Trong những năm qua, khu vực tài chính Việt Nam đã thực hiện tương đối tốt vai trò là
kênh dẫn vốn và phân bổ vốn cho nền kinh tế, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế Việt
Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên, khu vực tài chính Việt Nam cũng đã trải qua những
giai đoạn căng thẳng, khởi đầu là tình trạng căng thẳng xảy ra trên TTCK ngay từ đầu năm
2007, với việc Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn vào tăng mạnh, khiến chỉ số chứng khoán
tăng vọt lên trên mức 1000 điểm, nhưng ngay sau đó lại giảm điểm rất mạnh vào năm 2008.
Tình trạng căng thẳng này cứ âm ỉ trong suốt giai đoạn từ năm 2008-2011 và đến năm 2011,20
tình trạng căng thẳng khu vực tài chính trở lên cực đại với căng thẳng diễn ra trên đồng thời cả
4 khu vực/thị trường: ngân hàng, chứng khoán, ngoại hối và thị trường tiền tệ.
28 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu căng thẳng khu vực tài chính tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á trị cực đại tương ứng với mức căng thẳng cao nhất được xác định
phân vị phần trăm thứ 99.
8
1.3. Tác động của căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế thực
1.3.1. Căng thẳng khu vực tài chính làm suy giảm các hoạt động đầu tư mới
1.3.2. Căng thẳng khu vực tài chính làm suy giảm các hoạt động kinh tế dẫn đến suy
giảm sản lượng
1.4. Kinh nghiệm quốc tế về căng thẳng khu vực tài chính
1.4.1. Kinh nghiệm của Singapore
1.4.1.1. Bối cảnh kinh tế của Singapore
Kể từ khi dành độc lập năm 1965, Singapore đã đạt được sự phát triển kinh tế rất nhanh
chóng. Singapore là một ví dụ điển hình của một quốc gia nhỏ bé với nền kinh tế mở và đạt
được tốc độ tăng trưởng GDP và GDP trên đầu người rất cao.
Singapore là một trong những trung tâm tài chính lớn trên thế giới, ngoài rất nhiều các
ngân hàng trong nước lớn và đa dạng, Singapore còn hấp dẫn rất nhiều các ngân hàng quốc
tế lớn cung cấp rất nhiều các dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng.
1.4.1.2. Giai đoạn căng thẳng tài chính
Căng thẳng tài chính ở Singapore xảy ra trước hết do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Phần lớn cú sốc đến Singapore thông qua khu vực thương mại và các dòng
chu chuyển vốn và tài chính đến nền kinh tế thực.
The periods of 1998 and 2008 were the periods with the highest FSI, reflecting the
financial stress of Singapore
1.4.1.3. Ảnh hưởng của căng thẳng tài chính
Sự lan truyền từ kênh thương mại và tài chính đã dẫn đến nền kinh tế thực, thể hiện
trong chỉ số sản xuất công nghiệp của singapore (IPI). Từ tháng 3 năm 2008 đến tháng 2
năm 2009, IPI cho cả khu vực sản xuất giảm 28%. Khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là
điện lực, giảm 40%, theo sau là hóa học (33%), ngành dệt may cũng giảm khoảng 24%.
Khi sản xuất công nghiệp giảm, niềm tin của các doanh nghiệp cũng suy giảm và đầu
tư giảm. Theo cơ quan thống kê của Singapore, các chỉ số trong quý 4 năm 2008 giảm
mạnh: kỳ vọng của doanh nghiệp giảm 57%, lao động giảm 28%, sản lượng giảm 52%,
lượng đặt hàng mới cũng giảm 39%. Tất cả những biến động này khiến cho tăng trưởng
GDP thực giảm từ 6,7% vào quý 1 năm 2008 xuống -4,1% vào quý 4/2008. Tốc độ tăng
trưởng vốn đầu tư giảm từ 30% trong quý 1/2008 xuống -10% vào quý 4/2008 và -10,2%
vào quý 1 năm 2009. Tăng trưởng tiêu dùng công và tư nhân cũng suy giảm xuống còn
0,9% và 0% vào quý 4/2008.
