Ưu điểm về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang
2.2.2.1. Năng lực nắm bắt và cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn địa phương ở cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS
Các chủ thể trong quá trình nâng cao NLTCTT, biểu hiện ở khả năng chuyển hóa nhận thức, vận dụng quy luật khách quan vào tổ chức thực tiễn đạt kết quả tương đối khá. Phần lớn trong số điều tra đã thể hiện khả năng nắm bắt, cụ thể hoá một cách sáng tạo đường lối, chủ trương, quyết định của cấp trên ; Về các điều kiện thuận lợi tác động đến khả năng nắm bắt đường lối, chủ trương của cấp trên và cấp mình. Đây là mặt tích cực, vì chỉ khi nào người cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS chủ động, tự giác nghiên cứu, tiếp thu đường lối chủ trương thì họ mới có khả năng vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách đó vào thực tiễn. Về cơ bản cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS đã thường xuyên được quán triệt yêu cầu về nâng cao NLTCTT. Về khả năng nắm bắt và thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Họ có khả năng làm chủ mọi hoạt động, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình.
2.2.2.2. Về năng lực ra quyết định, lựa chọn phương án tối ưu của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS
Đa số cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS đã có trách nhiệm trước những quyết định lãnh đạo, quản lý trên địa bàn, gồm: Một là, năng lực phân tích, lựa chọn phương án tối ưu đã có sự tiến bộ rõ nét; Hai là, năng lực xử lý các tình huống LĐ, QL có mặt tiến bộ góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi hoạt động công tác đảng, điều hành chính quyền, xử lý những tình huống lãnh đạo, quản lý phức tạp, diễn biến theo các chiều hướng khác nhau ở miền núi, biên giới( ); Ba là, kết quả phát hiện, giải quyết các mâu thuẫn của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS đã từng bước được nâng lên.
2.2.2.3. Năng lực tổ chức triển khai những công việc trong thực tiễn và xử lý các tình huống lãnh đạo, quản lý
Một là, thực trạng giải quyết vấn đề theo chức trách, nhiệm vụ của cán bộ LĐ, QL cấp huyện được thể hiện thường xuyên qua hoạt động học tập, rèn luyện,.đạt được thành công nhất định; Hai là, việc đánh giá của cán bộ có thẩm quyền cấp tỉnh về năng lực xử lý các tình huống LĐ, QL ở cán bộ người DTTS ở mức trung bình, không có yếu; ba là, năng lực vận động quần chúng của cán bộ LĐ, QL cấp huyện đã có sự tiến bộ về mặt nhận thức, coi nội dung này có vị trí rất quan trọng; bốn là, cán bộ LĐ, QL người DTTS cấp huyện thường xuyên sâu sát cơ sở.
2.2.2.4. Năng lực kiểm tra và sơ - tổng kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, các quyết định LĐ, QL tại địa phương
Một là, đánh giá về năng lực kiểm tra của cán bộ LĐ, QL cấp huyện, các đồng chí lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh cho rằng: có đến 81% đánh giá“tốt” và 46,3% ở mức“khá”; có 45,5% ở mức “trung bình” và chỉ có 8,1% “yếu”, không có “xuất sắc”, như vậy, đại đa số đạt ở mức đáp ứng được yêu cầu công việc; hai là, công tác sơ - tổng kết qua khảo sát ý kiến đánh giá của lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, có 18,2% cho rằng cấp huyện có nhiều đóng góp kinh nghiệm, ý kiến đối với quyết sách của tỉnh và Trung ương, có đến 81,8% cho rằng cấp huyện có đóng góp ý kiến; ba là, kết quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn được thực hiện theo chức trách.
