CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần và diễn biến tỷ lệ cành cà phê bị rệp sáp hại tại Tây
Nguyên năm 2009, 2010
3.1.1. Thành phần rệp sáp hại cà phê tại Tây Nguyên
Qua điều tra thu thập được 7 loài rệp sáp hại cà phê tại Đắk Lắk và Gia
Lai, thuộc 2 họ của bộ cánh đều là họ rệp sáp bột Pseudococcidae (5 loài), họ
rệp sáp mềm Coccidae (2 loài). Trong 7 loài rệp sáp đã xác định được, có 2 loài
là rệp sáp bột tua ngắn Planococcus kraunhiae Kuwana và loài rệp sáp mềm
xanh Coccus viridis Green là những loài có tần suất xuất hiện với mật độ cao và
ảnh hưởng lớn tới năng suất và chất lượng cà phê tại Đắk Lắk và Gia Lai. Từ kết
quả nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành các nghiên cứu tập trung vào 2 loài rệp
gây hại chính là rệp sáp bột tua ngắn và rệp sáp mềm xanh.
3.1.2. Diễn biến tỷ lệ cành cà phê bị một số loài rệp sáp chính hại tại Tây
Nguyên năm 2010
- Rệp sáp mềm xanh: Tỷ lệ cành cà phê bị nhiễm tại Buôn Ma Thuột qua
các kỳ điều tra cho thấy trong năm có 2 cao điểm là trung tuần tháng 3 và đợt 2
từ tháng 8 đến tháng 9 tương ứng với tỷ lệ cành bị nhiễm ở vườn kiến thiết cơ
bản đợt 1 là 78,89, đợt 2 là 68,89. Vườn kinh doanh đợt 1 là 13,33%, đợt 2 là
20,33%. Tại Cưkuin cũng xuất hiện 2 cao điểm tỷ lệ cành bị nhiễm vào trung
tuần tháng 3 đến tháng 4 và đợt 2 vào trung tuần tháng 8 đến cuối tháng 9.
Trong đó tỷ lệ cành bị nhiễm cao nhất tại vườn kiến thiết cơ bản lên đến 70,11%
và ở vườn kinh doanh là 26,66%.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sử dụng nấm Metarhizium anisopliae và nấm Beauveria bassiana phòng chống rệp sáp hại cà phê tại Tây Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứu về sinh học, sinh thái và các nghiên cứu về tác hại của
chúng đối với cà phê (Zurgen Kramez và Heinz Schmutterer, 1978; Anthony và
Youdewei, 1983; Coste R., 1955).
1.3. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
1.3.1. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nấm ký sinh côn trùng
Vấn đề nghiên cứu các chủng nấm gây bệnh cho côn trùng đã được các
nhà khoa học ở một số trường Đại học và Viện nghiên cứu bắt đầu thực hiện từ
những năm 70 của thế kỷ 20. Năm 1975, Tạ Kim Chỉnh và cs đã thu thập mẫu
bệnh sâu róm thông Dendrolimus ponctatus và xác định là do loài nấm trắng
6
Beauveria gây ra. Nguyễn Thị Lộc và cs ở Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long,
2004 đã sử dụng chế phẩm nấm xanh M. anisopliae để phòng trừ bọ cánh cứng
Brontispa longissima hại dừa và rầy nâu hại lúa. Trịnh Văn Hạnh và cs viện
Khoa học Thủy lợi đã hoàn thành một dự án sản xuất thử nghiệm nấm
Metarhizium để phòng trừ mối hại đê đập (2003- 2005), Phạm Văn Nhạ (2004)
đã nghiên cứu ứng dụng chế phẩm nấm Metarhizium anisopliae để phòng trừ
châu chấu tại Nam Đàn – Nghệ An và Phủ Cừ - Hưng Yên. Từ năm 1992, Phạm
Thị Thùy và cs. (1995, 1997, 2000) đã phân lập, nuôi cấy và thử nghiệm các
chủng nấm bệnh thuộc 3 loài B. bassiana, M. anisopliae và M. flavoride để
phòng trừ cho một số loài sâu hại cây nông, lâm nghiệp. Nguyễn Dương Khuê
và cs. (2001) đã nghiên cứu tuyển chọn một số chủng Metarhzium để thử
nghiệm diệt mối C. formosanus trong phòng thí nghiệm.