1.4.1.4. Giải pháp của chính phủ
* Giải pháp để duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính
Thứ nhất, để duy trì sự ổn định của các tổ chức tài chính, MAS đã tăng cường giám sát
các TCTC thông qua việc giám sát chặt chẽ sự lành mạnh tài chính, thường xuyên thảo luận
9
với ban quản trị, kiểm toán viên của các tổ chức tài chính; đối với các tổ chức tài chính nước
ngoài, thường xuyên trao đổi với các nhà quản lý ở nước chủ quản và kiểm toán viên của trụ
sở chính.
Thứ hai, thực hiện các giải pháp đảm bảo sự vận hành tốt các chức năng của thị trường.
Thứ ba, thực hiện các biện pháp để duy trì lòng tin của các nhà đầu tư ở Singapore do
đây là trung tâm tài chính quốc tế.
Thứ tư, chính sách của MAS được điều chính nhằm duy trì định hướng trung hạn và
đảm bảo duy trì sự ổn định của đồng đô la Singapore, đặc biệt trong giai đoạn căng thẳng tài
chính tăng cao.
* Giải pháp hỗ trợ tăng trƣởng kinh tế
Đầu tiên là Kế hoạch tạo việc làm trị giá USD5,1 tỷ trong đó chính phủ trợ cấp cho các
ông chủ thông qua việc trả 12% trong 2500$ đầu tiên tiền lương tháng của mỗi công nhân
nhằm tránh việc cho công nhân nghỉ việc. Biện pháp chính sách thứ 2 nhằm đảm bảo duy trì
dòng tín dụng cho các doanh nghiệp là kế hoạch chia sẻ rủi ro đặc biệt cho các khoản vay
ngân hàng. Biện pháp thứ 3 là giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp thông qua việc
giảm thuế suất từ 18% xuống còn 17%. Thứ tư là để tăng sức cạnh tranh cho người lao
động, chính phủ sẽ trả tới 90% chi phí đào tạo lại lao động. Thứ năm là chính phủ dành tới
USD4,4 tỷ để cải thiện các điều kiện cơ sở hạ tầng về sức khỏe, nhà ở .
1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
1.4.2.1. Bối cảnh kinh tế
Kể từ khi Trung Quốc thực hiện công cuộc cải cách kinh tế vào đầu năm 1979, nền
kinh tế Trung Quốc đã có những bước tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc và trở thành nền
kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Tuy nhiên, từ năm 2011 cho đến nay, tốc độ tăng trưởng
của quốc gia này đã có sự chững lại đáng kể và tình trạng này được dự báo sẽ còn kéo dài
trong tương lai.
1.4.2.2. Giai đoạn căng thẳng khu vực tài chính
Nguồn: Sun và Huang, 2016
Hình 1.12: Chỉ số CNFSI phản ánh các giai đoạn căng thẳng khu vực tài chính
1.4.2.3. Ảnh hưởng của căng thẳng tài chính
10
Khu vực xuất khẩu của Trung Quốc chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của khủng hoàng
toàn cầu và căng thẳng tài chính xảy ra trong nước khi nhu cầu của nền kinh tế thế giới có
dấu hiệu suy giảm. Tăng trưởng GDP Trung Quốc giảm mạnh từ 14,2% năm 2007 xuống
9,6% năm 2008 và 9,2% vào năm 2009.
1.4.2.4. Giải pháp của chính phủ
a. Giải pháp hướng tới ổn định tài chính
Thứ nhất, Trung quốc đã có những bước tiến mạnh mẽ hướng tới hệ thống tài chính
định hướng thị trường, bao gồm những cải cách như tái cấu trúc vốn hệ thống ngân hàng,
tạo ra thị trường vốn mới, giới thiệu cơ cấu pháp chế bền vững, mở cửa thị trường tài chính
theo sau sự gia nhập WTO và từng bước cải cách chính sách lãi suất và tỷ giá.
Thứ hai, để phá vỡ vòng luẩn quẩn của giảm giá đồng RMB, các dòng vốn ra khỏi
Trung Quốc gia tăng, năm 2016, Chính phủ Trung Quốc đã phải áp dụng các biện pháp
kiểm soát vốn chặt chẽ hơn và yêu cầu dự trữ với các khoản tiền gửi RMB của các tổ chức
tín dụng nước ngoài.
