Có 5 yếu tố chính ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong
TNLS tại Việt Nam, được xếp loại theo mức độ ảnh hưởng từ mạnh
nhất đến yếu nhất theo giá trị của hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta như
sau: (1) Quy định, quy trình xử lý báo cáo (0,44); (2) Biểu mẫu báo
cáo (0,42); (3) Kiến thức và thái độ của nghiên cứu viên (0,27); (4)
Yếu tố khác (phản hồi, quá tải công việc chuyên môn) (0,12); (5)
Người bệnh tham gia nghiên cứu (0,10).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 25 trang
25 trang | 
Chia sẻ: honganh20 | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu thực trạng và giải pháp cải thiện hoạt động Báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng trong thử nghiệm lâm sàng thuốc tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cố bất lợi nghiêm trọng trong thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược. 
- Bước đầu đánh giá hiệu quả của một số giải pháp cải thiện 
hoạt động báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng trong thử nghiệm lâm 
sàng thuốc hóa dược giai đoạn năm 2015 - 2017. 
3 
3. Những đóng góp mới của luận án 
Luận án đã phân tích thực trạng, xác định các yếu tố ảnh hưởng, 
đề xuất các biện pháp can thiệp, đánh giá tác động của một số can 
thiệp cải thiện hoạt động báo cáo SAE trong thử nghiệm lâm sàng 
thuốc hóa dược tại Việt Nam. Kết quả cho thấy: 
- Số lượng, chất lượng và việc tuân thủ thời gian báo cáo SAE 
của các thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược trong năm 2014 còn 
nhiều hạn chế. 
- Có một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động báo cáo SAE trong 
thử nghiệm lâm sàng thuốc hóa dược tại Việt Nam như: chưa thành 
lập đơn vị nghiên cứu lâm sàng chuyên trách, các quy định báo cáo 
chưa bao phủ tình huống thực tế, thời hạn nộp báo cáo ngắn, quy 
trình làm báo cáo và gửi báo cáo còn phức tạp, biểu mẫu báo cáo 
chưa thống nhất, kiến thức và sự chưa chuyên nghiệp của nghiên cứu 
viên trong báo cáo SAE, đối tượng tham gia nghiên cứu chưa hiểu 
hết trách nhiệm khi có SAE và một số yếu tố khác. 
- Can thiệp thông qua các văn bản quản lý, quy trình, biểu mẫu, 
đào tạo, tập huấn... của Cơ quan quản lý đã giúp cải thiện rõ rệt số 
lượng, chất lượng và mức độ tuân thủ thời hạn báo cáo SAE. 
4. Ý nghĩa của luận án 
Trong nghiên cứu này, lần đầu tiên hoạt động báo cáo SAE tại 
Việt Nam được nghiên cứu một cách toàn diện, từ đánh giá thực 
trạng, tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá tác động can thiệp với 
phương pháp nghiên cứu kết hợp chặt chẽ giữa định tính và định 
lượng. Đây là một trong số rất ít các nghiên cứu trên Thế giới tiếp 
cận và khảo sát trực tiếp trên các dữ liệu gốc/nguồn của TNLS thuốc 
hóa dược (các báo cáo SAE, hồ sơ bệnh án, kết quả xét nghiệm..), 
cũng là một trong số ít các nghiên cứu trên Thế giới đã kết hợp giữa 
4 
phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để giải thích thực 
trạng báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược và đã đề xuất cho Cơ 
quan quản lý triển khai các giải pháp nhằm góp phần cải thiện hoạt 
động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược tại các bệnh viện 
triển khai TNLS. 
5. Bố cục của luận án 
Luận án nghiên cứu có tất cả 147 trang, bao gồm: Đặt vấn đề 
(03 trang), Chương 1: Tổng quan (36 trang), Chương 2: Đối tượng và 
Phương pháp nghiên cứu (26 trang), Chương 3: Kết quả nghiên cứu 
(42 trang), Chương 4: Bàn luận (35 trang), Kết luận và Đề xuất (5 
trang). Luận án có 107 tài liệu tham khảo trong đó có 15 tài liệu tiếng 
Việt, 89 tài liệu tiếng Anh và 3 tài liệu từ các website. Ngoài ra, luận 
án cũng có 38 bảng, 11 hình và 10 phụ lục kèm theo. 
5 
B. NỘI DUNG CỦA LUẬN ÁN 
Chương 1. TỔNG QUAN 
1.1 Khái niệm biến cố bất lợi và biến cố bất lợi nghiêm trọng 
[5], [23-25], [49], [50] 
Biến cố bất lợi (adverse event - AE) là sự việc hoặc tình trạng y 
khoa bao gồm bất kỳ dấu hiệu, triệu chứng, tình trạng bệnh tật hoặc 
kết quả xét nghiệm có chiều hướng xấu xảy ra trong quá trình, thời 
gian thử thuốc trên lâm sàng ảnh hưởng đến đối tượng tham gia NC, 
có hoặc không có liên quan đến thuốc thử lâm sàng. 
