Ở giai đoạn này, mối quan hệ giữa Chính phủ và cơ quan tư
pháp được thể hiện chủ yếu ở mối quan hệ của chủ thể quản lý với
đối tượng chịu sự quản lý. Cụ thể là việc quản lý Tòa án nhân dân
địa phương tiếp tục kế thừa quy định như Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1981 và có điểm mới hơn đó là Bộ Tư pháp quản lý toàn
diện cả về tổ chức, cán bộ và kinh phí hoạt động. Việc tách kinh phí
hoạt động của tòa án với ngân sách địa phương là một điểm mới,
khẳng định xu hướng độc lập của toà án với chính quyền địa phương
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 07/03/2022 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà
nước; Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về thực trạng mối quan
hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực
nhà nước; Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu về giải pháp bảo đảm
mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện
quyền lực nhà nước.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Luận án cũng chia tài liệu nước ngoài thành 2 nhóm công
trình nghiên cứu: Lý luận và thực trạng, giải pháp bảo đảm mối quan
hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp.
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án
1.2.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan
đến đề tài
Qua việc nghiên cứu các công trình trong nước và nước
ngoài, có thể đưa ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận án khá phong phú, đa dạng, được tiếp cận từ nhiều hướng
khác nhau, ở mức độ liên quan khác nhau.
Thứ hai, các công trình trong nước tập trung nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến: nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; nghiên cứu chuyên sâu
về nhánh quyền hành pháp và kiểm soát quyền lực hành pháp, về
nhánh quyền tư pháp và kiểm soát quyền lực tư pháp; mối quan hệ
giữa lập pháp và hành phápTrong những công trình nghiên cứu
này cũng đã phần nào đề cập đến mối quan hệ giữa quyền tư pháp và
7
quyền hành pháp, nhưng chủ yếu trên phương diện kiểm soát quyền
lực. Hiện chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tập trung,
chuyên sâu, một cách có hệ thống về mối quan hệ giữa quyền tư
pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt
Nam hiện nay.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu của nước ngoài tập trung
nhiều vào nghiên cứu lý luận và mối quan hệ giữa ba ngành: lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Có học giả nước ngoài cũng đã nghiên
cứu tương đối toàn diện về lịch sử lập hiến Việt Nam và cũng đã đề
cập đến nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà
nước trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Những công
trình nghiên cứu mà tác giả luận án tiếp cận là những tư liệu quan
trọng, giúp giải quyết các nhiệm vụ mà luận án đặt ra.
1.2.2. Những vấn đề nghiên cứu đã sáng tỏ và được luận
án kế thừa, phát triển trong nghiên cứu đề tài
Trên phương diện lý luận
- Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra
rằng: nguồn gốc của quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Do
vậy, để quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, tránh lộng
quyền và lạm quyền, nhất thiết phải được phân chia hoặc phân công
cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện.
- Ba nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có mối
quan hệ với nhau, trong đó thừa nhận tính độc lập của tư pháp.
- Có đề tài đã đưa ra được khái niệm quyền hành pháp,
quyền tư pháp, cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực
hiện quyền tư pháp.
- Đã có đề tài đề cập đến mối liên hệ giữa ba nhánh quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chủ yếu tập trung vào
mối liên hệ giữa lập pháp và hành pháp, còn mối liên hệ giữa tư pháp
và hành pháp chưa được chú trọng nghiên cứu.
Trên phương diện thực tiễn
- Một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến thực trạng tổ
chức quyền hành pháp trong nhà nước Việt Nam từ năm 1945 đến
8
nay, thực trạng quyền tư pháp trong nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Đã có công trình đề cập đến thực trạng phân công, phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp trước khi ban hành Hiến pháp năm 1992 và từ
khi có Hiến pháp năm 1992 đến nay. Tuy nhiên, thực trạng mối quan
hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp qua các bản Hiến pháp
Việt Nam chưa được quan tâm nghiên cứu, cần được tiếp tục làm rõ.
