp là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á; (ii) Năm 2008, Việt Nam chính thức được Tổ chức thương mại thế giới WTO kết
nạp là thành viên. Đây có thể là lý do để tin rằng giả định không tồn tại điểm gãy cấu
trúc là chưa thực sự hợp lý.
Thứ tư: Các nghiên cứu trước thường dựa trên giả định tác động của tiêu thụ
năng lượng đến tăng trưởng kinh tế là tác động đối xứng có nghĩa là nếu kết luận ủng
hộ cho giả thuyết Growth thì khi tăng tiêu thụ năng lượng và giảm tiêu thụ năng lượng
sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế là như nhau. Điều này có thể chưa thực tế vì trong
giai đoạn 1971-2017 kinh tế Việt Nam và cả kinh tế thế giới chứng kiến nhiều cuộc
khủng hoảng. Hơn nữa sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho các máy móc thiết
bị tiêu hao năng lượng ít hơn, tỉ trọng đóng góp của tiêu thụ năng lượng vào tăng
trưởng kinh tế có xu hướng giảm dần. Thời kỳ kinh tế tăng trưởng sẽ có nhu cầu tiêu
thụ năng lượng khác với thời kỳ kinh tế suy thoái, do vậy rất có thể độ lớn của tác
động giảm tiêu thụ năng lượng sẽ khác với độ lớn của tăng tiêu thụ năng lượng.
3. CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
3.1. Các hướng nghiên cứu của luận án
Luận án được chia thành ba hướng nghiên cứu:
Nội dung chi tiết:
Hướng 1: được thiết kế để trả lời cho mục tiêu 1, đó là phân tích mối quan hệ giữa
hội nhập và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn.
Hướng 2: được thiết kế để trả lời cho mục tiêu 2, đó là phân tích mối quan hệ giữa
tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn.
Hướng 3: được thiết kế để trả lời cho mục tiêu 3, đó là phân tích tác động của hội
nhập, tiêu thụ năng lượng đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong ngắn hạn và dài
hạn.
3.2. Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế và tăng trưởng
kinh tế
0 1 2.t t t tLnGDP X UB u = + + + (Mô hình 1)
0 1 2 3 4. . .( . ) .t t t t t t tLnGDP X DT X DT UB u = + + + + + (Mô hình 2)
Trong đó: UB là tỉ lệ đô thị hóa, biến này đóng vai trò là biến kiểm soát trong
mô hình. ut là sai số của mô hình. Biến Xt sẽ lần lượt nhận các giá trị là KOF (hội
nhập tổng quan), LnIFI (hội nhập tài chính), OPEN (hội nhập thương mại). DT là biến
giả (trước điểm gãy cấu trúc = 0, sau điểm gãy nhận cấu trúc sẽ nhận giá trị = 1). Dữ
liệu được thu thập trong giai đoạn 1986-2018.
3.3. Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng và tăng
trưởng kinh tế
0 1 2 3 4. . .( . ) .t t t t t t tGDP X DT X DT UB u = + + + + + (Mô hình 3)
0 1 2 3. . .t t t t tGDP ECcapita Oilcapita UB u = + + + + (Mô hình 4)
Trong đó: UB là tỉ lệ đô thị hóa, biến này đóng vai trò là biến kiểm soát trong
mô hình. ut là sai số của mô hình. Trong mô hình 3, biến Xt sẽ nhận các giá trị là
Oilcapita (nếu phân tích tác động của tiêu thụ xăng dầu) nhận giá trị là ECcapita (nếu
phân tích tác động của tiêu thụ điện đến tăng trưởng kinh tế). DT là biến giả (trước
điểm gãy cấu trúc = 0, sau điểm gãy nhận cấu trúc sẽ nhận giá trị = 1). Dữ liệu được
thu thập trong giai đoạn 1971-2017.