Biến cố bất lợi nghiêm trọng (serious adverse event - SAE) là 
AE có thể dẫn tới một trong các tình huống sau đây trên đối tượng 
tham gia nghiên cứu thử thuốc trên lâm sàng: a) Tử vong; b) Đe dọa 
tính mạng; c) Phải nhập viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện; d) Tàn 
tật, thương tật vĩnh viễn hoặc nghiêm trọng; đ) Dị tật bẩm sinh hoặc 
dị dạng cho thai nhi của đối tượng nghiên cứu; e) Tình huống mà 
phải có can thiệp y khoa phù hợp để ngăn chặn hoặc phòng tránh một 
trong những tình huống a, b, c, d, đ hoặc các tình huống khác có ý 
nghĩa về mặt y khoa theo nhận định của NCV tại điểm nghiên cứu. 
1.2 Thực trạng theo dõi, ghi nhận và báo cáo SAE trong TNLS 
trên thế giới 
1.2.1. Báo cáo thiếu SAE trong TNLS 
Theo Ioanidis, một số vấn đề liên quan đến ghi nhận và báo cáo 
thiếu SAE trong TNLS hiện nay gồm có: 1) thiết kế nghiên cứu bỏ 
qua hoặc đánh giá thấp giá trị của theo dõi và báo cáo SAE; 2) việc 
thu thập các AE trong quá trình nghiên cứu không được quan tâm; 3) 
có ghi nhận SAE nhưng cố tình báo cáo sai nhằm che giấu các minh 
chứng về nguy hại của thuốc [52], [53], [64]. 
1.2.2. Chất lượng báo cáo SAE còn hạn chế 
6 
Tổng quan tài liệu của chúng tôi cho thấy theo các ghi nhận gần 
đây, chất lượng báo cáo SAE trong TNLS chưa thực sự đạt yêu cầu 
[10], [44], [46], [62], [70], [73], [94]. 
Năm 2016, Crepin và cộng sự đã công bố nghiên cứu đánh giá 
chất lượng báo cáo SAE trong các TNLS. Đây là một nghiên cứu mô 
tả cắt ngang để đánh giá tính hoàn thiện và chính xác của các thông 
tin thu thập trong các báo cáo SAE dựa trên một mẫu nghiên cứu 
gồm 247 báo cáo SAE trong 10 TNLS được triển khai tại Bệnh viện 
đại học Limoges. Kết quả cho thấy nghiên cứu viên và người bệnh 
không được xác định trong 3% báo cáo, sản phẩm nghiên cứu không 
được xác định trong 11,2% báo cáo, mức độ nghiêm trọng của SAE 
không được xác định trong 3,6% báo cáo, đánh giá quan hệ nhân quả 
thiếu sót trong 9,3% và 15% báo cáo cho thấy thông tin về SAE 
không chính xác. Đặc biệt, 32,4% báo cáo không có đủ thông tin về 
xét nghiệm, chẩn đoán và tiền sử SAE để phục vụ cho việc thẩm 
định quan hệ nhân quả. Bên cạnh đó, ngày khởi phát không có trong 
5,7% cáo báo cáo và các kết quả/kết cục của người bệnh sau SAE 
không có thông tin trong 12,1% báo cáo [26]. 
1.2.3. Chậm trễ trong hoàn thiện và gửi báo cáo SAE 
Mặc dù chưa có nhiều công bố liên quan đến tuân thủ thời hạn gửi 
báo cáo SAE, một số phân tích đã chỉ ra rằng đáp ứng thời hạn gửi báo 
cáo SAE là thách thức đối với tất cả các NCV tham gia TNLS. Như đã 
đề cập ở trên, yêu cầu quan trọng, căn bản nhất của báo cáo SAE là đầy 
đủ và chính xác về thông tin. Do đó, quy trình phát hiện, ghi nhận thẩm 
định, hoàn thiện thông tin của báo cáo SAE thường phức tạp, thông qua 
nhiều khâu để thu thập ý kiến chuyên môn khác nhau [58]. 
1.2.4. Theo dõi và ghi nhận SAE không đồng đều giữa các điểm 
nghiên cứu và người báo cáo 
7 
Nghiên cứu của Ioanidis chỉ ra rằng chất lượng và số lượng báo 
cáo khác biệt có ý nghĩa thống kê tuỳ theo loại thiết kế, bệnh thử 
nghiệm, thuốc thử nghiệm và cách thức thực hiện và triển khai 
nghiên cứu. Khi so sánh về báo cáo an toàn trong các TNLS của 6 
nhóm thuốc (với tổng số 192 TNLS), kết quả nghiên cứu cho thấy sự 
dị biệt có ý nghĩa thống kê trên tất cả các chỉ tiêu đánh giá [53]. 
