Để loại bớt giai đoạn ủ pellet sau khi bao, sử dụng TD BTOR là Eudragit L100 được hòa tan vào hỗn hợp EtOH - nước (3:1). Eudragit L100 tan tốt trong các dung môi hữu cơ và các dung dịch kiềm có pH từ 6,0 trở lên. TD này ở dạng bột nên thuận lợi cho việc pha thành các dung dịch có nồng độ khác nhau. Đánh giá khả năng kháng acid của pellet LPZ BTOR theo 2 phương pháp khác nhau, đảm bảo độ tin cậy và tính chặt chẽ. Phương pháp A được nhiều nghiên cứu sử dụng để khảo sát CT bào chế pellet LPZ BTOR. Đối với CT tối ưu, sử dụng thêm phương pháp của Dược điển Mỹ (theo mục tiêu nghiên cứu). Tương tự, đánh giá độ hòa tan LPZ trong MT đệm pH 6,8 cũng được tuân thủ theo Dược điển Mỹ.
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 414 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu bào chế và đánh giá sinh khả dụng viên nang chứa pellet lansoprazol bao tan ở ruột, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm định phi tham số để so sánh Tmax của hai chế phẩm.
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Tính toán giá trị trung bình (TB), độ lệch chuẩn (SD), độ lệch chuẩn tương đối (RSD). Sử dụng các phần mềm đã nêu trong mục 2.2.
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Khả năng kháng acid và độ hòa tan của các viên đối chiếu
Tiến hành thử khả năng kháng acid trong MT pH 1,2 (60 phút) và độ hòa tan trong MT pH 6,8 (60 phút tiếp theo) của các viên đối chiếu theo Dược điển Mỹ. Kết quả lựa chọn được viên Gastevin có khả năng kháng acid đạt yêu cầu và độ hòa tan tốt nhất.
Hình 3.1. Khả năng kháng acid và độ hòa tan của các viên đối chiếu (n=12)
3.2. Bào chế pellet LPZ BTOR quy mô 250 g/mẻ
3.2.1. Sự tương hợp của LPZ và TD, dung môi
Kết quả thử nghiệm cho thấy ở điều kiện thực sau 4 tuần, các TD tạo cầu (Avicel PH 101), TD độn (lactose monohydrat), TD siêu rã (SSG), TD dính (HPMC E15, PVP và PVA), TD trợ tan (NaLS, Lutrol F127), TD kiềm, TD tạo màu và TD chống dính khi tiếp xúc với LPZ đều không thấy có sự biến đổi màu sắc của hỗn hợp, chỉ có Labrasol và Cremophor RH40 có biến màu không đáng kể. Tiến hành theo dõi sự biến đổi của LPZ thông qua sự khác biệt về diện tích pic HPLC của LPZ trong các mẫu thử tương hợp với Labrasol, Lutrol F127, NaLS và Cremophor RH40 trong điều kiện thực và điều kiện LHCT (4 tuần) với việc không và có sử dụng TD kiềm là dinatri hydrophosphat. Khi cho thêm TD kiềm vào mẫu thử LHCT thì sơ bộ nhận thấy LPZ đã được ổn định hơn rõ rệt ở cả bốn loại TD thử nghiệm. Với kết quả thử tương hợp của LPZ với các dung môi, sau 72 giờ thì chỉ có dung dịch đệm phosphat pH 6,8 không thấy có sự biến màu của DC được chọn là dung môi cho bào chế pellet LPZ.
3.2.2. Bào chế pellet LPZ
3.2.2.1. Bào chế pellet LPZ bằng phương pháp đùn - tạo cầu
Qua khảo sát, lựa chọn các thành phần trong CT bào chế pellet (quy mô 50 g/mẻ) gồm LPZ (10 %), TD kiềm dinatri hydrophosphat (6 %), TD siêu rã SSG (5 %), Avicel PH 101 (30 %), talc (1 %), lactose monohydrat (vđ 100 %), TD dính lỏng là dung dịch HPMC E15 (6 %) trong đệm phosphat pH 6,8 (71 ml cho 100 g pellet).
- Ảnh hưởng của các TD trợ tan tới độ hòa tan LPZ: Cố định các thành phần của pellet như trên, tiến hành bào chế pellet LPZ với các TD trợ tan thay đổi gồm Labrasol, Cremophor RH40, Lutrol F127 và NaLS, thay đổi tỷ lệ từ 5 %, 7 % và 10 %. Kết quả cho thấy với tỷ lệ TD trợ tan là 10 % thì % LPZ hòa tan tăng lên và theo thứ tự Lutrol F127 (78,93 %) và Labrasol (78,44 %) > NaLS > Cremophor RH40. Căn cứ vào kết quả thử tương hợp giữa DC và TD, lựa chọn Lutrol F127 để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo do hỗn hợp Lutrol F127 và LPZ có độ ổn định tốt hơn so với hỗn hợp Labrasol và LPZ.