Trường Đại học Nông Lâm thành phố HCM đã nghiên cứu khả năng gây
bệnh của nấm Metarhizium anisoplie đối với rệp sáp giả (Dysmicoccus sp ) trên
cây na, đã xác định 16 mẫu nấm Metarhizium anisopliae và chia làm 2 nhóm
Ma-VN1, Ma-VN2 đã được đăng ký trên ngân hàng dữ liệu GenBank (Võ Thị
Thu Oanh và ctv, 2009)
1.3.2. Những nghiên cứu về rệp sáp hại cà phê
Các công trình nghiên cứu về cà phê, nhất là về sâu bệnh hại cà phê đều
cho biết trong các năm gần đây, rệp sáp là những đối tượng gây hại rất quan
trọng trên cà phê cả trên cà phê chè và cà phê vối. Vào những năm đầu của thập
niên 1990 rệp sáp đã hủy diệt hàng ngàn ha cà phê thời kỳ kiến thiết cơ bản (Võ
Chấp, 1997). Năm 2003-2004 và 2006-2008 dịch rệp sáp đã bùng phát gây hại
hàng ngàn ha cà phê cả thời kỳ kiến cơ bản và kinh doanh của một số tỉnh Tây
Nguyên. Theo thống kê của Chi Cục Bảo vệ thực vật Đắk Lắk, chỉ tính riêng
vùng cà phê Đắk Lắk hàng năm có hàng chục ngàn ha bị hại do rệp sáp, mức hại
từ trung bình đến nặng.
Rệp sáp hại tất cả các bộ phận trên mặt đất và dưới mặt đất của cây cà
phê. Nhiều diện tích cà phê sau khi nở hoa đậu quả bị nhiễm rệp sáp làm rụng
7
hết quả. Các diện tích cà phê bị hại nặng đã giảm năng suất cà phê nghiêm
trọng. Rệp sáp gây hại không chỉ làm ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển,
năng suất của cây cà phê trong thời điểm bị hại của năm đó, mà nó còn gây ảnh
hưởng cho vườn cà phê vào các năm sau, nếu cà phê không được chăm sóc, hồi
phục tốt (Võ Chấp, 1997). Khi rệp sáp hại cà phê ở cấp 4 (tức là trên 75% bộ
phận của cây có rệp) thì thiệt hại là 66,6% năng suất cà phê nhân (Phạm Thị
Vượng và CTV, 2004).
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thủy (2011), từ năm 2006 đến
2009 tại Đắk Lắk cho thấy mức độ phát sinh và mật độ của rệp sáp tua ngắn
Planococcus kraunhiae chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại cảnh, trong đó
yếu tố mưa là quan trọng nhất, ảnh hưởng rất lớn tới sự phát sinh phát triển của
rệp sáp bột tua ngắn.
CHƯƠNG II
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm, thời gian, vật liệu nghiên cứu và dụng cụ thí nghiệm
2.1.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm ngiên cứu: Viện Bảo vệ thực vật, Viện KH Nông lâm nghiệp
Tây Nguyên và các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai.
- Thời gian nghiên cứu: Từ 2009 đến 2011.
2.1.2. Vật liệu nghiên cứu
Các chủng nấm côn trùng được phân lập từ các nguồn khác nhau, các loài
rệp sáp, các vườn cà phê vối và các loại môi trường dùng trong nghiên cứu bao
gồm: Czapek-Dox, Sabouraud, MT1, MT2, MT3, N1 và N2
2.1.3. Dụng cụ thí nghiệm
Nồi hấp khử trùng, tủ sấy vô trùng, buồng cấy vô trùng, tủ lạnh, tủ định ôn,
máy lắc, đèn cực tím, kính hiển vi, buồng đếm hồng cầu, pocan, hóa chất các loại,
máy cất nước, máy ảnh, cốc thuỷ tinh, ống nghiệm, pipet, đĩa petri, que cấy, bình
tam giác, phễu, cối sứ, đũa thuỷ tinh, bông, giấy thấm, dụng cụ phun thuốc.
8
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu thành phần rệp sáp và diễn biến tỷ lệ cành cà phê bị rệp sáp
hại tại Tây Nguyên
- Thu thập và tuyển chọn các chủng nấm có hoạt tính sinh học cao trong
phòng chống rệp sáp
- Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất chế phẩm sinh học phòng chống
rệp sáp hại cà phê
- Khảo nghiệm chế phẩm và xây dựng mô hình đánh giá hiệu quả phòng
chống rệp sáp hại cà phê
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu thành phần rệp sáp và diễn biến tỷ lệ cành cà phê bị rệp sáp
hại tại Tây Nguyên
Theo phương pháp điều tra của viện BVTV (Phương pháp nghiên cứu
BVTV, tập 1 - 1997)
2.3.2. Điều tra thu thập, phân lập, giám định và định loại các chủng nấm ký sinh
- Thu thập nguồn rệp sáp bị nấm ký sinh tại một số vùng thuộc Tây
Nguyên như Đắk Lắk, Gia Lai theo phương pháp điều tra thu thập mẫu vật trên
đồng ruộng. Nấm ký sinh trên rệp sáp được tiến hành phân lập theo phương
pháp của Barnett và Hunter (1972) và theo phương pháp thường quy của Viện
Bảo vệ thực vật. Giám định theo phương pháp hình thái học kết hợp với giải
trình tự gene (Lawrence , 1997).