2.2.2.5. Nguyên nhân của ưu điểm về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang
Về nguyên nhân khách quan: Thứ nhất, sự tác động tích cực trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thứ hai, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, quan tâm xây dựng các nhân tố tạo động lực thúc đẩy cán bộ.; thứ ba, sự phối hợp tương đối chặt chẽ giữa Đảng ủy với chính quyền cùng cấp ở địa phương. Về nguyên nhân chủ quan: Một là, về cơ bản cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS đã thường xuyên quán triệt yêu cầu nâng cao NLTCTT của cấp ủy cấp trên.; hai là, nỗ lực tự học, rèn luyện để hoàn thiện ở mỗi cán bộ LĐ, QL.
24 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 523 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lý. Do vậy, gọi chung là hoạt động LĐ, QL hay gắn với con người thì thường gọi là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
* Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS
"Cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS" được hiểu là những người có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ để trở thành cán bộ LĐ, QL người DTTS và theo nghĩa cơ bản là: Những người cán bộ LĐ, QL có nguồn gốc xuất thân từ các DTTS được tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, được rèn luyện, thử thách để bố trí, sắp xếp vào các cương vị lãnh đạo, quản lý công tác trong bộ máy của hệ thống chính trị. Về tiêu chuẩn "cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS " nói chung là từ các DTTS. Tiêu chí này có ý nghĩa phân biệt đối với những cán bộ LĐ, QL có nguồn gốc xuất thân từ dân tộc Kinh (gọi là dân tộc đa số). Tất cả các tiêu chí còn lại đều tuân thủ thống nhất theo các tiêu chuẩn và quy trình của công tác cán bộ của nước ta.
1.1.4. Khái niệm năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS
NLTCTT của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS cũng như những đặc điểm và cấu trúc năng lực tổ chức của người lãnh đạo nói chung. Đó là khả năng phát huy và biết kết hợp tối ưu các nhân tố khách quan và chủ quan, yếu tố vật chất và tinh thần thành một hệ thống chỉnh thể hoạt động nhịp nhàng cân đối có hiệu lực nhằm thực hiện hóa những mục tiêu đã được đề ra. Đồng thời, là hệ thống các thuộc tính tâm lý của nhân cách, đáp ứng yêu cầu của việc tổ chức thực tiễn và đảm bảo cho người LĐ, QL đạt hiệu quả cao trong công tác này. Cấu trúc của NLTCTT của cán bộ LĐ, QL người DTTS bao gồm nhận thức của cán bộ LĐ, QL cấp huyện về thực tiễn, những kỹ năng vận dụng sự hiểu biết đó vào thực tiễn, bảo đảm cho hoạt động hiệu quả chính là các thành tố cấu thành tạo nên năng lực này...; yếu tố cấu thành và cũng là biểu hiện của năng lực này là:
* Nhận thức của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS: NLTCTT của họ trước tiên phải được thể hiện ở nhận thức, sau đó là kỹ năng trong chỉ đạo thực tiễn, cụ thể: Sự hiểu biết chức năng, nhiệm vụ mà họ phải đảm trách ở cương vị lãnh đạo, quản lý nhất định; về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Sự hiểu biết về khoa học quản lý...
Xuất phát từ vị trí, vai trò của cấp huyện năng lực tổ chức thực tiễn cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS cụ thể là: Thứ nhất, năng lực nắm bắt và cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn địa phương; Thứ hai, năng lực ra quyết định, lựa chọn phương án tối ưu; Thứ ba, năng lực tổ chức triển khai những công việc trong thực tiễn và xử lý các tình huống lãnh đạo, quản lý; Thứ tư, năng lực kiểm tra và sơ - tổng kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, các quyết định lãnh đạo, quản lý tại địa phương.
1.2. Đặc điểm nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số
Theo từ điển tiếng Việt,“Nâng cao là làm cho cao hơn trước đưa lên mức cao hơn”; “Nâng cao là làm ở mức tốt hơn”, những hoạt động tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của chủ thể, nhằm tác động đến khách thể phát triển theo mục đích, yêu cầu của mọi công việc trên thực tế, là biểu hiện của quá trình nâng cao, việc chuyển từ trạng thái chất lượng này sang trạng thái chất lượng khác cao hơn, đáp ứng mục tiêu yêu cầu phát triển của sự vật, hiện tượng.