3.4. Mô hình nghiên cứu tác động của hội nhập kinh tế, tiêu thụ năng lượng
đến tăng trưởng kinh tế
0 1 2 3. . .t t t t tLnGDP LnIFI LnEC UB u = + + + + (Mô hình 5)
Trong đó: UB là tỉ lệ đô thị hóa, biến này đóng vai trò là biến kiểm soát trong
mô hình. ut là sai số của mô hình. Biến LnIFI là hội nhập tài chính, biến LnEC là tiêu
thụ điện. Dữ liệu được thu thập theo năm, từ 1986-2017.
3.5. Dữ liệu và nguồn thu thập dữ liệu
Dữ liệu về tăng trưởng kinh tế được thu thập từ WB và UNCTAD.
Dữ liệu về hội nhập tài chính, hội nhập thương mại được thu thập từ UNCTAD.
Dữ liệu về tiêu thụ điện, tiêu thụ xăng dầu được thu thập từ IEA.
Dữ liệu về hội nhập tổng quan được thu thập từ Viện nghiên cứu kinh tế Thụy Sĩ
3.6. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận định lượng gồm: Phương pháp ước
lượng bình phương nhỏ nhất (OLS), phương pháp hồi quy có điểm ngưỡng (TR),
phương pháp tự hồi quy phân phối trễ (ARDL), phương pháp tự hồi quy phân phối trễ
phi tuyến (NARDL). Kiểm định nhân quả giữa các biến được tiến hành theo phương
pháp do Toda và Yamamoto đề xuất.
4. CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế, hội nhập và tiêu thụ năng lượng của
Việt Nam giai đoạn 1971-2018
Về hội nhập kinh tế, theo Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
(VCCI) thì kể từ sau đường lối đổi mới kinh tế năm 1986, kinh tế Việt Nam đã từng
bước hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế khu vực/thế giới. Năm 1995, Việt Nam là
thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, năm 2008 được công
nhận là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Đến tháng
05/2019, Việt Nam đã ký kết 12 Hiệp định thương mại tự do FTA song phương và đa
phương, đang đàm phán 4 hiệp định. Có 126 quốc gia/vùng lãnh thổ có đầu tư trực
tiếp vào Việt Nam, và Việt Nam có quan hệ thương mại với khoảng 178 quốc gia/vùng
lãnh thổ trên khắp thế giới. Nhờ đó mà vị thế của kinh tế Việt Nam có sự thay đổi theo
chiều hướng tích cực và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực. Phải thừa nhận rằng xu hướng
hội nhập kinh tế đang được ủng hộ rộng rãi ở Việt Nam.
Về tiêu thụ năng lượng thì cùng với sự mở rộng quy mô của nền kinh tế, tất
cả các loại tiêu thụ năng lượng ở Việt Nam đều tăng mạnh. Tuy nhiên hiện nay mức
tiêu thụ điện của Việt Nam được đánh giá là quá cao, tức là để làm ra 1 đơn vị sản
phẩm thì Việt Nam phải tiêu tốn một sản lượng điện gấp gần 3 lần so với các nước
Trung Quốc và các nước thuộc khu vực ASEAN.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tuy bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997 và thế giới năm 2008, nhưng nhìn chung kinh
tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khá mạnh trong suốt giai đoạn 1986-2018, có nhiều
chuyển biến tích cực cả về số lượng lẫn chất lượng. Theo số liệu của Ngân hàng thế
giới thì thu nhập bình quân đầu người đã tăng gần 6 lần, từ 391 (USD/người/năm) vào
năm 1986, đã lên 1.965 (USD/người/năm) vào năm 2018 (tính theo giá cố định năm
2010). Việt Nam được xếp vào nhóm nước đang phát triển từ năm 2012.