-Nghiên cứu khả năng phát triển của các chủng nấm ở các mức nhiệt độ
khác nhau: Các chủng nấm được cấy trên môi trường N1 trong đĩa Petri, mỗi
chủng cấy 100 đĩa, cấy 1 điểm ở chính giữa đĩa, đặt ở các mức nhiệt độ 15; 20;
25; 30 và 350C. Tiến hành theo dõi sự phát triển của khuẩn lạc thông qua việc đo
đường kính khuẩn lạc ở 1; 3; 5; 7; 10; 15 ngày sau cấy.
- Đánh giá độc lực của các chủng nấm theo phương pháp đánh giá sơ
tuyển bằng phản ứng enzyme ngoại bào trên các cơ chất chitine, lipid, cenllulose
và glucose. Sau đó lựa chọn chủng nấm bằng phương pháp đánh giá hiệu lực
9
trên cơ thể rệp sáp.
2.3.3. Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất chế phẩm sinh học phòng
chống rệp sáp hại cà phê
Quy trình lên men xốp: Tiến hành thí nghiệm trên 5 công thức giá thể
nuôi cấy khác nhau: CT1: Giá thể gạo: 100%; CT2: Giá thể gạo + Ngô: 50 – 50;
CT3: Giá thể ngô: 100%; CT4: Giá thể gạo + bã mía: 50 – 50; CT5: Giá thể bã
mía: 100%. Chỉ tiêu theo dõi: Số lượng bào tử/gr chế phẩm.
- Nghiên cứu một số dạng phụ gia thích hợp để tạo dạng và kéo dài thời
gian bảo quản chế phẩm. Lựa chọn và xác định 3 loại phụ gia để tiến hành thí
nghiệm, ký hiệu là PG1, PG2, PG3 (thành phần phụ gia là các chất trơ). Các
dạng phụ gia được phối trộn với bào tử tinh theo 3 tỷ lệ về trọng lượng như sau:
CT1: Bào tử nấm; CT2: Bào tử nấm/Phụ gia: 1/6; CT3: Bào tử nấm/Phụ gia:
1/9; CT4: Bào tử nấm/Phụ gia: 1/12. Tiến hành bảo quản ở điều kiện thường
(phòng thí nghiệm), sau mỗi tháng bảo quản lấy mẫu và kiểm tra chất lượng chế
phẩm sau các tháng bảo quản. Chỉ tiêu theo dõi: Số lượng bào tử nảy mầm.
- Nghiên cứu hỗn hợp chất bám dính khi sử dụng chế phẩm: Đánh giá hỗn
hợp chất bám dính trên môi trường nuôi cấy để biết được khả năng nảy mầm của
bào tử. Hỗn hợp nồng độ chất bám dính theo khuyến cáo của nhà sản xuất là 0,3
phần vạn, bổ sung vào môi trường và sau đó cấy dung dịch hòa từ chế phẩm nấm ở
nồng độ 10-5 vào các đĩa, đặt trong điều kiện định ôn 5 ngày và tiến hành đếm số
lượng bào tử nảy mầm. Chỉ tiêu theo dõi: Số lượng bào tử nảy mầm.
2.3.4. Khảo nghiệm chế phẩm và xây dựng mô hình đánh giá hiệu quả phòng
chống rệp sáp hại cà phê
2.3.4.1. Đánh giá hiệu lực của chế phẩm trong phòng thí nghiệm
Đánh giá hiệu lực của các chế phẩm nấm trong phòng thí nghiệm, nhà
lưới theo Tiêu chuẩn 10 TCN (216 -2003): Quy phạm khảo nghiệm hiệu lực
của phân bón hoặc chế phẩm vi sinh đối với cây trồng. Mỗi công thức thí
nghiệm nhắc lại 3 lần, mỗi lần nhắc lại 50 cá thể rệp. Pha 3 nồng độ dịch phun
cho 3 công thức: CT1: 10 gr chế phẩm/1 lít nước; CT2: 5 gr chế phẩm/1 lít
10
nước; CT3: 2,5 gr chế phẩm/1 lít nước. Bổ sung chất bám dính ở nồng độ 0,3
phần vạn. Chỉ tiêu theo dõi: Số rệp chết sau phun 1; 3; 5; 7; 10; 14 ngày.
2.3.4.2. Đánh giá hiệu lực của chế phẩm nấm trong nhà lưới
Tiến hành thả rệp tuổi 1-2 lên cây, khống chế số lượng rệp thí nghiệm là 50
con/một cây. Nồng độ phun và chỉ tiêu theo dõi tương tự thử nghiệm trong
phòng.
2.3.4.3. Đánh giá hiệu lực của chế phẩm nấm trên đồng ruộng
* Thử nghiệm ngoài đồng ruộng diện hẹp:
Được tiến hành với 2 loại chế phẩm nấm, mỗi loại nấm tiến hành trên 3
nồng độ (như trên). Mỗi thí nghiệm được bố trí 3 công thức, mỗi công thức 5
cây cà phê nhắc lại 3 lần. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu
nhiên. Theo dõi hiệu lực của thuốc sau 1, 3, 5, 7, 10, 14 ngày phun thuốc
* Thử nghiệm ngoài đồng ruộng diện rộng: Công thức thí nghiệm: Công
thức 1: Phun chế phẩm BIOFUN1; Công thức 2: Phun chế phẩm BIOFUN 2;
Đối chứng: Phun nước lã.