Thứ ba, đối với khu vực chứng khoán, các công ty hàng đầu đã được tái cấu trúc, kế
hoạch bảo vệ các nhà đầu tư được thiết lập.
b. Giải pháp hướng tới tăng trưởng kinh tế
Thứ nhất, để tránh đưa nền kinh tế suy thoái, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra những
gói cứu trợ kinh tế lớn để khôi phục đà tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ hai, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2008, lãi suất
được cắt giảm 5 lần, ngày 26 tháng 11 năm 2008, cắt giảm tơi 108 điểm cơ bản.
Thứ ba, chính phủ thực hiện chính sách ưu đãi về thuế như: tăng hoàn thuế VAT cho
xuất khẩu, giảm thuế cho các doanh nghiệp nhỏ bằng cách giảm thuế suất từ 6% xuống còn
3%, tăng mức giảm trừ gia cảnh trong thu nhập hàng tháng từ 5.000 CNY lên mức 10.000
CNY
1.4.3. Bài học cho Việt Nam
1.4.3.1 Bài học về phòng ngừa nguy cơ xảy ra căng thẳng tài chính
- Tiếp tục thực hiện mở cửa khu vực tài chính một cách thận trọng và kiểm soát hiệu quả
dòng vốn..
- Đảm bảo sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
1.4.3.2. Bài học về thực hiện các giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của căng thẳng tài chính
- Xây dựng hệ thống cảnh bảo sớm căng thẳng khu vực tài chính.
- Phát triển lành mạnh thị trường tài chính, đa dạng hóa các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống giám sát tài chính, giám sát an toàn vi mô.
- Thực hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và hộ gia đình, giảm thiểu tác động của
căng thẳng tài chính.
11
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chương 1 đã hệ thống hóa và khái quát lí luận về căng thẳng khu vực tài chính. Khái
niệm và đặc điểm của căng thẳng khu vực tài chính đã được xem xét kỹ lưỡng để từ đó
nghiên cứu về các nguyên nhân đến căng thẳng khu vưc tài chính, cũng như những tác động
của căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế thực. Trong chương 1, tác giả cũng nghiên
cứu kinh nghiệm của Singapore và Trung Quốc trong việc quản lý căng thẳng khu vực tài
chính, từ đó rút ra những bài học quý báu cho Việt Nam liên quan đến các biện pháp phòng
ngừa căng thẳng khu vực tài chính và các biện pháp quản lý nhằm giảm thiểu tác động tiêu
cực của căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế.
12
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CĂNG THẲNG KHU VỰC TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2017
2.1 Tổng quan về khu vực tài chính Việt Nam
2.2 Thực trạng căng thẳng khu vực tài chính Việt Nam thời kỳ từ năm 2005 đến 2017
2.2.1. Căng thẳng thị trường tiền tệ
Các giai đoạn chênh lệch TED gia tăng là giai đoạn những năm 2007 (chênh lệch TED
là 4,77%), cuối năm 2008 đầu năm 2009 (chênh lệch TED là 2,97%) và giai đoạn cuối năm
2011 và đầu năm 2012 (chênh lệch TED là 1,68%).
2.2.2. Căng thẳng khu vực ngân hàng
Hình 2.10: Tỷ lệ Huy động/GDP và Cho
vay/GDP giai đoạn 2005-2017
Nguồn: Báo cáo tài chính các NHTM
Hình 2.11: Tỉ lệ nợ xấu hệ thống NHTM
Việt Nam 2005-2017
Qua quan sát hình 2.10 và hình 2.11 có thể thấy giai đoạn 2008 - 2011 chứng kiến sự biến
động mạnh mẽ trong quy mô huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng, chất lượng tài sản
của hệ thống ngân hàng cũng suy giảm nghiêm trọng khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao trên mức 3% vào
các năm 2006 và giai đoạn từ năm 2011 – 2014.
