Tóm tắt Luận án Nghiên cứu kết quả điều trị phẫu thuật và một số yếu tố nguy cơ tái phát, di căn sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng triệt căn

Post-operative early result: Median length of postoperative stay is

11,1 days, with the group undergoing radical surgery is 11,8 days, and

the group undergoing non-curative surgery and exploratory surgery is

9,3 days. Within the first 30 days after surgery, there is no case of death,

and according to Gosens, the rate of mortality is 0-5% in the first month

after surgery, and 8% in the third month. There are 8 cases with

postoperative complication (15,1%): partial intestinal obstruction (1,9%),

urine leakage (3,7%), surgical site infection (3,7%), postoperative

pancreatitis (3,7%), electrolyte disorder (1,9%). After intensive

treatment, all of these cases are stabilized and discharged from hospital.

The rate of complication depends on method of treatment for tumor. For

surgery for local cancer with invasion or for local recurrence with

invasion, surgery for dissection of invaded organs is necessary for

reaching cancer-related standards. Complications are anastomotic

leakage, abscess after surgery or peritonitis due to anastomotic

disruption. Causes of death are mainly related to infection, bleeding,

multiple organ failure, and cardiovascular problems and pulmonary

infarction.

pdf53 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 408 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu kết quả điều trị phẫu thuật và một số yếu tố nguy cơ tái phát, di căn sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng triệt căn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ém. Trong nghiên cứu này, độ biệt hoá của 2 nhóm tái phát và không tái phát có sự khác biệt (p=0,009 < 0,01), như vậy, độ thấp (bao gồm biệt hoá vừa và cao) sẽ có nguy cơ tái phát thấp hơn độ cao (gồm biệt hoá kém và không biệt hoá), hay có thể kết luận: độ biệt hoá là một yếu tố tiên lượng độc lập đến sự tái phát. * U xâm nhập mạch máu và mạch bạch huyết: là yếu tố tiên lượng độc lập đối với tái phát. Nam giới có yếu tố xâm nhập mạch bạch huyết có tỷ lệ tái phát nhanh với gần 100% trường hợp tái phát trong 24 tháng. Trong nghiên cứu của Micu B. và cs., xâm nhập mạch được mô tả ở 7 TH (3,7%) ở nhóm không tái phát và ở 67 TH (59,8%) ở nhóm tái phát, sự khác biệt rõ ràng giữa 2 nhóm tái phát và không tái phát, p <0,001. Yếu tố xâm nhập đến mạch máu và mạch bạch huyết được Hội các nhà Giải phẫu bệnh Hoa Kỳ xếp vào nhóm có giá trị tiên lượng xấu, cũng như UICC đưa vào bảng xếp giai đoạn TNM. Trong nghiên cứu này, chúng tôi không thấy được sự khác biệt này, p=0,13, nhưng thấy được sự khác biệt khi so sánh ở nhóm giai đoạn I, II, p=0,047. Điều này có thể lý giải bởi sự ảnh hưởng của giai đoạn bệnh đến yếu tố xâm nhập mạch bạch huyết, nên sau khi loại bỏ yếu tố giai đoạn bệnh, chúng tôi thấy được sự khác biệt giữa 2 nhóm. * Thành phần nhầy của u: Khi so sánh đặc điểm chế nhầy nhiều hay ít giữa 2 nhóm tái phát và không tái phát, chúng tôi thấy tỷ lệ chế nhầy trên 50% ở 36/533 TH (6,7%) ở nhóm không tái phát và tỷ lệ chế nhày trên 50% ở 8/46 TH (17,4%) ở nhóm tái phát, so sánh bằng thuật toán Khi bình phương, chúng tôi đưa ra được kết luận: yếu tố chế nhầy > 50% tạo ra sự khác biệt giữa hai nhóm (p=0,009), hay tổ chức nhầy càng nhiều càng làm tăng nguy cơ tái phát. Điều này cũng đã được một số tác giả khác trên thế giới chứng minh với p<0,001. * Thang điểm Petersen: là yếu tố tiên lượng độc lập tới tái phát. Điểm số Petersen được tính nhằm đánh giá nguy cơ tái phát dựa trên mức độ xâm lấn thanh mạc, xâm lấn mạch, xâm lấn diện cắt và có hoại tử thủng ra ngoài không. Thang điểm 0-5. Tính một điểm cho những trường