Phương pháp tiến hành: Trên vườn cà phê trong thời kỳ kinh doanh, kích
thước ô thí nghiệm: 300 m2, thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên.
Các chỉ tiêu theo dõi: Tính tỷ lệ cành bị nhiễm rệp.
2.3.4.4. Xây dựng mô ứng dụng chế phẩm phòng trừ rệp sáp cà phê trên đồng
ruộng
* Lựa chọn xây dựng mô hình : Lựa chọn vùng trồng cà phê trọng điểm
của khu vực Tây Nguyên, vùng bị hại do rệp sáp nghiêm trọng nhất trong các
năm qua. Địa điểm xây dựng mô hình tại Công ty Cà phê tháng 10 – huyện
Krông Pắk – tỉnh Đắk Lắk. Diện tích mô hình 3ha và diện tích đối chứng là 3ha.
Phun chế phẩm vào các cao điểm của rệp sáp trong mô hình.
Chỉ tiêu đánh giá: Tỷ lệ cành bị nhiễm rệp.
Các phương pháp x ử lý số liệu
11
1. Xử lý thống kê bằng chương trình IRRISTAT và SAS.
2. Hiệu lực của chế phẩm được hiệu đính theo công thức ABBOTT ( đối với
thí nghiệm trong phòng và nhà lưới ) và theo công thức Henderson- tilton (đối
với thí nghiệm ngoài đồng).
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần và diễn biến tỷ lệ cành cà phê bị rệp sáp hại tại Tây
Nguyên năm 2009, 2010
3.1.1. Thành phần rệp sáp hại cà phê tại Tây Nguyên
Qua điều tra thu thập được 7 loài rệp sáp hại cà phê tại Đắk Lắk và Gia
Lai, thuộc 2 họ của bộ cánh đều là họ rệp sáp bột Pseudococcidae (5 loài), họ
rệp sáp mềm Coccidae (2 loài). Trong 7 loài rệp sáp đã xác định được, có 2 loài
là rệp sáp bột tua ngắn Planococcus kraunhiae Kuwana và loài rệp sáp mềm
xanh Coccus viridis Green là những loài có tần suất xuất hiện với mật độ cao và
ảnh hưởng lớn tới năng suất và chất lượng cà phê tại Đắk Lắk và Gia Lai. Từ kết
quả nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành các nghiên cứu tập trung vào 2 loài rệp
gây hại chính là rệp sáp bột tua ngắn và rệp sáp mềm xanh.
3.1.2. Diễn biến tỷ lệ cành cà phê bị một số loài rệp sáp chính hại tại Tây
Nguyên năm 2010
- Rệp sáp mềm xanh: Tỷ lệ cành cà phê bị nhiễm tại Buôn Ma Thuột qua
các kỳ điều tra cho thấy trong năm có 2 cao điểm là trung tuần tháng 3 và đợt 2
từ tháng 8 đến tháng 9 tương ứng với tỷ lệ cành bị nhiễm ở vườn kiến thiết cơ
bản đợt 1 là 78,89, đợt 2 là 68,89. Vườn kinh doanh đợt 1 là 13,33%, đợt 2 là
20,33%. Tại Cưkuin cũng xuất hiện 2 cao điểm tỷ lệ cành bị nhiễm vào trung
tuần tháng 3 đến tháng 4 và đợt 2 vào trung tuần tháng 8 đến cuối tháng 9.
Trong đó tỷ lệ cành bị nhiễm cao nhất tại vườn kiến thiết cơ bản lên đến 70,11%
và ở vườn kinh doanh là 26,66%. Tại Krông Pắk tỷ lệ cành bị nhiễm có thấp hơn
ở vùng Buôn Ma Thuột và Cưkuin, tuy nhiên thời điểm nhiễm cao nhất vẫn lên
12
đến 53,33% ở vườn kiến thiết cơ bản và 16,7% ở vườn kinh doanh. Tại Chư Sê
– Gia Lai, tỷ lệ nhiễm rệp sáp mềm xanh thấp hơn hẳn các huyện trên, nhưng
cũng xuất hiện 2 cao điểm vào tháng 3 và tháng 8.
- Rệp sáp bột xuất hiện và gây hại cục bộ tại một số vườn ở thời kỳ đầu vụ
khi cây ra hoa và ở giai đoạn quả non. Tại Buôn Ma Thuột rệp sáp bột xuất hiện
từ đầu vụ và hại kéo dài tới trung tuần tháng 11 tuy nhiên với tỷ lệ nhiễm không
cao. Các vùng khác sau thời điểm rệp xuất hiện vào đầu năm cho tới gian đoạn
quả non sau đó mật độ giảm xuống và đến tháng 7-8 tại một số vườn lại phát
sinh cục bộ.