1.2.1. Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý là quá trình bổ sung, hoàn thiện tổng thể các yếu tố cấu thành năng lực tổ chức thực tiễn ở người lãnh đạo, quản lý
Một là, hoạt động LĐ, QL là khả năng phát huy vai trò của họ ở địa phương; hai là, các yếu tố cấu thành NLTCTT người LĐ, QL bao gồm: Nhận thức của cán bộ; các nhóm kỹ năng lãnh đạo và phẩm chất cán bộ gắn với sự biến đổi bởi những tiền đề khách quan; ba là, mục đích nâng cao NLTCTT cho cán bộ LĐ, QL là nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, tình huống nảy sinh; bốn là, LĐ, QL là sự tác động để thúc đẩy con người hành động theo mục tiêu đã đề ra; năm là, cán bộ LĐ, QL vẫn là loại hình lao động trí óc, là lao động cụ thể hóa, hiện thực hóa lý luận, phát hiện những tình huống nảy sinh trong thực tiễn.
1.2.2. Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo quản lý cấp huyện người DTTS là quá trình tương tác hợp quy luật giữa chủ thể và khách thể trong lãnh đạo, quản lý
* Chủ thể thực hiện nâng cao NLTCTT: Cùng với sự tác động của tổ chức, các lực lượng, các mối quan hệ có ý nghĩa quyết định đến nâng cao NLTCTT cán bộ LĐ, QL cấp huyện. Chủ thể nâng cao NLTCTT của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS là các tổ chức, các lực lượng (cấp Ủy Tỉnh, các Ban Xây dựng Đảng Tỉnh, các Ban, Ngành đoàn thể cấp tỉnh và cùng cấp, các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện và Trường Chính trị Tỉnh, các Học viện khu vực và Trung ương). Lãnh đạo các cơ quan ban, ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội thể hiện cụ thể ở các yếu tố cơ bản sau: Một là, thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết cấp trên thành kế hoạch và chương trình hành động; hai là, trực tiếp LĐ, QL lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, nghị quyết của Đảng, Nhà nước; ba là, trực tiếp kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sáchtrên cơ sở đó tổng kết thực tiễn; đồng thời Chủ thể là nhân dân các dân tộc ở miền núi, bởi lẽ, chính nhân dân các dân tộc là người chủ đất nước, là những người trực tiếp trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương.
* Khách thể thực hiện nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn: Là các yếu tố, bộ phận cấu thành năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ LĐ, QL cấp huyện, trực tiếp làm biến đổi, phát triển các yếu tố thuộc về chất lượng theo hướng ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng.ở địa phương trong tình hình mới.
* Mối quan hệ biện chứng chủ thể và khách thể: Thứ nhất, phương thức tác động, trên cơ sở nhận thức đúng quy luật khách quan của chủ thể; Thứ hai, quá trình tương tác hợp lý giữa các chủ thể với người LĐ, QL cấp huyện người DTTS trong quá trình nâng cao là sự đòi hỏi tích cực, tự giác; Thứ ba, nâng cao NLTCTT cho cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS cần thiết phải được định tính và định lượng bằng một hệ tiêu chí nhất định.
Tiểu kết chương 1
Trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử nghiên cứu vấn đề nâng cao NLTCTT, luận án đã tiếp cận NLTCTT cán bộ LĐ, QL cấp huyện nói chung và cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS trên địa bàn tỉnh Hà Giang. NLTCTT của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS là tổng hòa các yếu tố hợp thành khả năng hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ của họ; góp phần xây dựng đảng và chính quyền cấp huyện trong sạch, vững mạnh toàn diện trong bối cảnh hiện nay.