2.2.3. Căng thẳng thị trường chứng khoán
Giai đoạn giảm điểm năm 2008
Do tình hình kinh tế vĩ mô bất ổn, cùng với một loạt thông tin xấu, bất lợi cho thị
trường đã khiến thị trường chứng khoán Việt Nam rơi vào tình trạng căng thẳng, gia tăng
mức độ không chắc chắn của các nhà đầu tư, giảm sự sẵn sàng nắm giữ tài sản khiến giá tài
sản liên tục sụt giảm, từ đầu năm 2008 đến cuối năm 2008, chỉ số VNINDEX giảm gần 700
điểm, hàng trăm ngàn tỷ đồng giá trị tài sản đã bốc hơi. Cuối năm 2007, giá trị vốn hóa của
HSX đạt 333.529 tỷ đồng và cuối năm 2008 chỉ còn lại 169.346 tỷ đồng, bất chấp khối
.000
.200
.400
.600
.800
1.000
1.200
.000%
20.000%
40.000%
60.000%
80.000%
100.000%
120.000%
2
0
0
5
Q
1
2
0
0
6
Q
3
2
0
0
8
Q
1
2
0
0
9
Q
3
2
0
1
1
Q
1
2
0
1
2
Q
3
2
0
1
4
Q
1
2
0
1
5
Q
3
2
0
1
7
Q
1
Cho vay/Tiền gửi CV/GDP
TG/GDP
.00%
.500%
1.00%
1.500%
2.00%
2.500%
3.00%
3.500%
4.00%
4.500%
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
1
0
2
0
1
1
2
0
1
2
2
0
1
3
2
0
1
4
2
0
1
5
2
0
1
6
2
0
1
7
Tỷ lệ nợ xấu
13
lượng cổ phiếu niêm yết mới tăng gần 53% trong năm đó. HNX cuối năm 2007 đạt vốn hóa
130.633 tỷ đồng và năm 2008 còn lại 50.400 tỷ đồng.
Giai đoạn năm 2011
Năm 2011 là một năm khó khăn của nền kinh tế Việt Nam, theo đó thị trường chứng
khoán vốn là phong vũ biểu của nền kinh tế, cũng phản ánh rõ điều này với xu hướng giảm
điểm là chính và chủ đạo. Từ đầu năm đến cuối năm, chỉ số VNINDEX đã giảm mạnh
27,46%, xuống còn 350 điểm vào cuối năm 2011, 62% số cổ phiếu trên cả 2 sàn có thị giá
dưới mệnh giá.
2.2.4. Căng thẳng thị trường ngoại hối
Tác động tiêu cực của khủng hoảng toàn cầu và các bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước đã
khiến cho thị trường ngoại hối và tỷ giá VND/USD liên tục bị biến động mạnh. Chỉ trong
năm 2008, NHNN đã 3 lần nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá, thực hiện các biện pháp nhằm
kiểm soát thị trường ngoại hối tự do nhằm tập trung ngoại tệ vào ngân hàng. Tuy nhiên cung
cầu USD vẫn mất cân đối trầm trọng, thị trường ngoại hối trở lên vô cùng căng thẳng, tỷ giá
VND/USD bất ổn định nhất khi mà trên thị trường đầu năm 2008 tỷ giá chỉ xoay quanh ở
mức 15.000 đến 16.000 VND/1 USD, đến cuối năm 2008 con số này suýt soát chạm
ngưỡng 19.500 VND. Để bình ổn thị trường ngoại hối cũng như tỷ giá VND/USD, bên cạnh
những biện pháp chính sách tiền tệ và hành chính, NHNN đã phải sử dụng quỹ dự trữ ngoại
hối để can thiệp vào thị trường khiến cho quy mô quỹ dự trữ ngoại hối có dấu hiệu suy giảm
mạnh và liên tiếp từ cuối năm 2008 đến năm 2011, từ mức 23,9 tỷ đô cuối năm 2008 xuống
mức 12,2 tỷ đô vào quý 1 năm 2011, tương đương với 1,5 tháng nhập khẩu, thấp hơn so với
ngưỡng an toàn 3-4 tháng mà IMF khuyến nghị (IMF, 2000).
2.2.5. Đo lường căng thẳng khu vực tài chính Việt Nam bằng chỉ số FSI
2.2.5.1. Tiêu chuẩn lựa chọn các biến số cho FSI Việt Nam để xác định giai đoạn căng
thẳng khu vực tài chính
Các biến số được lựa chọn để xây dựng chỉ số căng thẳng khu vực tài chính cho Việt
Nam cần thỏa mãn các tiêu chuẩn: mức độ bao quát hệ thống tài chính, khả năng biểu hiện
căng thẳng trong từng cấu thành của hệ thống tài chính, mức độ sẵn có của dữ liệu tài chính,
và các biến số phải có mối liên hệ với nền kinh tế thực.