Tóm lại: Thông qua quá trình điều tra diễn biến tỷ lệ cành bị nhiễm rệp
sáp mềm xanh và rệp sáp bột, chúng tôi nhận thấy trên đồng ruộng chúng xuất
hiện 2 cao điểm trong năm: Đợt 1 vào tháng 3 đến tháng 4 và đợt 2 vào tháng 8
đến tháng 9. Kết quả này phù hợp với các kết quả nghiên cứu của các tác giả
khác như Trần Kim Loang (2002), Võ Chấp (2003), Nguyễn Thị Thủy (2011).
3.2. Thu thập và tuyển chọn các chủng nấm có hoạt tính sinh học cao trong
phòng chống rệp sáp hại cà phê
3.2.1. Thu thập, phân lập và giám định các chủng nấm ký sinh trên sâu hại
- Diễn biến về tỷ lệ nấm ký sinh tự nhiên trên đồng ruộng: Qua kết quả
điều tra cho thấy tỷ lệ nấm ký sinh trên rệp sáp mềm xanh ngoài đồng ruộng rất
cao. Diễn biến của nấm ký sinh trong năm trên đồng ruộng phụ thuộc nhiều vào
ẩm độ, đặc biệt sau những cơn mưa kéo dài ngày thì tỷ lệ nấm tăng đột biến.
Trong điều kiện thời tiết từ tháng 1 đến tháng 3, tỷ lệ nấm ký sinh trên đồng
ruộng có thấp hơn, sau đó từ tháng 4 tỷ lệ này tăng lên, tuy nhiên có những đợt
giảm xuống do thời tiết nhiều ngày không mưa. Tỷ lệ rệp bị nấm ký sinh đạt cao
nhất ngoài tự nhiên là 67,22 vào cuối tháng 8 đầu tháng 9.
Thu thập mẫu rệp sáp bị nấm ký sinh ngoài tự nhiên, phân lập và giám
định các loài nấm bằng hình thái học và giải trình tự gene, kết quả về thành phần
các loài nấm ký sinh trên rệp sáp hại cà phê dược trình bày trong bảng 3.1.
13
Bảng 3.1. Thành phần các loài nấm ký sinh trên rệp sáp hại cà phê
(năm 2009 – 2011)
TT Loài nấm
Ký hiệu
chủng
Ký chủ
Địa điểm
thu
1 Metarhizium anisopliae
MR1 Rệp sáp bột Đắk Lắk
MR2 Rệp sáp bột Đắk Lắk
MR3 Rệp sáp bột Sơn La
MR4 Rệp sáp bột Đắk Lắk
MR6 Rệp sáp mềm xanh Nghệ An
MR7 Rệp sáp bột Đắk Lắk
MR8 Rệp sáp bột Gia Lai
MR9 Rệp sáp bột Gia Lai
2
Beauveria bassiana
BR1 Rệp sáp mềm xanh Sơn La
BR2 Rệp sáp bột Đắk Lắk
BR3 Rệp sáp bột Nghệ An
BR4 Rệp sáp bột Nghệ An
BR5 Rệp sáp bột Đắk Lắk
BR6 Rệp sáp bột Nghệ An
BR8 Rệp sáp mềm xanh Đắk Lắk
BR9 Rệp sáp bột Đắk Lắk
BR11 Rệp sáp bột Hà Nội
BR14 Rệp sáp bột Sơn La
3
Cephalosporium lanoso-
niveum
BR12 Rệp sáp mềm xanh Đắk Lắk
4 Cordyceps nutans BR7 Rệp sáp bột Đắk Lắk
Kết quả đã thu thập được 4 loài nấm ký sinh trên rệp sáp hại cà phê, trong
đó loài Metarhizium anisopliae thu được 8 chủng, loài Beauveria bassiana thu
được 10 chủng, loài Cephalosporium lanoso-niveum thu được 1 chủng và loài
Cordyceps nutans thu được 1 chủng. Như vậy, 2 loài nấm M. anisopliae và B.
14
bassiana là những loài có mức độ xuất hiện gây bệnh trên rệp sáp nhiều. Đây là
kết quả lần đầu tiên xác định về thành phần các loài nấm ký sinh trên rệp sáp hại
cà phê tại Việt Nam.
Cùng với kết kết quả thu thập, phân lập và giám định các mẫu vật thuộc
các loài sâu hại khác được thu thập bổ sung ở các vùng khác nhau đến năm 2011
đã thu thập được 25 chủng thuộc 6 loài nấm gồm: 9 chủng nấm Metarhizium
anisopliae trong đó 4 chủng từ Đắk Lắk, 2 chủng từ Gia Lai, 1 chủng từ Sơn La,
1 chủng từ Nghệ An và 1 chủng từ Hà Nội. 12 chủng Beauveria bassiana trong
đó 4 chủng từ Đắk Lắk, 4 chủng từ Nghệ An, 2 chủng từ Sơn La, 1 chủng từ Hà
Nội và 1 chủng từ Bắc Giang. 1 chủng Cordyceps nutans từ Đắk Lắk , 1 chủng
Cephalosporium lanosoniveum từ Đắk Lắk , 1 chủng Toxicocladosporium sp. và
1 chủng Paecilomyces cicadae từ Đắk Lắk.