- Ảnh hưởng của lượng TD siêu rã tới độ hòa tan LPZ: Tiến hành bào chế pellet LPZ với tỷ lệ SSG thay đổi từ 5 %, 6 % đến 7 % và cố định các thành phần khác trong pellet. Kết quả thử hòa tan cho thấy khi tăng tỷ lệ SSG không làm tăng độ hòa tan DC. Ở CT có 7 % SSG thì LPZ chỉ hòa tan được 76,68 %. Với 2 CT 5 % và 6 % SSG, % LPZ hòa tan sau 60 phút gần tương đương nhau (78,93 % và 77,54 %). Sử dụng TD siêu rã SSG (5 %) cho nghiên cứu tiếp theo.
- Ảnh hưởng của TD kiềm tới độ ổn định và độ hòa tan LPZ: Thay đổi lượng TD kiềm (dinatri hydrophosphat) 6 %, 8 % và 10 %, cố định các thành phần khác trong CT pellet. Kết quả thử độ hòa tan cho thấy % LPZ hòa tan không tỷ lệ thuận với lượng TD kiềm trong CT, đạt cao nhất sau 60 phút (81,37 %) ở mẫu chứa TD kiềm với tỷ lệ 8 %, với lượng TD kiềm là 6 % và 10 % thì LPZ hòa tan thấp hơn (78,93 % và 79,26 %). % LPZ hòa tan ở điều kiện LHCT sau 2 tuần không thay đổi so với ban đầu, CT chứa 8 % TD kiềm vẫn có độ hòa tan LPZ cao nhất. Sau 4 tuần bảo quản ở điều kiện thực, pellet LPZ chứa 8 % dinatri hydrophosphat ổn định về hình thức (cầu, đều), độ ẩm (dưới 5 %), hàm lượng và % LPZ hòa tan so với thời điểm đầu.
Như vậy, CT pellet LPZ được bào chế bằng phương pháp đùn tạo cầu gồm các thành phần sau: LPZ (10 g), Lutrol F127 (10 g), SSG (5 g), dinatri hydrophosphat (8 g), Avicel PH101 (30 g), talc (1 g), lactose monohydrat (vđ 100 g), HPMC E15 6 % trong đệm phosphat pH 6,8 (71 ml). Pellet hòa tan được 81,37 % LPZ sau 60 phút ở MT đệm phosphat pH 6,8.
3.2.2.2. Bào chế pellet LPZ bằng phương pháp bồi dần
Qua khảo sát, lựa chọn CT cơ bản để bào chế pellet LPZ bồi dần trong thiết bị tầng sôi, sử dụng 150 g pellet trơ như sau: LPZ (20 g), HPMC E15 (thay đổi), PVP (thay đổi), PVA (thay đổi), dinatri hydrophosphat (12 g), Lutrol F127 (thay đổi), talc (8 g), dung môi là đệm phosphat pH 6,8.
- Khảo sát nồng độ chất rắn: Tiến hành bào chế pellet LPZ với nồng độ chất rắn trong dịch bồi thay đổi (thành phần gồm có LPZ, HPMC E15 cố định 20 g, dinatri hydrophosphat, talc). Khi nồng độ chất rắn tăng từ 5,94 % (CT N1) lên 16,27 % (CT N3) thì hiệu suất bồi dần giảm xuống nhưng vẫn đạt trên 85 %. Thời gian bào chế giảm đáng kể (từ 6 giờ/mẻ xuống 2 giờ/mẻ). Để tiết kiệm thời gian và đảm bảo hiệu suất bồi cao, nồng độ chất rắn khoảng 15 % - 16 % được lựa chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.
- Khảo sát loại TD dính: Tiến hành bào chế pellet LPZ với loại TD dính khác nhau là HPMC E15, PVP và PVA (sử dụng với nồng độ là 5 %). Với HPMC E15 (CT N3): Hiệu suất bồi cao (89,96 %), quá trình bồi thuận lợi nhưng % LPZ hòa tan chỉ đạt 71,42 %. Với PVP (CT N4): Hiệu suất bồi thấp nhất (75,74 %), độ hòa tan LPZ cũng thấp nhất (67,30 %), quá trình bồi không thuận lợi. Với PVA (CT N5): Hiệu suất bồi cao hơn so với PVP và thấp hơn so với HPMC E15, độ hòa tan LPZ đạt cao nhất (76,03 %), quá trình bồi dần cũng gặp khó khăn. Tiếp tục phối hợp HPMC E15 và PVA với các tỷ lệ khác nhau ở nồng độ 5 % TD dính nhằm nâng cao hiệu suất bồi và % LPZ hòa tan, đảm bảo sự ổn định của quá trình bao.