2.2.5.2. Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính
a. Lựa chọn biến số
Chỉ số căng thẳng khu vực tài chính được xây dựng để đo lường căng thẳng tài chính
tại Việt Nam trong giai đoạn 2005-2017 bao gồm các chỉ số phản ánh căng thẳng của 4 khu
vực thị trường: thị trường tiền tệ, khu vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường
ngoại hối.
* Thị trường tiền tệ
14
Tác giả sử dụng chênh lệch (spread) giữa lãi suất liên ngân hàng và lãi suất tín phiếu
kho bạc cho thời hạn 3 tháng (TED_spread).
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của NHNN
Hình 2.22: Chênh lệch TED trên thị trƣờng tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2005-2017
* Khu vực ngân hàng
Dữ liệu bảng cân đối được sử dụng trong nghiên cứu là tỷ lệ cho vay/huy động tại các
NHTM. Theo Sun và Huang (2016), tỷ lệ này tăng phản ánh căng thẳng và rủi ro vỡ nợ của
khu vực ngân hàng tăng lên. Đồ thị cho thấy giai đoạn 2011-2012 là giai đoạn tỷ lệ cho
vay/huy động tăng xấp xỉ 1, phản ánh những căng thẳng trong khu vực ngân hàng giai đoạn
2011-2012. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với những diễn biến về tăng trưởng tín dụng
và tăng trưởng tiền gửi trong những giai đoạn này.
Nguồn: Tính toán của tác giả từ tổng hợp BCTC của một số NHTM
Hình 2.23: Tỷ lệ cho vay/huy động tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005-2017
* Thị trường chứng khoán
Một trong những biến số phổ biến được sử dụng để đánh giá rủi ro trên thị trường
chứng khoán chính là biến động chỉ số chứng khoán (realized volatility). Độ biến động của
chỉ số VNINDEX (sd_vni) chính là độ lệch chuẩn của VNINDEX phiên trong từng quý.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Hình 2.24: Mức biến động của chỉ số VNINDEX
4.773
2.969 1.676
-5.000
.000
5.000
10.000
2
0
0
5
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
1
0
2
0
1
1
2
0
1
1
2
0
1
2
2
0
1
3
2
0
1
4
2
0
1
4
2
0
1
5
2
0
1
6
2
0
1
7
2
0
1
7
TED_spread
0
1
2
2
0
0
2
0
0
2
0
0
2
0
0
2
0
0
2
0
0
2
0
0
2
0
1
2
0
1
2
0
1
2
0
1
2
0
1
2
0
1
2
0
1
2
0
1
2
0
1
2
0
1
2
0
1
Loan_Deposit
.000
50.000
100.000
150.000
2
0
0
5
Q
1
2
0
0
5
Q
4
2
0
0
6
Q
3
2
0
0
7
Q
2
2
0
0
8
Q
1
2
0
0
8
Q
4
2
0
0
9
Q
3
2
0
1
0
Q
2
2
0
1
1
Q
1
2
0
1
1
Q
4
2
0
1
2
Q
3
2
0
1
3
Q
2
2
0
1
4
Q
1
2
0
1
4
Q
4
2
0
1
5
Q
3
2
0
1
6
Q
2
2
0
1
7
Q
1
2
0
1
7
Q
4
sd_vni
15
* Thị trường ngoại hối
Để phản ánh căng thẳng trên thị trường ngoại hối, tác giả đã sử dụng tỷ giá hối đoái và
thay đổi dự trữ ngoại hối để tính toán chỉ số EMP. Theo Elekda và Selim (2009) EMP được
xác định như sau:
Trong đó, e (dEX) và RES (dFEX) lần lượt là phần trăm thay đổi theo quý của tỷ
giá danh nghĩa giữa đồng nội tệ và đồng đô la Mỹ và dự trữ ngoại hối. và là giá trị trung
bình và độ lệch chuẩn của hai đại lượng thành phần xác định EMP.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Hình 2.25: Chỉ số căng thẳng thị trƣờng ngoại hối giai đoạn 2005-2017
Hình 2.26 cho thấy đồ thị biểu diễn chỉ số EMP và dự trữ ngoại hối có mối quan hệ ngược
chiều, và hoàn toàn phù hợp với những diễn biến trên thị trường ngoại hối. Trong suốt giai đoạn
2008-2011, trước những biến động lớn từ nền kinh tế thế giới cùng với những bất ổn của nội tại
nền kinh tế Việt Nam khiến cho thị trường ngoại hối biến động mạnh. NHNN nhiều lần phải sử
dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trường khiến cho quy mô quỹ dự trữ ngoại hối có dấu
hiệu suy giảm mạnh và liên tiếp từ cuối năm 2008 đến năm 2011.
b. Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính sử dụng phƣơng pháp trọng số phƣơng
sai bằng nhau
Theo Balakrishnan và các tác giả (2009 và 2011), các biến được chuẩn hóa theo công
thức như sau:
Biến chuẩn hóa =
̅
Nguồn: Tính toán của tác giả
Hình 2.26: Chỉ số căng thẳng tài chính của Việt Nam giai đoạn 2005-2017
-5
0
5
2
0
0
5
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
0
9
2
0
1
0
2
0
1
0
2
0
1
1
2
0
1
1
2
0
1
2
2
0
1
2
2
0
1
3
2
0
1
3
2
0
1
4
2
0
1
4
2
0
1
5
2
0
1
5
2
0
1
6
2
0
1
6
2
0
1
7
2
0
1
7
EMP
-1
0
1
2
2
0
0
5
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
0
9
2
0
1
0
2
0
1
0
2
0
1
1
2
0
1
1
2
0
1
2
2
0
1
2
2
0
1
3
2
0
1
3
2
0
1
4
2
0
1
4
2
0
1
5
2
0
1
5
2
0
1
6
2
0
1
6
2
0
1
7
2
0
1
7
FSI
16
Theo Yiu, Ho và Jin (2010), phương pháp đơn giản nhất để xác định giai đoạn căng thẳng là
giai đoạn chỉ số FSI đạt đỉnh cao nhất, còn khi FSI thấp tương đối là khi khu vực tài chính tương
đối ổn định. Đồ thị cho thấy, thời điểm khu vực tài chính trải qua căng thẳng nhất là vào quý 1
năm 2011 và vẫn tiếp tục cho đến quý 3 năm 2012 mới có dấu hiệu suy giảm.
Một cách khác để xác định giai đoạn căng thẳng tài chính là so sánh FSI với đường xu
hướng dài hạn.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Hình 2.27: Đƣờng xu hƣớng dài hạn của FSI và độ lệch so với đƣờng xu hƣớng
Sau khi xác định được đường xu hướng, tác giả tham khảo tiêu chí của Balakrishnan
và các đồng sự (2009 và 2011) và Cardarelli, Elekdag, và Lall (2008 và 2011) để xác định
giai đoạn căng thẳng tài chính khi mà chỉ số FSI có độ lệch so với xu hướng là từ 1-1,5 lần
độ lệch chuẩn (của xu hướng). Như vậy, bằng cả phương pháp sự kiện và phương pháp định
lượng so sánh FSI với đường xu hướng dài hạn nêu trên đều chỉ ra giai đoạn 2011- 2012 là
giai đoạn chứng kiến căng thẳng tài chính rõ nét nhất.
2.2.6. Nguyên nhân dẫn đến căng thẳng khu vực tài chính Việt Nam
2.2.6.1. Nguyên nhân từ bên ngoài
Dòng vốn vào gia tăng mạnh mẽ giai đoạn trước năm 2009 có thể coi là nguyên nhân
cơ bản dẫn đến căng thẳng khu vực tài chính ở Việt Nam
Tác động lan truyền của khủng hoảng tài chính thế giới đến nền kinh tế Việt Nam
2.2.6.2. Nguyên nhân bên trong
Cấu trúc hệ thống tài chính còn chưa hợp lý
Sự thiếu linh hoạt trong điều hành chính sách của các cơ quan quản lý, khuôn khổ thể chế
và các qui chế an toàn, quy định pháp lý còn chưa phù hợp với thực tiễn biến động, đặc biệt
giai đoạn trước năm 2010 đã góp phần khiến tình trạng căng thẳng khu vực tài chính xảy ra và
gây ra những tác động tiêu cực đến nền kinh tế thực.