3.2.2. Kết quả lựa chọn môi trường nuôi cấy nấm
Để xác định môi trường nuôi cấy nấm và nhân giống cấp 1 vừa đạt hiệu
quả kỹ thuật về khả năng phát triển và sinh lượng enzyme ngoại bào lớn nhất,
vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế. Qua thử nghiệm 5 loại môi trường khác nhau, đã
xác định được môi trường N1 là môi trường khả thi nhất dùng để tiến hành các
thí nghiệm và sản xuất giống cấp 1 trong quy trinh sản xuất chế phẩm.
3.2.3. Nghiên cứu khả năng phát triển của các chủng nấm ở các mức nhiệt độ
khác nhau
Tiến hành thí nghiệm khả năng phát triển của các chủng nấm ở các mức
nhiệt độ 15; 20; 25; 30 và 350C, ẩm độ 85%. Kết quả cho thấy các chủng nấm
phát triển thích hợp nhất ở mức nhiệt độ 25oC, hầu hết các chủng nấm phát triển
kém ở nhiệt độ 30oC. Khi so sánh đường kính khuẩn lạc của các chủng nấm BR
ở mức nhiệt độ thích hợp, chúng tôi nhận thấy các chủng có tốc độ phát triển
nhanh, kích thước khuẩn lạc lớn là BR5, BR10, BR12, BR13, BR15, BR16, đặc
biệt là 2 chủng BR15 và BR16 (đạt kích thước trên 70mm sau 15 ngày nuôi
cấy). Đây cũng là một trong các chỉ tiêu quan trọng khi tiến hành lựa chọn các
chủng nấm để sử dụng làm vật liệu sản xuất chế phẩm.
15
3.2.4. Đánh giá và tuyển chọn độc lực các chủng nấm côn trùng
- Đánh giá độc lực của các chủng nấm bằng enzyme ngoại bào
Đánh giá khả năng phân giải enzyme ngoại bào của các chủng nấm trên
các cơ chất chitine, cellulose, lipid và glucose của các chủng nấm BR được trình
bày trong bảng 3.2.
Bảng 3.2. Khả năng phân giải một số cơ chất của Enzyme ngoại bào
các chủng nấm BR sau 7 ngày nuôi cấy trên môi trường N1
(Viện BVTV, 2009 – 2011)
Chủng
Đường kính vòng phân giải trên các cơ chất (mm)
Chitine-T Chitine-C CMC Lipid Glucose
BR1 4,0i 5,0g 4,3g 0,0j 3,3h
BR2 9,3efg 9,6def 7,0ef 6,3hi 7,0fg
BR4 13,3d 13,8bc 9,0cd 12,3c 9,6de
BR5 15,3bc 16,0ab 10,6c 11,3cd 7,6ef
BR6 7,0h 8,0ef 5,6fg 5,0i 5,0gh
BR7 10,0ef 9,0ef 8,0de 10,6cde 8,0ef
BR8 13,6cd 13,6bc 14,0e 11,0cde 15,3a
BR9 10,6e 10,6de 10,6c 8,0fgh 10,6cd
BR10 8,6efgh 8,3ef 8,0de 6,3hi 8,6def
BR11 15,6b 15,3ab 14,6ab 15,0b 12,3bc
BR12 8,3fgh 7,0fg 9,0cd 8,8fgh 9,0def
BR13 17,6a 17,6a 16,0a 17,6a 13,3ab
BR14 7,6gh 7,6efg 6,3ef 6,3hi 7,3f
BR15 10,0ef 10,3de 10,3c 7,3gh 10,6cd
BR16 16,3a 12,0cd 9,3cd 9,6def 9,6de
CV % 7,5 10,8 7,6 10,0 9,8
Trên cơ chất chitine-T, chitine-C các chủng nấm BR có khả năng phân
giải tốt. Cho đường kính vòng phân giải đạt lớn nhất trên 2 loại cơ chất này là
chủng BR13 (đạt 17,6mm), đây cũng là chủng cho đường kính phân giải lớn trên
16
các cơ chất còn lại. Các chủng BR5, BR16, BR11 cũng là các chủng có đường
kính vòng phân giải lớn trên các cơ chất.
Đánh giá trên các chủng MR cho thấy: Các chủng MR1, MR3, MR4,
MR8 có khả năng phân giải tốt các cơ chất thí nghiệm.
Hỗn hợp nuôi cấy các chủng với nhau cho lượng enzyme ngoại bào nhỏ
hơn so với khi nuôi cấy riêng rẽ, từ đó cho thấy không thể nuôi cấy hỗn hợp để
tạo thành chế phẩm đa chủng.