Nhờ có NLTCTT, người cán bộ chuyển hóa lý luận thành thực tiễn, đưa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống, thể hiện trên mấy điểm cơ bản sau: Thứ nhất, cụ thể hoá được đường lối, chủ trương của Đảng, các nghị quyết thành các kế hoạch, mục tiêu; thứ hai, dự đoán được chiều hướng vận động của tình hình ; thứ ba, thực hiện tốt mục tiêu, kế hoạch đã hoạch định trong từng giai đoạn cụ thể; thứ tư, tổ chức đôn đốc, chỉ đạo, kiểm; thứ năm, sơ - tổng kết, đánh giá các mặt hoạt động của địa phương để rút kinh nghiệm. Cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS là quá trình tương tác hợp quy luật giữa chủ thể làm biến đổi tổng thể các yếu tố hợp thành khả năng hoạt động vật chất đối với người LĐ, QL, đồng thời là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng đảng bộ và chính quyền cấp huyện đạt được kết quả cao nhất, là yêu cầu khách quan trong xây dựng tỉnh Hà Giang vững mạnh về mọi mặt.
Chương 2
NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay
Các nhân tố ảnh hưởng đến NLTCTT của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang.
2.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiện và kinh tế - xã hội
Hà Giang là một tỉnh miền núi cực Bắc của Việt Nam, có vị trí chiến lược đặc biệt về quốc phòng - an ninh, v.v. với diện tích là 7.929,4834 km2...; là địa bàn cư trú của 22 dân tộc sinh sống(Các dân tộc gồm Mông, Tày, Dao, Kinh, Nùng, Lô Lô, Giấy, Bố Y, Pu Péo, Cờ lao, Phù Lá, Pà Thẻn)
, dân số đến 31/12/2015 có 806.702 người (mật độ dân cư khoảng 102 người/km2) cư trú trên địa bàn 10 huyện và một thành phố với 195 xã, phường, thị trấn. Đến nay, tỉnh Hà Giang vẫn là một trong những địa phương nghèo nhất cả nước, cơ cấu kinh tế lạc hậu, thu nhập bình quân đầu người thấp, chỉ bằng 31% thu nhập bình quân của cả nước.
2.1.2. Ảnh hưởng của văn hóa tộc người và trình độ học vấn
Một là, các dân tộc cư trú phân tán, đan cài, đặc trưng này thể hiện ở tất cả các cấp độ, tỉnh, huyện, xã, thôn bản; hai là, cộng đồng các dân tộc nhiều giá trị nhân bản; ba là, đồng bào dân tộc ở huyện miền núi còn tàn dư phong tục, tập quán văn hóa, tâm lý tộc người lạc hậu; bốn là, tư tưởng trông chờ, ỉ lại vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước...
2.2. Thực trạng năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang
2.2.1. Đánh giá về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang
2.2.1.1. Về cơ cấu của đội ngũ cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang
Qua phân tích các báo cáo chính trị qua hai nhiệm kỳ (nhiệm kỳ XIV, XV), đồng thời điều tra chọn mẫu 70 đồng chí cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS vừa được bầu trong đại hội Đảng cấp huyện năm 2015 trên địa bàn 11 huyện, thành phố thuộc tỉnh Hà Giang (có 06 huyện điều tra được từ 80% các chức danh LĐ, QL cấp huyện) kết quả phân tích như sau: Một là, về chất lượng theo cơ cấu cán bộ: Tổng số cán bộ toàn tỉnh là 31.142 người, trong đó: cấp huyện với các chức danh lãnh đạo chủ chủ chốt (từ Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện, Thành phố đến Bí thư Huyện ủy, Thành ủy) có 88 đồng chí, trong đó có 50 đồng chí người DTTS, chiếm 56,8%; các chức danh trưởng, phó phòng, ban cấp huyện có 751 đồng chí, có 359 đồng chí DTTS, chiếm 47,8%); Hai là, về số lượng cán bộ cấp huyện là người DTTS với các chức danh lãnh đạo chủ chủ chốt (từ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, thành phố đến Bí thư huyện ủy, thành ủy) gồm 88 đồng chí, trong đó có 50 đồng chí người DTTS chiếm 56,8%; các chức danh trưởng, phó phòng, ban cấp huyện gồm 751 đồng chí, có 359 đồng chí người DTTS, chiếm 47,8%); Ba là, về tỷ lệ giữa cán bộ nam và nữ và độ tuổi. Nam giới vẫn chiếm tỷ lệ rất cao; Bốn là, về thành phần dân tộc: cán bộ, đảng viên người DTTS chiếm số khá đông, gấp gần 2 lần người Kinh: 63,7% so với 36,3%. Lãnh đạo các phòng, ban cấp huyện chưa tương xứng với tỷ lệ dân số ( ) Người Kinh chiếm 12% dân số nhưng chiếm 55,2% số Huyện uỷ viên và 57,2% Ban Thường vụ và 60% lãnh đạo các phòng, ban cấp huyện. Ở huyện Quản Bạ, người dân tộc chỉ chiếm 36,35% Huyện uỷ viên, 69,4% đại biểu Hội đồng Nhân dân, 17,1% trưởng phó các ban ngành.