Năng lực thanh tra giám sát của NHNN giai đoạn trước đây còn một số hạn chế
Chưa có cơ quan thực hiện giám sát an toàn vĩ mô toàn hệ thống tài chính một cách
đầy đủ.
2.3 Thực trạng tác động của căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế thực
-0.6
0.4
1.4
2.4
3.4
-1
-0.5
0
0.5
1
1.5
2
0
0
5
Q
1
2
0
0
5
Q
4
2
0
0
6
Q
3
2
0
0
7
Q
2
2
0
0
8
Q
1
2
0
0
8
Q
4
2
0
0
9
Q
3
2
0
1
0
Q
2
2
0
1
1
Q
1
2
0
1
1
Q
4
2
0
1
2
Q
3
2
0
1
3
Q
2
2
0
1
4
Q
1
2
0
1
4
Q
4
2
0
1
5
Q
3
2
0
1
6
Q
2
2
0
1
7
Q
1
2
0
1
7
Q
4
Cycle FSI Trend 1SD+trend
17
2.3.1. Tác động của căng thẳng khu vực tài chính đến hoạt động đầu tư
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 2.33: Tốc độ tăng vốn đầu tƣ, tỷ lệ đầu tƣ/GDP giai đoạn 2005-2017
Hình 2.33 cho thấy những diễn biến trong tốc độ tăng vốn đầu tư qua các năm tương
đối phù hợp với lý thuyết về tác động của căng thẳng khu vực tài chính đến hoạt động đầu
tư. Trong những giai đoạn khu vực tài chính có những căng thẳng và bất ổn, hoạt động đầu
tư suy giảm rõ rệt. Năm 2008, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các doanh
nghiệp cảm thấy bất ổn về những triển vọng trong tương lai, sự sụt giảm của tổng cầu khiến
tình hình tài chính doanh nghiệp suy yếu, hoạt động đầu tư giảm mạnh với tốc độ tăng vốn
đầu tư nằm dưới đường xu hướng, chỉ tăng 15,91% so với năm 2007. Năm 2011, 2012 và
2013, tốc độ tăng vốn đầu tư tiếp tục nằm dưới đường xu hướng, tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP
giảm ở mức 30% GDP.
Hình 2.34: Tỷ trọng vốn đầu tƣ trong
GDP theo thành phần kinh tế giai đoạn
2005-2017
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 2.35: Cơ cấu vốn đầu tƣ phân theo
thành phần kinh tế giai đoạn 2005-2017
Nếu nhìn vào cơ cấu vốn đầu tư/GDP có thể thấy, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP đạt đỉnh năm
2007 ở mức 42,68%, năm 2007, quy mô vốn đầu tư/GDP giảm mạnh xuống dưới mức 40%
vào năm 2008, và xu hướng giảm mạnh này tiếp tục diễn ra trong ba năm 2011, 2012, 2013,
trong đó năm 2013, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP giảm thấp nhất, chỉ còn 30,54%.
.000%
10.000%
20.000%
30.000%
40.000%
50.000%
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Tỷ lệ đầu tư/GDP Tốc độ tăng vốn đầu tư
Linear (Tốc độ tăng vốn đầu tư)
.000%
20.000%
40.000%
60.000%
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
1
0
2
0
1
1
2
0
1
2
2
0
1
3
2
0
1
4
2
0
1
5
2
0
1
6
2
0
1
7
Vốn đầu tư/GDP
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
.000%
50.000%
100.000%
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
1
0
2
0
1
1
2
0
1
2
2
0
1
3
2
0
1
4
2
0
1
5
2
0
1
6
2
0
1
7
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế ngoài nhà nước
Kinh tế Nhà nước
18
Nguồn: CEIC
Hình 2.37: Mức tăng chỉ số sản xuất công nghiệp
Hình 2.37 cho thấy diến biến mức tăng chỉ số sản xuất công nghiệp trong giai đoạn
2005 – 2017. Qua đó có thể thấy những thời điểm mức tăng trưởng chỉ số sản xuất công
nghiệp nhận giá trị âm là tháng 12/2008 (-0,915%), tháng 2/2010 (-1,028%), tháng 1/2012 (-
2,407%) và mức tăng trưởng thấp nhất là tháng 02/2013 (-10,1%). Đây cũng là những thời
điểm khu vực tài chính Việt Nam chứng kiến tình trạng căng thẳng trên thị trường chứng
khoán, thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối và khu vực ngân hàng.