- Độc lực của các chủng nấm trên rệp sáp
Sau thí nghiệm đánh giá độc lực của các chủng nấm bằng khả năng sinh
enzyme ngoại bào và thử độc lực trực tiếp trên cơ thể rệp sáp hại cà phê, chúng
tôi đã lựa chọn được 2 chủng nấm có hiệu lực cao nhất là MR4 và BR5 để tiến
hành nghiên cứu sản xuất chế phẩm cho phòng trừ rệp sáp.
3.2.5. Nghiên cứu các phương pháp bảo quản các chủng giống gốc
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của phương pháp bảo quản tới
chất lượng giống gốc (Viện BVTV, 2010 – 2011)
Chủng PP bảo quản
Số lượng bào tử sau các tháng bảo quản
(x108)
Ban
đầu
3
tháng
6
tháng
9
tháng
12
tháng
MR4
Thường (bt/ml) 2,23 1,79a 1,44a 0,90c 0,64c
Hút chân không (bt/ml) 2,02 1,88a 1,72a 1,62b 1,56b
Glyceryl (bt/ml) 2,03 1,73a 1,56a 1,71a 1,64a
CV % 14,2 21,9 1,6 1,3
BR5
Thường (bt/ml) 5,05 4,24b 4,04a 2,92c 1,74c
Hút chân không (bt/ml) 5,11 4,88a 4,44a 4,25b 4,17b
Glyceryl (bt/ml) 5,07 4,92a 4,52a 4,35a 4,23a
CV % 0,5 5,9 0,5 0,6
Ghi chú: Trong phạm vi cột của từng chủng nấm, các chữ cái a; b; c chỉ sự sai khác
ở độ tin cậy P<0,05.
17
Từ các thí nghiệm nghiên cứu phương pháp bảo quản chủng giống gốc,
chúng tôi nhận thấy bảo quản bằng glyceryl và hút chân không là 2 phương pháp
bảo quản tốt, chủng giống gốc vẫn đảm bảo chất lượng tốt sau 12 tháng bảo
quản. 2 phương pháp này áp dụng để kéo dài thời gian bảo quản các chủng
giống gốc để phục vụ cho việc sản xuất chế phẩm.
3.3. Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất chế phẩm sinh học phòng
chống rệp sáp hại cà phê
3.3.1. Kết quả lựa chọn môi trường lên men xốp
Bảng 3.4. Khả năng sinh bào tử của chủng BR5 loài B. bassiana và chủng
MR4 loài M.anisopliae trên một số môi trường sản xuất (Viện BVTV, 2010)
Chủng
nấm
Mật độ bào tử (x109/gr)
LSD
5%
CV %
Gạo
Gạo +
Ngô(50:50)
Gạo + Bã
mía(50:50)
Ngô Bã mía
BR5 3,36a 2,27b 3,10a 3,16a 1,17c 0,51 14,1
MR4 1,89a 1,70a 1,54ab 1,40b 0,89c 0,32 16,9
Thông qua thí nghiệm trên chúng tôi nhân thấy: Bã mía là vật liệu có thể
sử dụng để sản xuất chế phẩm, đặc biệt trong công thức hỗn hợp giữa gạo và bã
mía theo tỷ lệ 50:50 thì nấm phát triển tương đối tốt và đạt hàm lượng bào tử đối
với nấm BR5 là 3,10 x 109 bào tử/gr, nấm MR4 là 1,54 x 109 bào tử/gr. Tuy
nhiên khi sản phẩm đem vào tách triết bào tử tinh và phun ngoài đồng ruộng gặp
khó khăn vì khi giá thể là bã mía sấy khô, chúng sẽ gẫy vụn tăm mía ra và làm
tắc mặt sàng của máy tách bào tử và làm tắc vòi của bình phun thuốc. Giá thể tốt
nhất cho việc tách triết bào tử tinh và ứng dụng phun trên đồng ruộng là gạo.
3.3.2. Nghiên cứu một số dạng phụ gia thích hợp để tạo dạng và kéo dài thời
gian bảo quản chế phẩm
Sau khi tách chiết bào tử nấm, chúng tôi tiến hành phối trộn với 3 loại phụ
gia là PG1, PG2 và PG3 nhằm kéo dài thời hạn bảo quản chế phẩm. Sau mỗi
tháng bảo quản, tiến hành kiểm tra số lượng bào tử còn tồn tại trong sản phẩm.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, bào tử tinh khi phối trộn với phụ gia 1 cho thời
18
gian bảo quản kéo dài nhất, trước khi đem vào bảo quản hàm lượng bào tử sống
là 0,47x1012 bào tử/gr chế phẩm, sau 12 tháng bảo quản hàm lượng bào tử sống
vẫn đạt 0,22x1012 bào tử/gr. dạng phụ gia 2 và 3 khi phối trộn thời gian bảo
quản kém hơn. Bào tử tinh nguyên chất chỉ bảo quản được trong 6 tháng. Kết
quả này trình bày trong bảng 3.5.