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của tỷ lệ HPMC E15 và PVA đến quá trình bào chế
và độ hòa tan LPZ (n=3)
Tỷ lệ
HPMC : PVA
Hiệu suất TB (%)
Hàm lượng (%)
% LPZ hòa tan sau 60 phút
Quá trình bồi
CT N6 (7:3)
79,56
8,57 ± 0,03
80,53
Khó khăn
CT N7 (8:2)
91,13
9,14 ± 0,06
76,93
Thuận lợi
Ở CT N6 thì % LPZ hòa tan tăng cao (trên 80 %) nhưng hiệu suất bồi dần giảm đáng kể (79,56 %). Quá trình bồi tiếp tục gặp khó khăn như khi sử dụng PVA. Ở CT N7 thì hiệu suất bồi dần đạt trên 90 % và LPZ hòa tan được 76,93 %, quá trình bồi thuận lợi. Lựa chọn CT N7 cho các nghiên cứu bào chế tiếp theo.
- Khảo sát tỷ lệ TD dính so với LPZ: Tiến hành khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ TD dính so với LPZ từ 0,5:1 đến 2:1 tới hiệu suất và độ hòa tan LPZ từ pellet.
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của tỷ lệ TD dính đến hiệu suất
và quá trình bào chế (n=3)
Chỉ tiêu
CT N7
CT N8
CT N9
CT N10
CT N11
Tỷ lệ TD dính:LPZ
1:1
1,5:1
2:1
0,75:1
0,5:1
Hiệu suất TB (%)
91,13
87,40
81,54
88,22
88,62
Quá trình bồi
Thuận lợi
Thuận lợi
Khó khăn
Thuận lợi
Thuận lợi
Khi tỷ lệ TD dính:LPZ tăng lên từ 1,5:1 (CT N8) đến 2:1 (CT N9), độ nhớt của dịch bồi dần tăng, hiệu suất bồi giảm. Hơn nữa, % LPZ hòa tan không thay đổi rõ rệt so với CT N7 và chỉ đạt dưới 80 %. Khi tỉ lệ TD dính:LPZ giảm xuống còn 0,75:1 (CT N10) và 0,5:1 (CT N11), hiệu suất bồi vẫn trên 85 %. Trong khi đó, % LPZ hòa tan tăng lên đáng kể ở cả 2 CT N10 và N11 (trên 80 %). Để đáp ứng yêu cầu về khả năng hòa tan LPZ và tiết kiệm nguyên liệu, tỷ lệ TD dính:LPZ là 0,5:1 (CT N11) được lựa chọn.
- Khảo sát loại TD kiềm: Trong bào chế pellet LPZ, TD kiềm được sử dụng để tăng độ ổn định và độ hòa tan của LPZ. Có 4 loại TD kiềm (dinatri hydrophosphat, trinatri phosphat, dinatri carbonat và magnesi carbonat) được khảo sát theo các CT từ N11 đến N14 (với tỷ lệ TD kiềm là 60 % so với LPZ) với kết quả được thể hiện trong bảng 3.9.
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của loại TD kiềm đến độ hòa tan LPZ (n=3)
Chỉ tiêu
CT N11
CT N12
CT N13
CT N14
Loại TD kiềm
Na2HPO4
Na3PO4
Na2CO3
MgCO3
Tỷ lệ TD kiềm : DC (%)
60
60
60
60
Hàm lượng (%)
9,21 ± 0,10
9,03 ± 0,08
8,87 ± 0,11
8,94 ± 0,06
% DC hòa tan sau 60 phút
83,22 ± 2,13
86,62 ± 1,47
89,90 ± 2,01
80,57 ± 1,95
Do LPZ là DC rất nhạy cảm, có độ ổn định thấp nên các mẫu tiếp tục được theo dõi trong điều kiện LHCT. Kết quả cho thấy, pellet sử dụng TD kiềm là dinatri carbonat (CT N13) mặc dù có LPZ hòa tan ở thời điểm đầu cao nhất (89,90 %), nhưng giảm dần sau 2 tuần LHCT (chỉ còn 83,51 %), bên cạnh đó hàm lượng DC bị giảm đi đáng kể (còn lại 88,07 % so với thời điểm đầu). Như vậy, dinatri carbonat không đảm bảo được độ ổn định của DC mặc dù khả năng hòa tan DC cao nhất. Cả 3 TD kiềm còn lại (CT N11, CT N12, CT N14) đều có độ ổn định DC tốt hơn dinatri carbonat (trên 90 % LPZ còn lại sau 2 tuần LHCT) nhưng khả năng hòa tan LPZ có sự khác biệt đáng kể. Ở CT N12, sử dụng trinatri phosphat thì % DC hòa tan giảm rất mạnh (từ 86,62 % chỉ còn 34,58 % sau 2 tuần LHCT). Ở CT N11 sử dụng dinatri hydrophosphat có độ ổn định DC cao hơn so với magnesi carbonat (CT N14) sau 2 tuần LHCT (% LPZ còn lại là 94,78 % so với 91,92 %). Hơn nữa, độ hòa tan LPZ trong MT đệm phosphat pH 6,8 của CT N11 (dinatri hydrophosphat) cũng cao hơn và ổn định hơn so với CT N14.