hợp có 1 trong các dấu hiệu: xâm lấn tĩnh mạch, u xâm lấn ra thanh mạc, xâm lấn ra diện cắt, tính hai điểm cho khối u hoại tử thủng. Do đó, sẽ phân thành 2 nhóm: nhóm nguy cơ thấp (0-1 điểm) và nguy cơ cao (2-5 điểm). Theo nghiên cứu của Micu B và cs., chỉ số Petersen từ 2-5 điểm (nhóm có nguy cơ tái phát cao) gặp ở 58 TH (51,8%) ở nhóm tái phát và 5 TH (2,6%) ở nhóm không tái phát, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tái phát: có 12 TH (22,6%) có chỉ số Petersen từ 2-5 điểm, nhóm không tái phát: có 23 TH (4,2%) có chỉ số Petersen từ 2-5 điểm, bằng test Khi bình phương, chúng tôi thấy có sự khác biệt giữa 2 nhóm tái phát, p<0,0001. Điều này càng khẳng định lần nữa chỉ số Petersen có vai trò trong tiên lượng tái phát. * Số lượng hạch nạo vét được trên bệnh phẩm sau mổ: Đây là một yếu tố liên quan đến điều trị phẫu thuật. Bệnh phẩm sau khi được phẫu thuật sẽ được các bác sỹ giải phẫu bệnh cắt nhuộm soi dưới kinh hiển vi, đồng thời nhặt hạch thông qua quan sát hoặc nhuộm các chất chỉ thị màu. Số lượng hạch nạo vét được phụ thuộc 2 yếu tố: một đến từ cuộc mổ và hai đến từ quy trình lấy hạch trên bệnh phẩm. Các y văn trên thế giới đã nghiên cứu thấy rằng nhóm bệnh nhân có số lượng hạch > 10 có thời gian sống thêm sau mổ cũng như tỷ lệ tái phát tại chỗ thấp hơn là những trường hợp số lượng hạch nạo vét được < 10. Khi số lượng hạch nạo vét được dưới 10, bất kể giai đoạn nào, điều trị xạ trị hoặc hóa chất bổ trợ sau mổ cần được cân nhắc và hội chẩn, đặc biệt là những bệnh nhân thuộc nhóm u T3 hoặc có yếu tố nguy cơ tái phát cao. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số lượng hạch nạo vét được giữa 2 nhóm tái phát (trung bình 6,78 hạch) và nhóm không tái phát (trung bình 8,28 hạch) không có sự khác biệt với p=0,081. Tuy nhiên khi phân tích sâu hơn bằng cách chỉ tính những trường hợp ở giai đoạn sớm (giai đoạn I, II), số lượng hạch trung bình giữa hai nhóm (tái phát có trung bình 6,03 hạch với không tái phát: 8,2 hạch) có sự khác biệt với p=0,03 (<0,05). Mặc dù giai đoạn sớm I, II là những giai đoạn chưa có di căn hạch, song việc nạo vét được càng nhiều hạch cũng góp phần làm giảm nguy cơ tái phát. * Điều trị bổ trợ: Điều trị bổ trợ hoá xạ trị trước hay sau mổ thường được chỉ định cho giai đoạn II và III. Với những trường hợp giai đoạn I mà có nguy cơ cao thì cần cân nhắc vấn đề điều trị bổ trợ. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có những trường hợp từ giai đoạn III trở lên được được điều trị hoá chất bổ trợ. Trong nghiên cứu: nhóm tái phát có 13/18 TH giai đoạn III điều trị hoá chất đủ liệu trình (12 đợt), nhóm không tái phát có 185/193 TH điều trị hoá chất, có sự khác biệt giữa hai nhóm hay điều trị bổ trợ ảnh hưởng tới tái phát, p=0,002. Các phác đồ điều trị chính hiện nay như FOLFOX 4, 5FU-FA, FOLFOX6, FOLFIRI đã được nhiều tác giả trên thế giới cũng như ở Việt Nam đánh giá là làm giảm nguy cơ tái phát, tăng thời gian sống thêm sau mổ, cũng như có độc tính ít. Tóm lại, các yếu tố ảnh hưởng tới tái phát của ung thư đại trực tràng trong nghiên cứu này là: tuổi, giai đoạn bệnh, phân độ u và độ biệt hoá u, dạng phát triển u theo phân loại Bormann, u xâm nhập mạch máu và mạch bạch huyết, tỷ lệ chế nhầy của u, thang điểm Petersen (gồm xâm lấn thanh mạc, xâm lấn mạch, xâm lấn diện cắt, hoại tử thủng ra ngoài), số lượng hạch nạo vét được, điều trị bổ trợ hoá chất. Trong các yếu tố đó, yếu tố giai đoạn bệnh và thang điểm Petersen là 2 yếu tố tiên lượng nhiều đến sự tái phát. KẾT LUẬN Sau khi nghiên cứu 53 bệnh nhân được điều trị phẫu thuật UTĐTT tái phát tại Bệnh viện Việt Đức chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau: 1. ĐẶC ĐIỂM TÁI PHÁT  Tuổi mắc bệnh trung bình là 56,53 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 1,12.  