Bảng 3.5. Chất lượng chế phẩm tinh sau các tháng bảo quản
khi phối trộn với các dạng phụ gia khác nhau
(Viện BVTV, 2010 – 2011)
Thời gian
bảo quản
Số bào tử sống/gr chế phẩm (x1012)
BBT BTT+PG1 BTT+PG2 BTT+PG3
Ban đầu 4,79a 0,47a 0,48a 0,47a
1 tháng 4,65a 0,46a 0,45b 0,44ab
2 tháng 3,98b 0,44b 0,43c 0,42abc
3 tháng 3,31c 0,42b 0,41d 0,37bcd
4 tháng 2,86d 0,40c 0,38e 0,34cd
5 tháng 1,73e 0,38d 0,36f 0,34cd
6 tháng 0,33f 0,37d 0,32g 0,30d
7 tháng 0g 0,34e 0,28h 0,11e
8 tháng 0g 0,31f 0,23i 0,09ef
9 tháng 0g 0,28g 0,18j 0f
10 tháng 0g 0,26h 0k 0f
11 tháng 0g 0,24i 0k 0f
12 tháng 0g 0,22j 0k 0f
CV% 7,9 2,9 3,1 3,5
Sau khi xác định được dạng phụ gia 1 là tốt nhất, chúng tôi tiến hành thí
nghiệm phối trộn Bào tử tinh/phụ gia ở 3 tỷ lệ khác nhau là 1/6; 1/9 và 1/12. Kết
quả thí nghiệm cho thấy: Phối trộn bào tử tinh với phụ gia 1 ở tỷ lệ 1/9 hoặc
1/12 sẽ kéo dài được thời gian bảo quản chế phẩm.
3.3.3. Nghiên cứu hỗn hợp chất bám dính khi sử dụng chế phẩm
Thí nghiệm hỗn hợp chế phẩm với các chất bám dính nhằm tìm hiểu ảnh
19
hưởng của chất bám dính đến sự nảy mầm của bào tử nấm cho thấy hỗn hợp chế
BIOFUN 1 (MR4) với Tween hoặc nước rửa chén Sunligh cho hiệu quả cao
nhất và đạt hàm lượng 4,03 x 109 và 4,02 x 109 số bào tử nảy mầm so với 4,04 x
109 bào tử nảy mầm ở công thức không hỗn hợp với bám dính, chế phẩm
BIOFUN 2 (BR5) với Tween hoặc nước rửa chén Sunligh đạt hàm lượng bào tử
nảy mầm là 5,27 x 109 và 5,34 x 109 số bào tử nảy mầm/gr sản phẩm so với 5,57
x 109 số bào tử nảy mầm ở công thức không hỗn hợp với chất bám dính.
3.3.4. Xây dựng quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm
Qua các kết quả thí nghiệm về công nghệ sản xuất, chúng tôi đã xây dựng
quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm nấm để phòng chống rệp sáp hại cà phê.
3.4. Khảo nghiệm chế phẩm và xây dựng mô hình đánh giá hiệu quả phòng
chống rệp sáp hại cà phê
3.4.1. Đánh giá hiệu lực của chế phẩm trong phòng thí nghiệm
Tiến hành đánh giá hiệu lực của 2 loại chế phẩm là BIOFUN 1 (MR4) và
BIOFUN 2 (BR5) trên 2 loài rệp là rệp sáp mềm xanh và rệp sáp bột tua ngắn tại
2 địa điểm là Viện BVTV và Viện KHNLN Tây Nguyên, kết quả thí nghiệm cho
thấy: Trong điều kiện phòng thí nghiệm tại Viện BVTV, hiệu lực trừ các loài rệp
sáp của chế phẩm đạt cao nhất là 71,8%. Tại Đắk Lắk, hiệu quả phòng trừ rệp
sáp đạt cao nhất vào tháng 9 (24,40C, ẩm độ 87%) là 77,78% đối với chế phẩm
BIOFUN 2 trên rệp sáp bột tua ngắn, chế phẩm BIOFUN 1 là 74,45% đối với
rệp sáp thân gốc.
3.4.2. Đánh giá hiệu lực của chế phẩm trong nhà lưới
Các thí nghiệm đánh giá chế phẩm trên rệp sáp trong nhà lưới tại Viện
Bảo vệ thực vật và nhà lưới tại Tây Nguyên. Trong điều kiện nhà lưới tại Viện
BVTV, hiệu lực của chế phẩm BIOFUN 2 trừ rệp mềm xanh đạt cao nhất 68,5%
sau 14 ngày xử phun. Chế phẩm BIOFUN 1 đạt 67,2%.
Trong điều kiện nhà lưới tại Tây Nguyên, chế phẩm BIOFUN 1 và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bvtv_ttla_pham_van_nha_1912_2005322.pdf