).
2.2.1.2. Về chất lượng theo trình độ, phẩm chất, lối sống của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang
Thứ nhất, phân tích theo trình độ, phẩm chất cán bộ LĐ, QL người DTTS
* Đối với trình độ văn hoá, đa số những người được khảo sát có trình độ cấp III, chiếm 100%. Ở Thành phố Hà Giang có 100% Ủy viên Thường vụ có trình độ văn hoá cấp III, nhưng trong Ban Chấp Hành còn 13% trình độ trình độ cấp II; ở Vị Xuyên, có 11,1% trong Ban Thường vụ văn hoá cấp II, có 15,15% Huyện uỷ viên văn hoá cấp II. Trình độ văn hoá có sự chênh lệch nhất định giữa cán bộ người Kinh và người DTTS, giữa nam và nữ. Chỉ có 75% nữ có trình độ cấp III, trong khi đó có 98% nam trình độ cấp III.
* Về trình độ chuyên môn của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS, trong những năm gần đây đã được nâng lên đáng kể, (Bằng cấp chuyên môn sơ cấp: 27,27%; trung cấp: 19,48%; cao đẳng, đại học: 51,95%; trên đại học: 1,3%).
* Về trình độ lý luận chính trị. Kết quả khảo sát về trình độ lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS cho thấy đa số cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS được điều tra được đào tạo về lý luận chính trị. Có trên 70% có trình độ chính trị đáp ứng tiêu chuẩn, còn gần 30% chưa đạt yêu cầu.
* Về trình độ quản lý nhà nước, có 55% chưa đủ tiêu chuẩn về trình độ quản lý nhà nước, trong số đó một số Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân (chưa qua đào tạo, bồi dưỡng: 20,78%; sơ cấp: 35,0; trung - cao cấp: 44,15%).
* Về trình độ ngoại ngữ của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS còn nhiều hạn chế, chỉ có 41,56% trong số những người được điều tra có trình độ ngoại ngữ.
Thứ hai về chất lượng theo phẩm chất. Cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang có điểm nổi bật là luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước.
2.2.2. Ưu điểm về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang
2.2.2.1. Năng lực nắm bắt và cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn địa phương ở cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS
Các chủ thể trong quá trình nâng cao NLTCTT, biểu hiện ở khả năng chuyển hóa nhận thức, vận dụng quy luật khách quan vào tổ chức thực tiễn đạt kết quả tương đối khá. Phần lớn trong số điều tra đã thể hiện khả năng nắm bắt, cụ thể hoá một cách sáng tạo đường lối, chủ trương, quyết định của cấp trên; Về các điều kiện thuận lợi tác động đến khả năng nắm bắt đường lối, chủ trương của cấp trên và cấp mình. Đây là mặt tích cực, vì chỉ khi nào người cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS chủ động, tự giác nghiên cứu, tiếp thu đường lối chủ trương thì họ mới có khả năng vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách đó vào thực tiễn. Về cơ bản cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS đã thường xuyên được quán triệt yêu cầu về nâng cao NLTCTT. Về khả năng nắm bắt và thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Họ có khả năng làm chủ mọi hoạt động, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình.