Thời gian tái phát trung bình là 23,1 tháng, 60,9% tái phát trong 2 năm đầu, 90,6% bệnh nhân tái phát trong 3 năm đầu sau mổ. Thời gian tái phát trung bình của nhóm điều trị bổ trợ hoá chất là 24,6 tháng, của nhóm không điều trị bổ trợ là 21,8 tháng.  Thời gian tái phát trung bình của từng giai đoạn: giai đoạn I: 26,9 tháng, giai đoạn II: 22,2 tháng, giai đoạn III: 24,5 tháng, giai đoạn IV: 18,4 tháng.  Tỷ lệ tái phát sau mổ ung thư trực tràng trong số mổ lại là 58,5%, đại tràng P là 15,1%, đại tràng sigma là 16,9%, đại tràng ngang 3,8%, đại tràng trái là 5,7%.  13,2% không có triệu chứng, phát hiện được tổn thương nhờ khám định kỳ, 86,8% có triệu chứng lâm sàng, triệu chứng hay gặp là đau bụng (47,2%), sụt cân (16,9%), ỉa máu (11,3%), ỉa nhày mũi mủ (13,2%), đau hậu môn (13,2%), trong đó 24,5% có biến chứng do u gồm 13,2% tắc ruột, 5,7% ứ nước thận, 1,9% tắc mạch chi dưới, 3,7% tắc mật.  Phát hiện u chủ yếu bằng chẩn đoán hình ảnh: siêu âm phát hiện được 11 TH tổn thương di căn gan, XQ ngực phát hiện 2 TH di căn phổi, 20 TH tái phát trên khung ĐTT nhờ soi đại tràng, CLVT 64 dãy ổ bụng, toàn thân, CHT: phát hiện được u ở đại trực tràng 20 TH, u di căn lách 1 TH, di căn tuyến thượng thận 1 TH, di căn buồng trứng 2 TH, hạch ổ bụng 13 TH và PET CT phát hiện được 9 TH tổn thương tái phát.  Đặc điểm tái phát có thể đơn độc khu trú, xâm lấn hoặc phối hợp di căn: 7,5% tái phát đơn độc trên khung đại tràng, 15,1% tái phát ở giường khối u, 26,4% tái phát đơn độc tại tiểu khung (gồm miệng nối trực tràng), 1,9% tái phát trên khung đại tràng xâm lấn xung quanh, 5,7% tái phát tại tiểu khung xâm lấn xung quanh, 20,6% tái phát tại chỗ kèm di căn. Các vị trí hay di căn: gan (20,8%), phổi (3,8%), buồng trứng (3,8%). 2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UTĐTT TÁI PHÁT  Tỷ lệ cắt được u triệt căn R0 là 71,7%, mổ điều trị tạm thời giảm nhẹ 26,4%, mổ thăm dò 1,9%. Tỷ lệ mổ cấp cứu 13,2%, mổ phiên 86,8%. Không có trường hợp nào tai biến hay tử vong sau mổ.  Phương pháp phẫu thuật phụ thuộc vị trí u và mức độ phát triển của khối u: cắt lại đoạn đại trực tràng (40%), cắt gan (9,5%), cắt cụt trực tràng (9,4%), cắt buồng trứng (3,7%), cắt tuyến thượng thận (1,9%), cắt u thành bụng (1,9%), cắt u cả khối mở rộng (gồm cắt đoạn ruột non, lách, cơ hoành, bàng quang, niệu quản, tử cung, âm đạo, vòi trứng, mạch chậu) (13,2%).  Tỷ lệ biến chứng sau mổ là 15,1%, nhiễm trùng vết mổ (3,7%), viêm tuỵ sau mổ (3,7%), rò nước tiểu (3,7%), bán tắc ruột (1,9%), rối loạn điện giải (1,9%). Biến chứng chủ yếu gặp ở nhóm phẫu thuật cắt u triệt để (11,3%). Tỷ lệ tử vong là 0%.  Thời gian nằm viện trung bình là 11,1 ngày.  Thời gian sống trung bình sau mổ là 17,1 tháng. Thời gian sống sau phẫu thuật của nhóm PT triệt để (28,89 tháng) dài hơn so với nhóm PT không triệt để (10,13 tháng), p<0,001. 3. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TÁI PHÁT  Nghiên cứu các yếu tố liên quan đến nguy cơ tái phát, chúng tôi thấy: tuổi (p=0,008), giai đoạn bệnh (p=0,0001), độ biệt hoá (p=0,009, RR=0,44), mức độ chế nhầy của tế bào UT ĐTT (p=0,009, RR=0,39), type mô bệnh học (p=0,008), đặc điểm phát triển khối u theo Bormann (p=0,0001, RR=0,11), chỉ số Petersen (gồm các dấu hiệu: xâm lấn tĩnh mạch, u xâm lấn ra thanh mạc, xâm lấn ra diện cắt, khối u hoại tử thủng, p<0,0001, RR=0,21) là những yếu tố nguy cơ tái phát, có ý nghĩa thống kê.  Khi phân tích đa biến còn xác định được ba yếu tố xâm lấn mạch bạch huyết (p=0,047), số hạch nạo vét được (p=0,03) và không điều trị hoá chất bổ trợ (ở giai đoạn III) (p=0,002) là yếu tố nguy cơ tái phát. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Hoàng Minh Đức, Nguyễn Thanh Long, 2019, “Các yếu tố ảnh hưởng tới sự tái phát của ung thư đại trực tràng”, Tạp chí Y học thực hành, số 1 (1089), 28-32. 