Chỉ tiêu
CT N11
CT N12
CT N13
CT N14
Loại TD kiềm
Na2HPO4
Na3PO4
Na2CO3
MgCO3
% DC hòa tan
sau 60 phút (ban đầu)
83,22 ± 2,13
86,62 ± 1,47
89,90 ± 2,01
80,57 ± 1,95
% DC còn lại
(2 tuần lão hoá)
94,78
97,51
88,07
91,92
% DC hòa tan
sau 60 phút (2 tuần lão hoá)
84,31 ± 1,95
34,58 ± 3,01
83,51 ± 2,77
77,22 ± 2,91
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của loại TD kiềm đến độ ổn định và độ hòa tan LPZ trong điều kiện lão hoá cấp tốc (n=3)
Quan sát màu sắc của các mẫu pellet sau 2 tuần LHCT nhận thấy pellet có dinatri hydrophosphat (CT N11) không bị biến đổi màu sắc (màu trắng), trong khi các mẫu CT N13 và CT N14 đều bị biến màu. Lựa chọn dinatri hydrophosphat để tiếp tục khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TD kiềm tới độ ổn định và độ hòa tan LPZ.
- Khảo sát tỷ lệ TD kiềm: Thay đổi tỷ lệ TD kiềm trong CT, đánh giá độ ổn định và độ hòa tan DC từ pellet.
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của tỷ lệ TD kiềm tới độ ổn định
Chỉ tiêu
CT N15
CT N16
CT N11
CT N17
CT N18
Tỷ lệ TD kiềm (%)
1,0
2,0
3,5
4,0
5,0
Tỷ lệ TD kiềm so với LPZ (%)
20
40
60
80
100
Hàm lượng LPZ (%)
8,91
8,98
9,21
9,06
9,25
% DC hòa tan sau 60 phút
(ban đầu)
84,44± 3,27
81,61 ± 2,50
83,22 ± 2,13
79,70 ± 1,95
85,57 ± 0,47
% DC còn lại (2 tuần lão hoá)
91,30
90,38
94,78
95,30
99,90
% DC hòa tan sau 60 phút
(2 tuần lão hoá)
85,34 ± 0,91
83,04 ± 0,97
84,31 ± 1,95
81,99 ± 3,52
85,03 ± 2,76
và độ hòa tan LPZ (n=3)
Độ hòa tan LPZ từ pellet thay đổi không đáng kể ở cả 5 CT có tỷ lệ TD kiềm thay đổi. Tuy nhiên, với tỷ lệ dinatri hydrophosphat trong CT là 5 % (tương ứng với tỷ lệ TD kiềm so với LPZ là 100 %, CT N18) cho độ ổn định về hàm lượng DC tốt nhất.
- Khảo sát ảnh hưởng của TD trợ tan: TD trợ tan Lutrol F127 1,5 g (CT N19) được thêm vào CT bào chế nhằm tiếp tục làm tăng độ hòa tan của LPZ từ pellet. Kết quả cho thấy, độ hòa tan LPZ từ pellet là trên 90 % so với 85 % ở CT không sử dụng Lutrol F127. Do Lutrol F127 là chất diện hoạt, tạo nhiều bọt trong quá trình pha chế dịch bồi nên không tăng tỷ lệ TD này. Lựa chọn CT bào chế pellet LPZ bằng phương pháp bồi dần như sau: LPZ (20 g), HPMC E15 (8,0 g), PVA (2,0 g), dinatri hydrophosphat (20 g), Lutrol F127 (1,5 g), talc (8,0 g), đệm phosphat pH 6,8 (351 ml). Pellet hòa tan được 90,35 % LPZ sau 60 phút ở MT đệm phosphat pH 6,8.
3.2.2.3. Lựa chọn CT và đề xuất tiêu chuẩn của pellet LPZ
Lựa chọn CT bào chế pellet LPZ bằng phương pháp bồi dần vì có độ hòa tan cao hơn so với phương pháp đùn - tạo cầu (độ hòa tan của pellet nhân càng cao thì càng giúp cho thiết kế CT 2 màng bao tiếp theo dễ dàng hơn), bề mặt pellet bồi dần nhẵn và độ cầu tốt hơn, thuận lợi cho tiến hành bao cách ly và BTOR. Phân tích phổ nhiệt vi sai (mẫu LPZ nguyên liệu, hỗn hợp TD, hỗn hợp vật lý LPZ - TD, pellet bồi dần) và phổ nhiễu xạ tia X (mẫu LPZ nguyên liệu, hỗn hợp vật lý LPZ - TD, pellet bồi dần) cũng chứng minh tỷ lệ LPZ ở trạng thái kết tinh trong pellet bồi dần thấp hơn so với mẫu hỗn hợp vật lý và nguyên liệu, làm tăng độ hòa tan của LPZ trong pellet bồi dần.