2.2.2.2. Về năng lực ra quyết định, lựa chọn phương án tối ưu của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS
Đa số cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS đã có trách nhiệm trước những quyết định lãnh đạo, quản lý trên địa bàn, gồm: Một là, năng lực phân tích, lựa chọn phương án tối ưu đã có sự tiến bộ rõ nét; Hai là, năng lực xử lý các tình huống LĐ, QL có mặt tiến bộ góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi hoạt động công tác đảng, điều hành chính quyền, xử lý những tình huống lãnh đạo, quản lý phức tạp, diễn biến theo các chiều hướng khác nhau ở miền núi, biên giới(( ) Nghị định số 20 ngày 31/3/1998 về phát triển trung tâm cụm xã miền núi vùng cao (Quyết định số 35-TTg ngày 13/1/1997) về quy hoạch tổng thể vùng Tây Bắc 1996 - 2010 (Quyết định số 712 TTg ngày 30-8-1997) về quy hoạch tổng thể vùng Đông Bắc 1998-2010 (Quyết định số 02 -TTg ngày 06-01-1998) về Chương trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường an ninh, quốc phòng khu vực 33 xã và 01 thị trấn vùng cao biên giới Hà Giang (Quyết định số 89 ngày 7-5-1998) về chính sách tại một số khu vực cửa khẩu biên giới Thanh Thủy của tỉnh Hà Giang.
); Ba là, kết quả phát hiện, giải quyết các mâu thuẫn của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS đã từng bước được nâng lên.
2.2.2.3. Năng lực tổ chức triển khai những công việc trong thực tiễn và xử lý các tình huống lãnh đạo, quản lý
Một là, thực trạng giải quyết vấn đề theo chức trách, nhiệm vụ của cán bộ LĐ, QL cấp huyện được thể hiện thường xuyên qua hoạt động học tập, rèn luyện,...đạt được thành công nhất định; Hai là, việc đánh giá của cán bộ có thẩm quyền cấp tỉnh về năng lực xử lý các tình huống LĐ, QL ở cán bộ người DTTS ở mức trung bình, không có yếu; ba là, năng lực vận động quần chúng của cán bộ LĐ, QL cấp huyện đã có sự tiến bộ về mặt nhận thức, coi nội dung này có vị trí rất quan trọng; bốn là, cán bộ LĐ, QL người DTTS cấp huyện thường xuyên sâu sát cơ sở.
2.2.2.4. Năng lực kiểm tra và sơ - tổng kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, các quyết định LĐ, QL tại địa phương
Một là, đánh giá về năng lực kiểm tra của cán bộ LĐ, QL cấp huyện, các đồng chí lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh cho rằng: có đến 81% đánh giá“tốt” và 46,3% ở mức“khá”; có 45,5% ở mức “trung bình” và chỉ có 8,1% “yếu”, không có “xuất sắc”, như vậy, đại đa số đạt ở mức đáp ứng được yêu cầu công việc; hai là, công tác sơ - tổng kết qua khảo sát ý kiến đánh giá của lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, có 18,2% cho rằng cấp huyện có nhiều đóng góp kinh nghiệm, ý kiến đối với quyết sách của tỉnh và Trung ương, có đến 81,8% cho rằng cấp huyện có đóng góp ý kiến; ba là, kết quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn được thực hiện theo chức trách.
2.2.2.5. Nguyên nhân của ưu điểm về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang
Về nguyên nhân khách quan: Thứ nhất, sự tác động tích cực trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thứ hai, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, quan tâm xây dựng các nhân tố tạo động lực thúc đẩy cán bộ...; thứ ba, sự phối hợp tương đối chặt chẽ giữa Đảng ủy với chính quyền cùng cấp ở địa phương. Về nguyên nhân chủ quan: Một là, về cơ bản cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS đã thường xuyên quán triệt yêu cầu nâng cao NLTCTT của cấp ủy cấp trên...; hai là, nỗ lực tự học, rèn luyện để hoàn thiện ở mỗi cán bộ LĐ, QL.