2. Hoàng Minh Đức, Nguyễn Thanh Long, 2019, “Kết quả điều trị phẫu thuật ung thư đại trực tràng tái phát tại Bệnh viện Việt Đức”, Tạp chí Y học thực hành, số 2 (1090), 2-6. 3. Hoàng Minh Đức, Nguyễn Thành Quang, Nguyễn Thanh Long, 2019, “Đặc điểm tái phát của ung thư đại trực tràng”, Tạp chí Y học thực hành, số 7 (1102), 5-8. MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING MINISTRY OF HEALTH HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOÀNG MINH ĐỨC RESEARCH ON SURGICAL OUTCOMES AND RISK FACTORS OF RECURRENCE, METASTASIS AFTER CURATIVE SURGERY FOR COLORECTAL CANCER Major: Gastrointestinal surgery Code: 62720125 SUMMARY OF DOCTOR MEDICINE THESIS Hanoi - 2019 THE THESIS IS COMPLETED AT: HANOI MEDICAL UNIVERSITY Scientific advisors: Assoc. Prof., Nguyen Thanh Long First opponent: ......................................................... Second opponent: ..................................................... Third opponent: ....................................................... This thesis is defended at University Thesis Examination Council, held at Hanoi Medical University At hour minute on 2019 The thesis may be read at following libraries: - National Library of Vietnam; - Library of Hanoi Medical University; INTRODUCTION Colorectal cancer is one of the most common malignancies; according to the 2019 statistics World Health Organization each year there are 1,8 million new cases and almost 861,000 deaths in 2018. Despite recent significant medical advancement in diagnosis and treatment of colorectal cancer in the recent years, recurrence and metastasis after curative surgery for colorectal cancer have still been serious challenges to clinical doctors. In the world, there have been a number of researches on postoperative recurrence of colorectal cancer, and these researches show that the rate of recurrence is about 20%-30%, of which 60%-80% of recurrences occur within the first 2 years after surgery. Colorectal cancer is classified as recurrent when new malignant lesions are found, either local or metastatic, in patients previously had curative surgery for colorectal cancer. Risks of recurrence depend on various factors, of which the major factors are disease stages, surgical features and postoperative adjuvant treatment. In order to detect recurrent colorectal cancer, it is necessary to conduct regular postoperative examinations with following clinical and subclinical tests: Carcinoembryonic antigen (CEA) test, liver ultrasound, chest X-ray, flexible colonoscopy - biopsy, CT scan, MRI scan, PET - CT scans, etc. For treatment of recurrent colorectal cancer, surgery is still the main treatment method, however whether a surgery is possible depends on site of recurrence and degree of tumor growth. Prognosis after surgery for recurrent colorectal cancer depends on various factors, for example time of recurrence after surgery, disease stage, and having adjuvant treatment or not. In the recent years, the number of patients diagnosed with recurrent colorectal cancer and underwent surgery has been increasing. Nevertheless, in our country researches on this issue are still limited. Therefore, researching on surgical outcomes and risk factors of recurrence and metastasis after curative surgery for colorectal cancer is necessary and has scientific implication for the purpose of generalizing features of recurrence, treatment and outcomes of recurrence treatment as well as identifying risk factors of recurrence after surgery for colorectal cancer. Objectives of research: 1. Describing features of recurrence, metastasis after curative surgery for colorectal cancer. 