4.2. Kết quả thực nghiệm mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế và tăng trưởng
kinh tế
Bảng 1. Tác động trong dài hạn của hội nhập đến tăng trưởng kinh tế
Tên biến Hệ số β Sai số Prob
KOF -0,0147 0,0220 0,513
DT 1,1953 0,8458 0,177
KOF_DT -0,0245 0,0217 0,274
UB 0,1449 0,0650 0,041
Hệ số chặn 0,4259 0,2894 0,161
LnIFI 0,1059 0,0345 0,008
DT 3,3715 1,1336 0,009
LnIFI_DT -0,3458 0,1201 0,011
UB 0,1207 0,0219 0,000
Hệ số chặn 0,4859 0,2419 0,063
OPEN 0,0248 0,0078 0,006
DT 1,5102 0,5274 0,013
OPEN_DT -0,0203 0,0074 0,016
UB 0,0402 0,0092 0,001
Hệ số chặn 0,8994 0,2097 0,001
Theo kết quả trong bảng 1, biến hội nhập tổng quan (KOF) không có ý nghĩa
thống kê, biến hội nhập tài chính (LnIFI) và biến hội nhập thương mại (OPEN) có ý
nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%. Biến LnIFI_DT và biến OPEN_DT cùng mang dấu
âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Các kết quả này chứng tỏ, cả hội nhập tài chính
và hội nhập thương mại đều có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam trong dài hạn. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng đã bị giảm xuống sau năm 1995
(năm xuất hiện điểm gãy cấu trúc).
4.3. Kết quả thực nghiệm mối quan hệ giữa tiêu thụ năng lượng và tăng
trưởng kinh tế
Bảng 2. Tác động trong dài hạn của tiêu thụ năng lượng đến tăng trưởng kinh tế
Kết quả ước lượng từ phương pháp ARDL của tiêu thụ điện
ECcapita 0,9904 0,2098 0,000
DT 110,74 26,935 0,000
EC_DT -0,9178 0,1976 0,000
UB 81,440 5,1313 0,000
Hệ số chặn -625,45 137,70 0,000
Kết quả ước lượng từ phương pháp NARDL của tiêu thụ điện
ECcapita_POS 0,1024 0,0291 0,001
ECcapita_NEG -6,9053 3,5553 0,061
Kết quả ước lượng từ phương pháp ARDL của tiêu thụ xăng dầu
Oilcapita -267,97 166,16 0,115
DT -4,1862 75,667 0,956
Oil_DT 61,937 175,27 0,726
UB 137,03 27,523 0,000
Hệ số chặn -322,29 97,904 0,002
Kết quả ước lượng từ phương pháp NARDL của tiêu thụ xăng dầu
Oilcapita_POS 114,265 46,809 0,020
Oilcapita_NEG -58,943 19,878 0,006
Theo kết quả thu được trong bảng 2 bằng phương pháp ước lượng ARDL và
NARDL cho thấy tiêu thụ điện có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam trong dài hạn và tác động này là tác động bất đối xứng. Tác động của tiêu thụ
xăng dầu cũng là tác động tích cực và bất đối xứng. Theo đó thì tăng tiêu thụ xăng
dầu sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế nhiều hơn là giảm tiêu thụ xăng dầu.
4.4. Kết quả thực nghiệm tác động của hội nhập kinh tế, tiêu thụ năng lượng
đến tăng trưởng kinh tế
Bảng 3: Tác động trong dài hạn của hội nhập kinh tế, tiêu thụ năng lượng đến tăng
trưởng kinh tế.
Tên biến Hệ số β Sai số Prob
Kết quả ước lượng từ phương pháp OLS
LnIFI 0,0205 0,0030 0,000
LnEC 0,3725 0,0243 0,000
UB 0,0115 0,0047 0,020
Hệ số chặn 4,1671 0,0318 0,000
Kết quả ước lượng từ phương pháp ARDL
LnIFI 0,0283 0,0123 0,035
LnEC 0,2219 0,0718 0,007
UB 0,0283 0,0106 0,017
Hệ số chặn 1,8936 0,6860 0,014
Giá trị R_square = 0,87, Giá trị R_square hiệu chỉnh = 0,78
ECM = LnGDP - [0,0283.LnIFI + 0,2219.LnEC + 0,0283.UB + 1,8936]
Theo kết quả trong bảng 3, thì cả hội nhập kinh tế và tiêu thụ năng lượng
đều có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Về mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế và tăng trưởng kinh tế
Kết luận của nghiên cứu này ủng hộ cho cả ba giả thiết H1, H2, H3. Theo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_hoi_nhap_tieu_thu_nang_luong_va_tang_truong.pdf