Bào chế pellet LPZ bằng phương pháp bồi dần với 3 mẻ (150 g/mẻ, pellet trơ là Suglets của công ty Colorcon - Mỹ) và nhận thấy pellet ổn định sau 2 tháng bảo quản ở điều kiện thực và LHCT về hàm lượng và độ hòa tan LPZ. Từ đó, đề xuất tiêu chuẩn của pellet LPZ như sau: Hình thức (cầu, đều, màu trắng, không sứt vỡ), kích thước (0,71 - 1,0 mm), độ ẩm ( 80 %).
3.2.3. Bao màng cách ly cho pellet LPZ
Lựa chọn CT cơ bản sử dụng 20 g pellet bồi dần như sau: PVA (5 %), PEG 6000 (thay đổi), Lutrol F127 (thay đổi), titan dioxyd (2 %), talc (thay đổi), dung môi là đệm phosphat pH 6,8.
- Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ PEG 6000: Cố định tỷ lệ Lutrol F127 là 1 %, talc là 1,5 %, thay đổi tỷ lệ PEG 6000 từ 1 %, 1,25 % đến 1,5 % (CT B1, CT B2, CT B3). Kết quả nhận thấy, khi tăng tỷ lệ PEG 6000 thì hiệu suất bao tăng lên nhưng độ hòa tan LPZ không thay đổi, đạt cao nhất khi tỷ lệ PEG 6000 là 1,5 % (CT B3) nên lựa chọn tỷ lệ này để khảo sát tiếp.
- Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ Lutrol F127: Từ CT B3, thay đổi tỷ lệ Lutrol F127 trong CT từ 0,5 đến 2,0 %. Kết quả nhận thấy khi tăng tỷ lệ Lutrol từ 0,5 đến 1,0 % (CT B4, CT B3) thì độ hòa tan LPZ tăng lên, hiệu suất bao tăng. Nhưng khi tỷ lệ Lutrol F127 tăng cao (> 1,0 %) làm dịch bao có độ nhớt cao, nhiều bọt gây khó khăn cho quá trình bao, làm giảm hiệu suất bao (CT B5, CT B6). Vì vậy, tỷ lệ Lutrol là 1,0 % (CT B3) vẫn tiếp tục được lựa chọn.
- Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ TD chống dính: Thay đổi tỷ lệ talc ở CT B3 từ 0,5 % (CT B7), 1 % (CT B8), 1,5 % (CT B3) và 2 % (CT B9). Ở CT B7, CT B8 có hiện tượng pellet bị dính, hiệu suất bao thấp. Quá trình bao thuận lợi, hiệu suất cao nhất ở quy mô 20 g trên máy Caleva (85,89 %) là CT B3. Ở CT B9 thì hiệu suất bao giảm đi (còn 75,67 %), xuất hiện ít bụi trong buồng bao. Tuy nhiên, khi tiến hành bao quy mô 150 g trên máy Diosna, CT B3 và CT B9 cùng cho độ hòa tan LPZ đạt trên 90 % nhưng pellet còn bị dính ở CT B3, làm giảm hiệu suất bao. Trong khi đó, CT B9 có quá trình bao thuận lợi, hiệu suất đạt khoảng 90 %. Do vậy, lựa chọn CT tỷ lệ talc là 2,0 % để tiếp tục tiến hành các khảo sát tiếp theo.
- Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ chất rắn trong dịch bao: Tỷ lệ chất rắn được thay đổi từ 7,5 % (CT B10), 11,5 % (CT B9), 12,5 % (CT B11), 19 % (CT B12). Ở CT B12 thì quá trình bao không thực hiện được. So sánh 3 CT còn lại nhận thấy tiến hành bao ở tỷ lệ khoảng 12,5 % (CT B11) đảm bảo quá trình bao thuận lợi, tiết kiệm được thời gian, đặc biệt ở các giai đoạn nâng cấp quy mô sau này.
- Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ màng bao: Bao CT B11 cho pellet bồi dần CT N19 với tỷ lệ màng bao thay đổi (5 %, 7,5 %, 10 %), sau đó BTOR cùng một CT tăng 25 % khối lượng so với pellet. Các mẫu pellet BTOR được thử trong MT acid HCl 0,1 N trong 60 phút để đánh giá về khả năng kháng acid của màng bao. Kết quả đã lựa chọn được màng bao cách ly tỷ lệ 7,5 % cho pellet bồi dần vì độ hòa tan > 90 %, hiệu suất bao 76 %, thời gian có pellet bắt đầu bị biến màu là 56 phút, tỷ lệ pellet biến màu thấp (2 %) với CT màng bao cách ly như sau: PVA (5 g), PEG 6000 (1,5 g), Lutrol F127 (1 g), titan dioxyd (2 g), talc (2 g), đệm phosphat pH 6,8 (100 ml).