2. Assessing outcomes of surgery for recurrent and metastatic colorectal cancer. 3. Analyzing a number of risk factors of recurrence, metastasis of colorectal cancer. CONTRIBUTIONS OF THE THESIS 1. Implications of the thesis Results of this research shall help doctors of Gastrointestinal surgery have more understandings of recurrence of colorectal cancer: Site of recurrence, time of recurrence, metastasis, indication of surgery for recurrent colorectal cancer and early and late outcomes of treatment. Also, results of this research identify risk factors of recurrence, such as: Age, disease stage, differentiation, histopathological type, features of tumor growth by Bormann classification, and Petersen index (including various factors: Vascular invasion, serosal invasion, invasion in resection margin, necrotic tumors with perforation), which help surgeons give advises on adjuvant treatment for patients having high risks of recurrence. This research has highly practical implications by providing complete information about features of recurrence, indications and methods of surgery and outcomes of treatment of recurrence after curative surgery for colorectal cancer. Furthermore, this thesis provides information about risk factors of recurrence, which can make treatment after curative surgery for colorectal cancer be more effective. This research has scientific implication with coherent layout and appropriate method of data processing. Research data are processed by modern medical algorithm being capable of properly solving the 3 objectives of research. This thesis has creative, new and up-to-date features, and is the first research that compares the 2 groups of patients with and without recurrence for the purpose of identifying risk factors of recurrence in Viet Nam. 2. Structure of thesis The thesis comprises of 148 pages, with 87 tables, 5 charts, 2 diagrams and 20 images. The thesis has 4 chapters: Introduction (2 pages); Chapter 1 - Overview of literature (40 pages); Chapter 2 - Subjects and methods of research (15 pages); Chapter 3 - Results of research (36 pages); Chapter 4 - Discussion (50 pages) and Conclusion (2 pages); the thesis has 255 references (18 in Vietnamese, and 255 in English). Chapter 1: OVERVIEW 1. Features of recurrence Definition: Colorectal cancer is classified as recurrent when new malignant lesions are found, either local or metastatic, in patients previously had curative surgery for colorectal cancer, and at the same time the current outcomes of anatomical pathology are similar to that of the previous surgery. Features of recurrence: Recurrence may be local (at anastomosis, remaining colorectal section, surgical scar, trocar hole, mesentery, or in the pelvis, etc.) or metastatic (in lung, liver, ovary, peritoneum, etc.) Site of recurrence can be in any intra-abdominal location, isolated or combined with metastasis. A recurrent tumor may be local or invades other adjacent organs (invading vessels, kidney, ureter, bladder, uterus, etc.). Rectal cancer has rate of local recurrence (pelvis) higher than that of colon cancer, due to the characteristic of invading surrounding organs in pelvic region via lymphatic system and intravenous system. However, application of total mesorectal excision (TME) and new chemoradiotherapy protocol has recently reduce rate of recurrence of rectal cancer to 6%. The rate of anastomotic recurrence is 5 - 15% of the total number of patients, including invasive masses outside of rectum and in front of sacrum. In contrast, colon cancer has rate of retroperitoneal recurrence higher than that of rectal cancer. According to Galandiuk et al., for colon cancer, rate of retroperitoneal recurrence, metastasis within 5 