2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang
2.2.3.1. Năng lực nắm bắt, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn địa phương và nhiệm vụ công tác còn những hạn chế
Một là, quá trình vận dụng, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước còn yếu; hai là, vẫn còn một số cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS hạn chế về năng lực xây dựng chương trình hành động; ba là, việc cán bộ LĐ, QL chuyển từ nhận thức đúng đến hành động còn yếu ở một số công việc cụ thể. (nói chưa đi đôi với làm, năng lực thực hành kém, văn hóa ngoại giao yếu...).
2.2.3.2. Năng lực ra quyết định và lựa chọn phương án tối ưu ở một số nội dung chất lượng còn thấp
Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại; hai là, hiệu lực, hiệu quả điều hành chính quyền của cán bộ LĐ, QL còn một số bất cập; ba là, hạn chế về năng lực cụ thể hoá của đội ngũ cán bộ LĐ, QL là thiếu thông tin thực tiễn, cấp ủy các cấp chưa tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nghiên cứu thực tế.
2.2.3.3. Năng lực tổ chức triển khai công việc trong thực tiễn và xử lý các tình huống lãnh đạo, quản lý còn yếu kém ở một số nội dung
Một là, một số cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS chưa lường được những tình huống nảy sinh trong thực tiễn; hai là, khả năng xử lý tình huống vẫn có một số cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS hạn chế trong xử lý các tình huống; ha là, năng lực và công tác lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội còn một số yếu kém; bốn là, kỹ năng lãnh đạo, quản lý kinh tế, tài chính lúng túng.
2.2.3.4. Năng lực vận động quần chúng của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS còn gặp một số hạn chế
Về khách quan có 5 nguyên nhân chính, lần lượt là: dân trí thấp là 88,24%; phong tục tập quán là 54,9%; điều kiện đi lại khó khăn là 45,1% và sự lôi kéo, chống phá của kẻ thù là 15,69%; chính sách đãi ngộ là 20%. Như vậy, nguyên nhân dân trí thấp chiếm đa số, phong tục tập quán; về chủ quan, nhìn chung trình độ năng lực cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS còn thấp, một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.
2.2.3.5. Năng lực kiểm tra và sơ kết, tổng kết việc tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS còn tồn tại một số bất cập
Vẫn còn gần 10% chưa đạt yêu cầu đề ra về công tác kiểm tra, trong nhận thức và trách nhiệm đối với công tác kiểm tra, vẫn tồn tại một số nhỏ cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS có nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng ở nội dung này. Đạo đức, tinh thần trách nhiệm trong công tác kiểm tra, giám sát chưa cao, còn trông chờ ỉ lại sự chỉ đạo từ cấp trên. Trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ LĐ, QL người DTTS chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Chưa chú trọng công tác tổng kết thực tiễn, năng lực khái quát hóa hạn chế.
2.2.3.6. Nguyên nhân của hạn chế về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang
Về nguyên nhân khách quan: Một là, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, môi trường sống, làm việc và trình độ dân trí thấp; hai là, quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ LĐ, QL cấp huyện chưa bám sát, tiến kịp với tình hình, nhiệm vụ mới; ba là, những ảnh hưởng tiêu cực của phong tục tập quán lạc hậu và tư tưởng phong kiến; bốn là, vấn đề quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ còn nhiều bất cập. Về nguyên nhân chủ quan: Một là, ở một số cấp ủy Đảng và người đứng đầu cơ quan, địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vai trò nâng cao năng NLTCTT; hai là, một bộ phận cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS chưa đáp ứng đủ về tiêu chuẩn...; ba là, một số cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS biểu hiện tư tưởng trung bình chủ nghĩa ; bốn là, còn cán bộ sai phạm trong quản lý kinh tế...