3.2.4. Bao màng tan ở ruột cho pellet bao cách ly
Lựa chọn các biến đầu vào trong thiết kế thí nghiệm tối ưu hóa màng BTOR là tỷ lệ TEC so với polyme, tỷ lệ talc so với polyme, tỷ lệ màng bao so với khối lượng pellet trước khi bao (kl/kl). Nồng độ polyme Eudragit L100 cố định là 7,5 %. Khối lượng titan dioxyd cố định là 20 % so với polyme và lượng dung môi EtOH : nước (3:1) cố định là 100 ml. Biến đầu ra là % LPZ hòa tan trong MT pH 1,2 (0 % ≤ Y1 ≤ 10 %) và trong MT đệm pH 6,8 (80 % ≤ Y2 ≤ 100 %).
Bảng 3.20. Các biến độc lập và khoảng biến thiên
Biến độc lập
Ký hiệu
Mức thấp
Mức cao
Tỷ lệ TEC (% so với polyme)
X1
20
30
Tỷ lệ talc (% so với polyme)
X2
30
50
Tỷ lệ màng bao (%)
X3
25
35
Thiết kế thí nghiệm bằng phần mềm Modde 5.0 theo mô hình D-optimal gồm 20 thí nghiệm. Đánh giá Y1 bằng phương pháp A và Y2 bằng phương pháp Dược điển Mỹ. Tối ưu hóa bằng phần mềm Inform 3.1 thu được CT tối ưu của biến đầu vào như sau: X1 (20 %), X2 (46,14 %), X3 (35,09 %). Dự đoán Y1 là 4,07 %, Y2 là 90,87 %. Bào chế theo CT tối ưu trên máy Diosna quy mô 150 g (n=3) nhận thấy pellet BTOR có tính chất sau: Hình thức (cầu, đều, bề mặt nhẵn), kích thước (0,85 - 1,2 mm), độ ẩm (3,58 %), tỷ trọng biểu kiến (0,81 g/ml), tốc độ trơn chảy (11,8 g/giây), độ mài mòn (0,05 %), giới hạn tạp chất (0,18 %), hàm lượng LPZ (8,26 %), % LPZ hòa tan trong MT acid pH 1,2 (3,18 - 3,65 %), % LPZ hòa tan trong MT đệm pH 6,8 (89,07 - 90,04 %) đạt yêu cầu Dược điển Mỹ. Chụp ảnh kính hiển vi điện tử quét thấy các lớp của pellet LPZ BTOR rõ rệt bao gồm: Lớp pellet trơ, lớp chứa LPZ, lớp bao cách ly và lớp BTOR. Màng bao thu được có bề dày khá đều và liên tục.
Đóng nang pellet BTOR theo CT tối ưu, so sánh độ hòa tan LPZ theo phương pháp Dược điển Mỹ với viên Gastevin (n=12) nhận thấy cả 2 viên thử nghiệm đều đáp ứng tốt yêu cầu của Dược điển Mỹ. Tuy nhiên, với chỉ số f2 = 56,62 thì độ hòa tan của viên nang theo CT tối ưu và viên đối chiếu trong thử nghiệm in vivo có thể khác biệt.
3.3. Nâng cấp bào chế pellet LPZ BTOR quy mô 1,0 kg/lô
Các thông số kĩ thuật của thiết bị đã được khảo sát phù hợp với pellet CT bồi dần và các màng bao trước khi nâng cấp. Tiến hành nâng cấp quy mô 1,0 kg pellet (tương đương khoảng 3300 viên nang) trên máy bao tầng sôi Diosna gồm 3 giai đoạn: Bào chế pellet LPZ (500 g pellet trơ), bao cách ly cho pellet LPZ, BTOR cho pellet bao cách ly. Kết quả bào chế pellet LPZ BTOR 3 lô ở trường Đại học Dược Hà Nội, đóng nang ép vỉ tại công ty Cổ phần Dược phẩm Sao Kim thu được là lặp lại, đáp ứng chất lượng của pellet và viên nang.
3.4. Xây dựng tiêu chuẩn cơ sở và đánh giá độ ổn định của viên nang chứa pellet LPZ BTOR
Sau khi tiến hành bào chế pellet LPZ 30 mg BTOR quy mô 1,0 kg/lô, tiến hành đánh giá và đã đề xuất một số chỉ tiêu chất lượng cho pellet và viên nang chứa pellet LPZ 30 mg BTOR. Từ đó, tiến hành xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho viên nang. Tiêu chuẩn này đã được thẩm định và đánh giá bởi Viện Kiểm nghiệm Thuốc Trung Ương cho kết quả là viên nang bào chế đạt tiêu chuẩn cơ sở.