Trên phương diện đề xuất, kiến nghị
- Một số công trình hướng đến việc nghiên cứu để đưa ra các
kiến nghị, đề xuất hoàn thiện việc tổ chức thực hiện quyền hành
pháp, quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
- Có công trình hướng đến việc đề xuất các giải pháp hoàn
thiện việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
1.2.3. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án còn chưa
được giải quyết hoặc giải quyết chưa được thấu đáo mà luận án
cần tiếp tục nghiên cứu
Xuất phát từ sự phân tích thực trạng tình hình nghiên cứu
liên quan đến đề tài luận án nêu trên, có thể thấy những vấn đề đặt ra
cần tiếp tục nghiên cứu bao gồm:
Thứ nhất, về khái niệm, đặc điểm, nội dung mối quan hệ
giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp, vai trò xác lập mối quan hệ
giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. Kết quả nghiên cứu phải
đưa ra được các khái niệm có căn cứ lập luận khoa học thuyết phục.
Thứ hai, xác định và phân tích các điều kiện đảm bảo mối
quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp
Thứ ba, phân tích quá trình hình thành và phát triển mối
quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong lịch sử lập
hiến Việt Nam cũng như thực tiễn mối quan hệ của hai nhánh quyền
này hiện nay.
Thứ tư, xác định các quan điểm và giải pháp bảo đảm mối
quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp.
9
1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
1.3.1. Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ
giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp dưới góc độ pháp lý, các giả
thuyết khoa học cần đặt ra như sau:
Ở nước ta, sự phân công, phối hợp quyền lực giữa quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp nói chung cũng như phân công, phối hợp
giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp nói riêng đã được nhận thức,
áp dụng từ nhiều năm qua nhưng vẫn chưa thực sự rõ ràng, hợp lý.
Trong khi đó, kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp mới
chính thức được ghi nhận ở Hiến pháp năm 2013. Thực tiễn thực
hiện mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp hiệu quả
chưa cao, còn nhiều bất cập, vướng mắc, chưa thực sự đảm bảo được
sự độc lập của tư pháp cũng như sự mềm dẻo, linh hoạt của hành
pháp. Vì vậy, yêu cầu nhận thức, thể chế hóa pháp lý đầy đủ nhằm
hiện thực hóa, đảm bảo mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp đang đặt ra cấp bách, là một trong những yếu tố quyết
định, góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận án đặt ra các
câu hỏi nghiên cứu cần phải giải đáp:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận nào về mối quan hệ giữa
quyền tư pháp và quyền hành pháp cần phải được phân tích và giải
quyết để tạo lập nền tảng nhận thức về mối quan hệ này? Triết lý nào
cho việc bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành
pháp?
Thứ hai, thực trạng mối quan hệ giữa quyền tư pháp và
quyền hành pháp được quy định như thế nào trong Hiến pháp và các
văn bản pháp luật Việt Nam? Thực tiễn thực hiện mối quan hệ này
có ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân nào?
Thứ ba, những quan điểm, giải pháp nào cần đề xuất để bảo
đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực
hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay?
10
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
QUYỀN TƯ PHÁP VÀ QUYỀN HÀNH PHÁP TRONG THỰC
HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò mối quan hệ giữa quyền
tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước
2.1.1. Khái niệm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước
2.1.1.1. Quyền tư pháp
Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là một nhánh quyền lực trong cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát
quyền lực nhà nước; được trao cho Tòa án nhân dân thực hiện thông
qua hoạt động xét xử, nhằm duy trì, bảo vệ công lý, trật tự pháp luật,
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân,
cơ quan, tổ chức và nhà nước theo quy định của pháp luật.
Về chủ thể thực hiện quyền tư pháp: Tòa án có vị trí là cơ
quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp.
2.1.1.2. Quyền hành pháp
Quyền hành pháp bao gồm quyền lập quy và quyền hành
chính, trong đó quyền lập quy là quyền hoạch định chính sách quốc
gia, ban hành các văn bản pháp quy; quyền hành chính là quyền tổ
chức, điều hành các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an
ninh quốc phòng, đối ngoại theo pháp luật.
Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ là cơ quan thực
hiện quyền hành pháp. Điều này không có nghĩa là toàn bộ quyền
hành pháp được giao cho tập thể Chính phủ và các thành viên của
Chính phủ đảm nhiệm. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của
luận án, tác giả chỉ đề cập đến cơ quan thực hiện quyền hành pháp là
Chính phủ trong mối quan hệ với Tòa án – cơ quan thực hiện quyền
tư pháp.