2.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay
2.3.1. Mâu thuẫn giữa đổi mới nhận thức về nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ LĐ, QL người DTTS với thực tế còn hạn chế của các chủ thể trong quá trình thực hiện nội dung này
Sự hạn chế về mặt nhận thức lý luận của chủ thể. Một bộ phận cán bộ, đảng viên các cấp do hạn chế về năng lực tư duy lý luận hoặc do việc coi nhẹ lý luận, cộng với thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Bên cạnh đó, khi người nhận thức sai lệch dẫn đến vận dụng sai lệch lý luận. Do hạn chế về nhận thức lý luận của các chủ thể nên khi vận dụng vào hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách, chương trình, dự án nhằm phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo; trong đó có công tác tổ chức cán bộ,còn nhiều thiếu sót. Các chủ thể chưa có khả năng nắm bắt, đánh giá tình hình thực tiễn, tổng kết thực tiễn, tìm ra nguyên nhân đúc rút bài học kinh nghiệm, định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn tiếp theo. Đây là những khó khăn, trở ngại chi phối đến hoạt động thực tiễn của cán bộ LĐ, QL, khi chưa tạo ra được các điều kiện thuận lợi để họ nâng cao NLTCTT của mình sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức, thực hiện chức trách, nhiệm vụ mới.
2.3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ LĐ, QL người DTTS với thực tế trình độ, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý
Nhìn một cách tổng quát, là một tỉnh nền kinh tế còn lạc hậu, chưa thoát khỏi nông, lâm nghiệp, phổ biến là sản xuất nhỏ (tự cung tự cấp,), công nghiệp và dịch vụ non yếu, chưa phát huy được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS vùng sâu, vùng biên giới dàn trải, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả. Tuy nhiên, trên thực tế trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ nhiều mặt còn yếu kém nên việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nêu trên còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, theo kiểu“đánh trống bổ dùi”. Từ vấn đề phân tích trên, có thể thấy sự phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho quá trình nâng cao NLTCTT ở tỉnh Hà Giang. Do đó, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội để tạo môi trường thuận lợi nâng cao NLTCTT cho cán bộ LĐ, QL cấp huyện người DTTS cần phải được giải quyết nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS tỉnh Hà Giang vững mạnh.
2.3.3. Mâu thuẫn giữa điều chỉnh, bổ sung về chính sách đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với thực tế, đồng thời khắc phục những bất cập trong thực hiện chính sách cán bộ ở tỉnh Hà Giang
Trong quá trình điều chỉnh, bổ sung những chính sách đào tạo, bồi dưỡng cần thường xuyên quan tâm, chú ý khôi phục xây dựng hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú; thực hiện chế độ cử tuyển và ưu tiên tuyển sinh học DTTS vào các trường đại học, cao đẳng và trung cấp (có cơ chế theo dõi sinh viên đang học và sau khi ra trường), đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ nguồn LĐ, QL theo quy hoạch địa phương (có tính tới đặc thù theo đối tượng ).
Tuy nhiên, trong những năm qua cũng đã nảy sinh một số vấn đề bất cập cần thiết phải được khắc phục trong điều chỉnh, bổ sung chính sách mới như: Bổ sung, điều chỉnh cập nhật chính sách chậm, chưa theo kịp thực tế phát triển và đặc thù địa phương; sự mất cân đối giữa số lượng và chất lượng nguồn đào tạo, bồi dưỡng ...thiếu cơ chế trọng dụng nhân tài. Vấn đề cụ thể hóa chính sách dân tộc của cấp ủy và chính quyền địa phương trong thực hiện chính sách dân tộc và công tác cán bộ còn lúng túng, dẫn tới chính sách chậm đi vào cuộc sống. Vì vậy vấn đề đặt r
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nang_cao_nang_luc_to_chuc_thuc_tien_cho_can.docx