- Viên nang chứa pellet bào chế ở quy mô 1,0 kg pellet/lô trên 3 lô được đánh giá độ ổn định ở điều kiện thực trong 18 tháng và điều kiện LHCT trong 6 tháng. Kết quả cho thấy các chỉ tiêu về hình thức, độ ẩm, hàm lượng, khả năng kháng acid, độ hòa tan LPZ từ viên nang thay đổi không đáng kể so với ban đầu. Sử dụng phần mềm Minitab 17 cho kết quả dự kiến độ ổn định của viên nang là 30 tháng.
Bảng 3.25. Đề xuất một số chỉ tiêu chất lượng cho viên nang chứa
pellet LPZ 30 mg BTOR
Chỉ tiêu
Đề xuất tiêu chuẩn
Hình thức (cảm quan)
Viên nang cứng đóng trong vỉ nhôm - nhôm kín, chứa các pellet cầu, đều, màu trắng, không sứt vỡ
Đồng đều khối lượng (mg, theo DĐVN IV - phụ lục 11.3)
mTB ± 7,5 %
Định tính (phương pháp HPLC)
Trên sắc ký đồ, dung dịch thử phải cho pic có thời gian lưu tương ứng với thời gian lưu thu được từ dung dịch LPZ chuẩn
Khả năng kháng acid trong MT pH 1,2 (theo phương pháp Dược điển Mỹ)
Không có nang nào hòa tan quá 10 % LPZ so với hàm lượng ghi trên nhãn sau 60 phút
% LPZ hòa tan trong MT đệm pH 6,8 (theo phương pháp Dược điển Mỹ)
Không dưới 80 % lượng LPZ hòa tan so với hàm lượng ghi trên nhãn sau 60 phút
Hàm ẩm (%, theo DĐVN IV - phụ lục 9.6)
Không quá 5
Hàm lượng (%) (phương pháp HPLC)
90,0 - 110,0
3.5. Đánh giá SKD của viên nang chứa pellet LPZ BTOR trên động vật thực nghiệm
3.5.1. Phân tích mẫu huyết tương chó được uống viên nang chứa pellet LPZ BTOR
Tiến hành lấy mẫu, xử lý mẫu và định lượng LPZ trong huyết tương chó đối với thuốc thử (viên nang bào chế) và thuốc đối chiếu (viên Gastevin). Từ các dữ liệu nồng độ LPZ trung bình trong huyết tương tại các thời điểm lấy mẫu, vẽ đường cong nồng độ thuốc trung bình theo thời gian như hình 3.23.
Hình 3.23. Đường cong nồng độ thuốc trung bình theo thời gian
của thuốc thử và thuốc đối chiếu (n=6)
3.5.2. Phân tích và so sánh các thông số DĐH
Sử dụng phần mềm WinNonlin 5.2 để tính các thông số DĐH của LPZ đối với thuốc thử (T) và thuốc đối chiếu (R) theo mô hình không ngăn. Kết quả được trình bày trong bảng 3.30. Tiến hành phân tích phương sai để đánh giá ảnh hưởng của cá thể, trình tự thử, chế phẩm thử, giai đoạn thử đến sự sai khác của các thông số DĐH bằng phần mềm WinNonlin 5.2. Các thông số về Cmax, AUC0- t và AUC0- ∞ được chuyển thành dạng logarit tự nhiên trước khi phân tích.
Mã
động vật
Cmax (µg/ml)
Tmax (giờ)
AUC0-t (ng.giờ/ml)
AUC0- ∞ (ng.giờ/ml)
R
T
R
T
R
T
R
T
1
1,0515
1,4823
2,25
2,75
3194,9
3627,4
3330,4
3660,4
2
0,7851
1,0238
2,25
2,0
1866,0
1518,1
2021,4
1543,7
3
0,7111
0,4310
2,5
2,0
1998,0
784,2
2120,3
889,2
4
0,4320
0,8134
2,0
2,75
450,8
2040,1
474,6
2158,4
5
1,2963
1,1512
2,75
2,5
1651,5
2964,1
1939,5
3457,5
6
0,5251
0,6540
2,25
2,25
1031,9
2537,8
1069,6
3359,4
TB
0,8002
0,9260
2,33
2,37
1698,8
2245,2
1825,9
2511,4
SD
0,3252
0,3746
0,25
0,34
933,8
1021,5
979,7
1151,2
Bảng 3.30. Các thông số DĐH của thuốc thử và thuốc đối chiếu
Kết quả cho thấy: Trình tự thử thuốc, cá thể, chế phẩm thử ảnh hưởng đến Cmax, AUC0- t, AUC0- ∞ không có ý nghĩa thống kê với P > 0,05. Các giai đoạn thử thuốc không ảnh hưởng đến Cmax với P > 0,05, ảnh hưởng đến AUC0-t, AUC0- ∞ có ý nghĩa thống kê với P 0,05. Như vậy, kết quả nghiên cứu SKD cho thấy Cmax, AUC0-t, AUC0-∞ của thuốc thử cao hơn so với của thuốc đối chiếu, trong khi đó Tmax của thuốc thử và thuốc đối chiếu là tương đương nhau.