Trong bộ máy nhà nước ta, Tòa án là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, giữa hai nhánh quyền
lực này luôn có sự liện hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Tùy vào từng
11
hình thức chính thể, các quốc gia sẽ có cách thiết lập khác nhau về
mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp nhưng tựu
chung lại, mối quan hệ này luôn được xác lập trên ba phương diện
chính: sự phân công, sự phối hợp và sự kiểm soát lẫn nhau giữa hai
nhánh quyền lực này.
Từ những khái niệm công cụ và phân tích nêu trên, có thể
hiểu mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực
hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam là quan hệ phân công, phối hợp
và kiểm soát việc thực thi quyền tư pháp và quyền hành pháp do cơ
quan tư pháp và cơ quan hành pháp thực hiện, bảo đảm quyền lực
nhà nước là thống nhất; thực hiện quyền tư pháp, quyền hành pháp
đúng pháp luật, có hiệu lực, hiệu quả; xử lý nghiêm minh, kịp thời
mọi vi phạm pháp luật; thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các cá nhân và tổ chức trong xã hội.
2.1.2. Đặc điểm của mối quan hệ giữa quyền tư pháp và
quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Một là, mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp
có nội dung kiểm soát có tính chất tài phán rõ ràng, cụ thể, bắt buộc
thực hiện đối với hành pháp.
Hai là, quyền hành pháp có sự kiểm soát nhất định đối với
quyền tư pháp nhưng phải bảo đảm tính độc lập của Tòa án nhân dân
khi thực hiện quyền tư pháp.
Ba là, quan hệ giữa tư pháp và hành pháp mặc dù có sự phân
công rành mạch về chức năng nhưng phối hợp chặt chẽ trong hoạt
động nhằm phục vụ, hỗ trợ bảo đảm hiệu quả hoạt động của cả hành
pháp và tư pháp.
2.1.3. Vai trò xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và
quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Một là, góp phần kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước
giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp.
Hai là, việc xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và
quyền hành pháp góp phần bảo đảm thực thi quyền tư pháp và quyền
hành pháp có hiệu lực, hiệu quả.
12
Ba là, việc xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất,
thuộc về nhân dân
2.2. Nội dung mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
2.2.1. Nội dung phân công giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện
rất rõ sự phân công quyền lực. Phương diện này được Hiến định
trong Hiến pháp năm 2013 bằng quy định Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp, Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó,
Hiến pháp còn quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ,
Tòa án nhân dân và được cụ thể hóa thông qua Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2015 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Theo đó,
Hiến pháp trao cho Chính phủ 08 nhiệm vụ và quyền hạn. Đối với
Tòa án, Hiến pháp trao cho cơ quan này thẩm quyền xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp
luật. Nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2.2.2. Nội dung phối hợp giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Đối với Việt Nam, nội dung phối hợp giữa quyền tư pháp và
quyền hành pháp được Hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Trong
phạm vi luận án, tác giả tập trung nghiên cứu sự phối hợp giữa Tòa
án nhân dân và Chính phủ trong hoạt động xây dựng pháp luật, giáo
dục pháp luật, trong hoạt động quản lý các Tòa án theo quy định tại
Quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ với Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành bởi Nghị quyết
liên tịch số 15/NQLT/CP-TANDTC-VKSNDTC ngày 31/3/2010.
2.2.3. Nội dung kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
13
* Kiểm soát của quyền lực tư pháp đối với quyền lực hành
pháp:
Ở nước ta, kiểm soát quyền lực hành pháp từ quyền lực tư
pháp được thực hiện bởi Tòa án. Hoạt động kiểm soát của toà án có
tính chất gián tiếp, thông qua việc giải quyết các tranh chấp về kinh
tế, lao động, hôn nhân và gia đình và thông qua việc giải quyết các
vụ án hành chính. Trong quá trình thực hiện quyền hành pháp, các cơ
quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước ban hành các quyết định hành chính, thực hiện các
hành vi hành chính làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ
xã hội, ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân, cơ quan, tổ chức. Quá
trình đó có thể nảy sinh các tranh chấp giữa cơ quan hành chính với
công dân, cơ quan, tổ chức. Để giải quyết tranh chấp này, Tòa án có
quyền phán quyết đối với các quyết định hành chính, hành vi hành
chính của các cơ quan hành chính (giải quyết khiếu kiện hành chính).