years after surgery of is 15%, and rate of local recurrence is 15%; meanwhile that of rectal cancer is 35% and 5% respectively. For rectal cancer, the overall rate of recurrence is about 30% within 5 years after curative surgery. The rate of recurrence, metastasis depends on whether the rectal cancer tumor is high or low: The research on 6859 patients treated with surgery for rectal cancer shows that: Comparing to rectal cancer with low tumor, the rate of liver and lung metastases of rectal cancer with high tumor is higher, p=0,03, and there is no difference in the rate of local recurrence. 2. Risk factors of recurrence, metastasis - Histopathological type: Adenocarcinoma is the most common histopathological type, accounting for 95% and has prognosis of recurrence better than other types. - Disease stage: Is the factor having the most important prognosis value. The later the disease stage is, the higher the risk of recurrence is. The TNM staging system of the World Health Organization and American Joint Committee on Cancer (AJCC) 8th edition staging system 2018, apart from creating a consensus for oncologists to exchange information, also have prognosis implications. The research of Tomoki Yamano on 4992 cases of colorectal cancer shows that the recurrence rates of stages I, II, and III were 1.2%, 13.1%, and 26.3%, respectively (for 3039 colon cancer patients), and 8.4%, 20.0%, and 30.4%, respectively (for 1953 rectal cancer patients). - Differentiation and grade of tumor: Is an independent prognosis factor, in which poor and no differentiation predict high risk of recurrence. - Tumor growth based on Borrmann’s classification: B-I/II (gross appearance shows polypoid/ulcerative lesions without infiltration) have better prognosis than B-III/IV (gross appearance shows invasive/infiltrative ulcerated and poorly demarcated lesions). - Lymphatic invasion, vascular invasion: Have bad prognosis. - Perineural invasion: Results in increased rate of recurrence and decreased overall survival. - Number of dissected lymph nodes and metastatic nodes: When distant metastasis does not present, the extent of lymphatic metastatic spread is the most important factor in prognosis of postoperative survival time and recurrence, metastasis. Dissection of lymph nodes must be proper (at least to D2) and radical (at least 10 nodes) in order to evaluate disease stage and obtain better prognosis of recurrence. - Conditions of resection margin and total mesorectal excision - TME: Before the time of total mesorectal excision (TME), local recurrence often occur at the remained mesorectum (left after previous surgery) or at the location of anastomosis. - Petersen Index: Petersen Index is a multivariable assessment of recurrence risk. One score shall be added if each of the following sign present: Venous invasion, serosal invasion, and margin involvement, and 2 scores shall be added if there is perforation through tumor. Total score: 5. + 0-1 score: Low risk of recurrence + 2-5 score: High risk of recurrence - Pre-operative CEA before surgery and postoperative follow-up: Means bad prognosis, however this must be combined with other prognosis factors in order to decide on adjuvant treatment after curative surgery. After curative surgery, if CEA level does not return to normal, the patient has high risk of recurrence and distant metastasis. According to Chau I., follow-up on cases of colorectal cancer after surgery shows that: CEA level being 1 unit higher than the value of the previous examination has prognosis of recurrence in 74% of cases with recurrence. - Combination therapy after surgery helps kill the remained cancerous cells. Cases treated with combination therapy after surgery have