2.3.2. Tác động của căng thẳng khu vực tài chính đến tăng trưởng kinh tế
Diễn biến tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam tương đối phù hợp với lý thuyết về tác
động của căng thẳng khu vực tài chính. Giai đoạn 2007-2010 là giai đoạn chứng kiến tăng
trưởng tín dụng nóng ở Việt Nam, với mức tăng trưởng tín dụng lên tới trên 30%, tuy nhiên
năm 2008, mức tăng trưởng tín dụng giảm đột ngột từ 49,79% (2007) xuống 27,6% (2008)
và tăng bật trở lại mức 45,32% (2009). Kể từ năm 2011, tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu
chậm lại, đặc biệt trong hai năm 2011 và 2012, mức tăng trưởng tín dụng/GDP giảm xuống
mức -11,58% và -4,8%.
Căng thẳng khu vực tài chính khiến cho tăng trưởng tín dụng giảm, các hoạt động đầu
tư của doanh nghiệp có chiều hướng thu hẹp, nguy cơ mất việc làm, sụt giảm thu nhập trong
điều kiện nền kinh tế hồi phục chậm chạp đã khiến đa số hộ gia đình và cá nhân thắt chặt
tiêu dùng. Tiêu dùng tư nhân giảm liên tục trong khoảng thời gian dài từ mức đỉnh năm
2008 là 70,87%GDP xuống mức đáy 64,5% GDP vào năm 2012.
Quy mô vốn đầu tư giảm, đồng thời với việc sử dụng vốn đầu tư chưa hiệu quả chính
là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
2.3.3. Đánh giá tác động của căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế thực bằng
mô hình véc tơ tự hồi quy ngƣỡng
2.3.3.1. Mô hình nghiên cứu
Để đánh giá tác động của căng thẳng khu vực tài chính đến nền kinh tế thực tại Việt Nam
trong giai đoạn 2005-2017, luận án sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy ngưỡng - TVAR được sử
dụng trong các nghiên cứu của Roye (2012), Li & St-Amant (2012), Ahma et al. (2014)
-20
0
20
40
2
0
0
5
-0
1
2
0
0
5
-0
7
2
0
0
6
-0
1
2
0
0
6
-0
7
2
0
0
7
-0
1
2
0
0
7
-0
7
2
0
0
8
-0
1
2
0
0
8
-0
7
2
0
0
9
-0
1
2
0
0
9
-0
7
2
0
1
0
-0
1
2
0
1
0
-0
7
2
0
1
1
-0
1
2
0
1
1
-0
7
2
0
1
2
-0
1
2
0
1
2
-0
7
2
0
1
3
-0
1
2
0
1
3
-0
7
2
0
1
4
-0
1
2
0
1
4
-0
7
2
0
1
5
-0
1
2
0
1
5
-0
7
2
0
1
6
-0
1
2
0
1
6
-0
7
2
0
1
7
-0
1
2
0
1
7
-0
7
Mức tăng chỉ số sản xuất công nghiệp (%)
19
2.3.3.2. Lựa chọn biến
Trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước về các biến khi xem xét tác động của chỉ số
FSI đến nền kinh tế thực, tác giả lựa chọn các biến sau vào mô hình TVAR: GDP, CPI, INT, FSI
2.3.3.3. Kết quả nghiên cứu
Bảng 2.10: Kết quả ƣớc lƣợng mô hình TVAR đến GDP với biến ngƣỡng là chỉ số căng
thẳng khu vực tài chính (FSI)
Chế độ 1 Chế độ 2
FSI(-1) =0.3062018
Số quan sát 42 quan sát (82,4%) 9 quan sát (17,6%)
Hệ số hồi quy Giá trị t p-value Hệ số hồi quy Giá trị t p-value
Hằng số 0.023236 2.544423 0.014800 0.100173 3.565756 0.000900
GDP(-1) 0.652164 4.962285 0.000000 -0.331978 -2.313395 0.025800
FSI(-1) -0.005913 -0.702597 0.486300 -0.130317 -4.726012 0.000000
CPI(-1) -0.076877 -1.160887 0.252400
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_cang_thang_khu_vuc_tai_chinh_tai.pdf