Với thẩm quyền đánh giá tính hợp pháp hay sai phạm của quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện, xét xử hành chính thực
sự là một cơ chế hữu hiệu để bảo đảm cho các cơ quan hành chính
nhà nước nói chung thực hiện đúng quy định của pháp luật trong quá
trình thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước của mình.
* Kiểm soát của quyền lực hành pháp đối với quyền lực tư
pháp:
Tòa án là một cơ quan nhà nước, do vậy ngoài hoạt động xét
xử còn thực hiện các hoạt động hành chính nhà nước có tính chất nội
bộ (thiết lập bộ máy hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức, thực hiện các hoạt động tác nghiệp hành chính; sử
dụng tài sản công, ngân sách nhà nước và những hoạt động hành
chính khác). Theo đó, Tòa án phải chấp hành pháp luật hành chính
với tư cách là một chủ thể của luật hành chính. Điều này mang lại
cho Chính phủ khả năng kiểm soát Tòa án về những hoạt động hành
chính nhà nước do pháp luật quy định.
2.3. Các điều kiện bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư
pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước
2.3.1. Chế độ chính trị
14
Mỗi chế độ chính trị, dù đa nguyên hay nhất nguyên thì ở bất
kỳ nhà nước hiện đại nào cũng đều có sự hiện diện của việc phân
quyền với các mức độ áp dụng khác nhau. Ở các nước tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền và có hệ thống
chính trị đa nguyên thì quyền tư pháp và quyền hành pháp hoạt động
theo cơ chế cân bằng và đối trọng nhau. Trong khi đó, ở các chế độ
chính trị nhất nguyên thường các nhánh quyền lực nhà nước không
hoạt động theo cơ chế cân bằng và đối trọng nhau mà có sự tác động
qua lại ở mức độ nhất định và kiểm soát lẫn nhau.
2.3.2. Chính thể nhà nước
Chính thể là nơi thể hiện một cách tập trung nhất mối quan
hệ qua lại giữa các phạm vi quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa tổng thống, điển hình
là Hoa Kỳ, giữa các nhánh quyền lực có sự kiềm chế, đối trọng nhau
Ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa đại nghị, quyền lực
nhà nước được tổ chức một cách mềm dẻo, linh hoạt hơn. Điều đó
thể hiện ở chỗ hành pháp không hoàn toàn độc lập mà có mối liên hệ
mật thiết, thường xuyên với lập pháp do sự chịu trách nhiệm trước
lập pháp và sự chung nhân viên giữa hai cơ quan này. Nguyên thủ
quốc gia chỉ là hành pháp tượng trưng vì bộ máy hành pháp trực
thuộc thủ tướng và thủ tướng mới phải chịu trách nhiệm trước lập
pháp. Tư pháp độc lập với hành pháp trong hoạt động song không
hoàn toàn độc lập trong tổ chức và trong cả tổ chức lẫn hoạt động
đều không hoàn toàn độc lập với lập pháp
Ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa hỗn hợp, đây là dạng
chính thể có các đặc trưng của cả Cộng hòa Đại nghị lẫn Tổng thống
và Pháp là đại diện điển hình cho dạng chính thể này. Quyền hành
pháp do Chính phủ mà thực chất là Tổng thống nắm. Tổng thống là
nguyên thủ quốc gia đồng thời là người có tác động trực tiếp đến bộ
máy hành pháp. Với tư cách là người đứng đầu nhà nước do nhân
dân trực tiếp bầu ra Tổng thống có quyền hoạch định chính sách
quốc gia, chủ tọa Hội đồng Bộ trưởng để thông qua chính sách này.