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1. Lựa chọn viên đối chiếu
Các viên đối chiếu được bào chế theo phương pháp bồi dần lên pellet trơ, tương đồng với phương pháp mà nghiên cứu này sử dụng. Vì vậy, đánh giá độ hòa tan in vitro của các viên đối chiếu là phù hợp với viên nang bào chế. Lựa chọn được viên Gastevin làm viên đối chiếu do đáp ứng được yêu cầu của Dược điển Mỹ, có độ hòa tan đạt cao nhất. Hơn nữa, viên Gastevin (Slovenia) lưu hành hợp pháp tại Việt Nam nên phù hợp với Thông tư 08/2010/BYT của Bộ Y tế.
4.2. Bào chế viên nang chứa pellet LPZ BTOR
4.2.1. Bào chế pellet LPZ
4.2.1.1. Phương pháp bào chế pellet LPZ
Pellet LPZ là giai đoạn rất quan trọng trong quá trình bào chế viên nang chứa pellet LPZ BTOR, đảm bảo khả năng giải phóng DC từ pellet, làm cơ sở để xây dựng CT 2 màng bao tiếp theo đáp ứng yêu cầu độ hòa tan của Dược điển Mỹ. Giai đoạn này còn có vai trò quyết định đến độ ổn định của viên nang do các tác nhân nhạy cảm tương tác trực tiếp với DC. Kết quả nghiên cứu đã lựa chọn phương pháp bồi dần để bào chế pellet LPZ (so sánh với phương pháp đùn - tạo cầu). Phương pháp này dùng Suglets (0,71 - 0,85 mm) làm pellet trơ, được chấp thuận của FDA về chất lượng để ứng dụng trong bào chế dược phẩm. Về bản chất, Suglets là nhân đường trơ chứa succrose (tương đồng với Gastevin) nên phù hợp khi so sánh độ hòa tan DC giữa viên nang bào chế với viên Gastevin.
4.2.1.2. Độ ổn định và độ hòa tan của pellet LPZ bồi dần
Để tăng độ ổn định và độ hòa tan của LPZ trong quá trình bào chế pellet LPZ bằng phương pháp bồi dần cũng như khi bảo quản chế phẩm thì việc bổ sung thêm TD kiềm trong CT bào chế là cần thiết. Kết quả đã lựa chọn dinatri hydrophosphat là phù hợp nhất cho mục đích này. Ngoài ra, các lựa chọn TD phù hợp, không tương kỵ với LPZ góp phần làm tăng độ ổn định của pellet LPZ. Nghiên cứu sử dụng Lutrol F127 để làm tăng độ tan của LPZ (TD này đã được một số nghiên cứu trên thế giới dùng làm tăng độ tan của DC ít tan theo đường uống). Phân tích phổ nhiệt vi sai và phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu trong nghiên cứu cũng giải thích cơ chế làm tăng độ tan của LPZ khi bào chế bằng phương pháp bồi dần (LPZ giảm tỷ lệ kết tinh). Bên cạnh đó, có thể kể đến vai trò của PVA trong việc làm tăng độ hòa tan và độ ổn định của LPZ theo một số nghiên cứu. Pellet LPZ bào chế được có độ hòa tan LPZ trên 85 % sau 60 phút, ổn định tối thiểu 2 tháng ở điều kiện thực và điều kiện LHCT.
4.2.2. Bao màng cách ly cho pellet LPZ
Do đặc tính kém bền trong môi trường acid nên pellet LPZ đều được tiến hành bao cách ly với màng BTOR có tính acid (nhóm carboxy). Màng bao cách ly sử dụng PVA tạo ra dịch bao có độ nhớt khá cao, nhưng là một polyme có khả năng chống ẩm tốt cùng với Lutrol F127. Nghiên cứu cũng chỉ ra độ dày màng bao cách ly là một thông số giúp làm tăng khả năng kháng acid của pellet BTOR, ngăn cản MT acid có thể đã thấm qua một phần của lớp màng BTOR đến tiếp xúc với lớp chứa LPZ trước khi pellet được chuyển qua MT kiềm để giải phóng DC.
4.2.3. Bao màng tan ở ruột cho pellet LPZ đã bao cách ly
Để loại bớt giai đoạn ủ pellet sau khi bao, sử dụng TD BTOR là Eudragit L100 được hòa tan vào hỗn hợp EtOH - nước (3:1). Eudragit L100 tan tốt trong các dung môi hữu cơ và các dung dịch kiềm có pH từ 6,0 trở lên. TD này ở dạng bột nên thuận lợi cho việc pha thành các dung dịch có nồng độ khác nhau. Đánh giá khả năng kháng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_bao_che_va_danh_gia_sinh_kha_dung.doc