less risk of recurrence. - New prognostic factors: Due to development of molecular technique, more and more genes as well as changes in chromosomes are identified as involved in the regulation of cell cycle. Some of these factors can help determine progression of disease in order to find appropriate methods of treatment. Factors recently being explored include: Thymidylate synthase, microsatellite instability, 18q loss, Kras mutation, DCC, etc. Chapter 2: SUBJECTS AND METHODS OF RESEARCH 2.1. Study population - The population for researching on objective 1 and 2 are 53 patients with recurrence who underwent the first surgeries in the 2 years of 2013 and 2014, and the second surgery (for recurrence) at Viet Duc University Hospital. - The population for objective 3 include 2 groups: 53 patients with recurrence and 545 patients without recurrence. All of these 598 patients underwent their first surgeries in 2013 and 2014. 2.1.1. Patient selection criteria - Recurrent cancer treated with curative surgery for colorectal resection: + Having surgical methods or outcomes of anatomical pathology showing colorectal segment with tumor, negative resection margin and dissected lymphatic nodes. + Having results of anatomical pathology of carcinoma and current outcomes of anatomical pathology being similar to that of the previous one. - Patients with non-recurrent colorectal cancer undergoing surgery for colorectal resection, with clinical and subclinical follow-up and examination not showing recurrent lesions. 2.1.2. Patient exclusion criteria: - Medical records being incomplete. - Patient with colorectal cancer but in the previous surgery colon was not radically dissected (artificial anus was created without dissecting tumor, bypass, etc.) or cancer cells present microscopically at the resection margin. - Patient having other cancerous disease. 2.2. Methods of research: Descriptive retrospective research. * To solve the objective 1 and 2: We collect data of 53 patients with recurrence undergoing surgeries at Viet Duc University Hospital. Of the 53 patients with recurrence, information of the first surgeries and the second surgeries are collected. These patients with recurrence is regularly followed up after surgery, with collected information including adjuvant treatment (chemical/radiotherapy), date of recurrence, recurrence location, clinical symptoms, subclinical features, diagnostic, and surgical method. * To solve the objective 3: Medical records showing surgery for primary tumor: 598 cases meeting selection criteria are selected and divided into 2 groups of with and without recurrence. The group with recurrence has 53 patients and the group without recurrence has 545 patients. The two groups are compared using Chi-squared test, Fisher’s or Mann Whitney algorithms on SPSS version 22.0 (SPSS, Inc, Chicago, IL). A difference between the two groups analyzed by log-rank test having P <0,05 is considered as a statistically significant difference. Two qualitative variables are compare by using Chi-squared test (X2) - when expected frequency is higher than 5, and when the frequency is <5 Fisher's exact test is be applied. For quantitative variables, Mann - Whitney test is applied. When p < 0,05, we calculate relative risk - RR. RR is calculated according to the following formula (applicable to 2x2 table): Risk factor of recurrence Yes No Group With recurrence a c Without recurrence b d Total a + b c + d p1 = 𝑎 𝑎 + 𝑏 and p2 = 𝑐 𝑐 + 𝑑 RR = 𝑝2 𝑝1 = e Explanation of RR: Risk of recurrence of the group without recurrent factor decreases e% as compared

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_nghien_cuu_ket_qua_dieu_tri_phau_thuat_va_mo.pdf
Tài liệu liên quan