2.3.3. Mức độ hoàn thiện của các quy định trong hệ thống
pháp luật về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp
15
Cho dù tổ chức theo mô hình nào thì những quan điểm
nguyên tắc về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước cũng phải
được thể hiện thành các quy định của pháp luật mới có cơ sở pháp lý
để thực hiện trong thực tế. Tuy vậy, trong thực tế, khi thể chế hóa
các nguyên tắc, quan điểm về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và
quyền hành pháp cũng như các quan hệ khác không phải bao giờ
cũng đầy đủ, chặt chẽ. Trong hệ thống pháp luật vẫn còn những quy
định bất cập, khó thực hiện hoặc chưa đủ cụ thể bảo đảm sự phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát giữa tư pháp và
hành pháp.
2.3.4. Tổ chức bộ máy và năng lực, phẩm chất đội ngũ cán
bộ, công chức các cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp
Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân được cơ cấu bảo đảm tính
độc lập khi xét xử, khách quan, không phụ thuộc vào điều kiện gì,
không chịu áp lực nào khi xem xét đánh giá tính đúng đắn, phù hợp
pháp luật trong hoạt động của các cơ quan hành pháp, cán bộ, công
chức cơ quan hành pháp. Đối với các cơ quan hành pháp cũng vậy.
Để phục vụ, hỗ trợ có hiệu quả cho các cơ quan thực hiện quyền tư
pháp, các cơ quan hành pháp cũng cần có cơ cấu hợp lý, chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn rõ ràng, cụ thể, khả thi. Đây là điều kiện bảo
đảm mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
2.3.5. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt
động của cơ quan tư pháp và hành pháp
Để bảo đảm thực hiện mối quan hệ giữa quyền tư pháp và
quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước thì ngoài vấn
đề tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức còn cần phải đầu tư cơ
sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, hợp lý, kinh phí đủ yêu cầu phục
vụ cho hoạt động tư pháp và hành pháp. Những điều kiện vật chất
này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tư pháp và hành pháp, bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả của từng hoạt động, trong đó có mối quan hệ
vừa là phân công, phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau, vừa là
kiểm soát lẫn nhau giữa tư pháp và hành pháp.
16
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN
TƯ PHÁP VÀ QUYỀN HÀNH PHÁP TRONG
THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng quy định của pháp luật về mối quan hệ
giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền
lực nhà nước ở Việt Nam
3.1.1. Lịch sử phát triển mối quan hệ giữa quyền tư pháp
và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt
Nam qua các bản Hiến pháp
3.1.1.1. Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946 đã bảo đảm tính độc lập của các quyền
hành pháp và quyền tư pháp; khẳng định tính nguyên tắc là các cơ
quan Chính phủ và Tòa án đều là những cơ quan cao nhất của quyền
lực nhà nước, mỗi cơ quan nắm giữ một bộ phận quyền lực nhà
nước. Hiến pháp năm 1946 cũng tạo cơ chế cân bằng quyền lực,
trong đó có việc kiểm soát giữa các cơ tư pháp đối với cơ quan hành
pháp và ngược lại.
3.1.1.2. Hiến pháp năm 1959
Nhìn chung, sự phân công quyền lực giữa lập pháp, hành
pháp và tư pháp đã “mờ nhạt” hơn so với Hiến pháp năm 1946.
Những học thuyết về phân định quyền lực được thể chế trong Hiến
pháp năm 1946 đã “không được kế thừa và phát huy” trong Hiến
pháp năm 1959. Có thể nói, từ Hiến pháp năm 1959 đã bắt đầu hình
thành xu hướng tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội, còn
quyền lực của các cơ quan khác chỉ được coi là quyền lực phái sinh
từ Quốc hội
3.1.1.3. Hiến pháp năm 1980
Ở giai đoạn này, việc thực hiện quyền tư pháp của cơ quan
hành pháp đã có sự chỉ đạo tập trung vào quản lý biên chế, kinh phí.
Bộ Tư pháp được tổ chức và đảm nhiệm việc quản lý toà án và chủ
yếu là việc chăm lo về đội ngũ cán bộ ngành tư pháp như: trình tổng
số biên chế và quy định biên chế cụ thể cho từng Tòa án nhân dân
17
địa phương và chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về ngân
sách địa phương cho hoạt động của Toà án nhân dân ở địa phương.
3.1.1.4. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
* Giai đoạn từ 1992 đến trước 2002
Ở giai đoạn này, mối quan hệ giữa Chính phủ và cơ quan tư
pháp được thể hiện chủ yếu ở mối quan hệ của chủ thể quản lý với
đối tượng chịu sự quản lý. Cụ thể là việc quản lý Tòa án nhân dân
địa phương tiếp tục kế thừa quy định như Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1981 và có điểm mới hơn đó là Bộ Tư pháp quản lý toàn
diện cả về tổ chức, cán bộ và kinh phí hoạt động. Việc tách kinh phí
hoạt động của tòa án với ngân sách địa phương là một điểm mới,
khẳng định xu hướng độc lập của toà án với chính quyền địa phương.
* Giai đoạn từ năm 2002 đến 2013
Hiến pháp năm 1992 đã vận dụng được những hạt nhân hợp
lý của học thuyết phân quyền để xác lập mối quan hệ giữa lập pháp,
hành pháp, tư pháp theo cơ chế phân công, phối hợp quyền lực. Tuy
nhiên, tính đến thời điểm trước khi Hiến pháp năm 2013 ra đời, thì
ba nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không được trao một
cách độc lập cho ba cơ quan khác nhau. Theo quy định của Hiến
pháp năm 1992, chỉ có Quốc hội là cơ quan duy nhất được nắm
quyền lập pháp. Sự phân công quyền lực cũng không được thực hiện
một cách triệt để.
3.1.2. Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành
pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Hiến pháp năm 2013
và các văn bản pháp luật liên quan
3.1.2.1. Về phân công giữa Chính phủ và Tòa án nhân dân
Hiến pháp năm 2013 thể hiện rất rõ sự phân công quyền lực
nhà nước thông qua việc trao quyền hành pháp cho Chính phủ, quyền
tư pháp cho Tòa án. Điều này được luật Tổ chức Tòa án năm 2014 và
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 cụ thể hóa thành các nhiệm vụ cụ
thể của Tòa án nhân dân và Chính phủ.
3.1.2.2. Về phối hợp giữa Chính phủ và Tòa án nhân dân
18
Giữa Chính phủ và Tòa án nhân dân có sự phối hợp trong
công tác xây dựng pháp luật, công tác giáo dục pháp luật và hoạt
động quản lý các Tòa án.
3.1.2.3. Về kiểm soát giữa Chính phủ và Tòa án nhân dân
* Kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với cơ quan hành pháp
Hiện nay việc kiểm soát của Tòa án đối với cơ quan hành
pháp được nhận diện thông qua hoạt động xét xử theo thủ tục tố tụng
hành chính. Hiện nay, Tòa án nhân dân không có thẩm quyền phán
xét đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ
trưởng trở lên và các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ trở
xuống.
* Kiểm soát của cơ quan hành pháp đối với cơ quan tư pháp
Hiện nay Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác quy định
sự kiểm soát Tòa án từ Chính phủ chưa thực sự rõ ràng nếu không
nói là mờ nhạt. Chủ yếu nhận thấy Chính phủ có thể kiểm soát Tòa
án thông qua kiểm soát việc thu chi tài chính, ngân sách phục vụ cho
ngành Tòa án.
3.2. Thực tiễn mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay
3.2.1. Thực tiễn phân công giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ sự phân công này khi
quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp tại Điều
94, tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp tại Khoản 1 - Điều
102, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ chức Tòa án năm
2014 được ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 cũng đã thể
hiện rất rõ điều này. Tuy nhiên, trong số các nhiệm vụ, quyền hạn đó,
nhận thấy hiện nay Tòa án ở Việt Nam chưa có thẩm quyền xét xử
các văn bản pháp luật bị coi là vi phạm Hiến pháp. Ngoài ra, pháp
luật cũng không trao cho Tòa án quyền giải thích Hiến pháp và pháp
luật.
19
3.2.2. Thực tiễn phối hợp giữa quyền tư pháp và quyền
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay
Trong công tác xây dựng pháp luật, các dự án luật Chính phủ
chủ trì xây dựng đều tham khảo ý kiến của Tòa án v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_moi_quan_he_giua_quyen_tu_phap_va_quyen_hanh.pdf