1.2.5. Thiếu minh bạch thông tin về SAE trong công bố kết quả TNLS 
Tổng quan tài liệu của chúng tôi cho thấy các công bố kết quả 
TNLS thường thiếu minh bạch thông tin về SAE. Điều này có thể do 
sai số xuất bản khi tác giả che giấu một số thông tin đã biết về vấn đề 
an toàn hoặc do về bản chất, việc theo dõi và ghi nhận SAE trong 
TNLS chưa được thực hiện bài bản [31], [53], [74]. 
1.3. Thực trạng theo dõi, ghi nhận và báo cáo SAE trong TNLS 
tại Việt Nam 
Năm 2014, các tác giả tại Cục KHCN&ĐT và Trung tâm Quốc 
gia về thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc thực 
hiện một nghiên cứu hồi cứu, khảo sát 168 báo cáo SAE được gửi 
đến Cục KHCN&ĐT giai đoạn 2011-2013. Kết quả cho thấy trong số 
168 báo cáo SAE ghi nhận từ 22/132 TNLS có 42,3% báo cáo được 
gửi đúng thời hạn, 16,7% báo cáo có chất lượng chưa tốt. Đây là 
nghiên cứu duy nhất đánh giá báo cáo SAE trong TNLS tại Việt 
Nam tính đến thời điểm thực hiện luận án. Trong nghiên cứu số 
lượng báo cáo đưa vào phân tích còn ít trong một khoảng thời gian 
quan sát dài (02 năm). Do đó, dữ liệu thống kê có sự phân tán, khó 
nhìn ra các xu hướng, đồng thời mới chỉ dừng ở mức khảo sát sơ bộ 
các báo cáo về thời gian, chất lượng chứ chưa đi sâu tìm hiểu thực 
trạng báo cáo thiếu, thực trạng hoạt động báo cáo SAE tại các bệnh 
8 
viện hay tìm hiểu các nguyên nhân ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo 
SAE trong TNLS tại Việt Nam [10]. 
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong TNLS 
Tổng quan tài liệu trên thế giới cho thấy các nhóm yếu tố chính 
ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong TNLS bao gồm: 
- Các yếu tố liên quan đến cơ quan quản lý; 
- Các yếu tố liên quan đến tổ chức nhận thử; 
- Các yếu tố liên quan đến các bên khác (người tham gia nghiên 
cứu, nhà tài trợ, tổ chức hỗ trợ nghiên cứu lâm sàng); 
- Các yếu tố khách quan do đặc điểm SAE và hệ thống y tế. 
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 
- Toàn bộ báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược tại Việt 
Nam có ngày NCV ký báo cáo trong thời gian từ 1/1/2014 đến 
31/12/2017; 
- Các cá nhân có ít nhất 02 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực 
TNLS, đã thực hiện hoặc hỗ trợ thực hiện báo cáo SAE tại 15 bệnh 
viện triển khai TNLS thuốc hóa dược trong mẫu nghiên cứu. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: được trình bày trong Hình 2.4 
9 
Hình 2.4 Sơ đồ thiết kế nghiên cứu 
10 
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu 
Bảng 2.9 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu của các nghiên cứu 
trong phạm vi đề tài 
Giai 
đoạn 
Ký 
hiệu 
Tên nghiên cứu 
Cỡ mẫu, phương pháp chọn 
mẫu 
K
h
ảo
 s
át
 t
h
ự
c 
tr
ạn
g
 h
o
ạt
 đ
ộ
n
g
 b
áo
 c
áo
 S
A
E
 t
ro
n
g
 T
N
L
S
 t
h
u
ố
c 
h
ó
a 
d
ư
ợ
c 
tr
ư
ớ
c 
k
h
i 
tr
iể
n
 k
h
ai
 c
an
 t
h
iệ
p
 (
n
ăm
 2
0
1
4
) 
1.1 Khảo sát thực trạng 
về số lượng, cơ 
cấu, chất lượng và 
việc tuân thủ thời 
hạn của hoạt động 
báo cáo SAE trong 
TNLS thuốc hóa 
dược 
Toàn bộ báo cáo SAE trong 
TNLS về thuốc hóa dược tại 
Việt Nam có ngày ký trong 
thời gian từ 1/1/2014 tới hết 
31/12/2014. 
Phương pháp: Thu thập dữ liệu 
toàn bộ quần thể nghiên cứu. 
Cỡ mẫu: 301 báo cáo 
1.2 Khảo sát thực 
trạng công tác 
quản lý thực hành 
báo cáo SAE trong 
TNLS thuốc hóa 
dược tại các BV 
triển khai TNLS 
Toàn bộ BV thực hiện >5TNLS 
và thu dung >30 bệnh nhân 
(giai đoạn 2013-2014) và chấp 
thuận tham gia khảo sát 
Phương pháp: Thu thập dữ liệu 
toàn bộ quần thể nghiên cứu 
đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn. 
Cỡ mẫu: 13 BV triển khai 
TNLS thuốc hóa dược 
1.3 Khảo sát thực 
trạng báo cáo thiếu 
SAE trong TNLS 
thuốc hóa dược tại 
các BV triển khai 
TNLS 
Toàn bộ BV thực hiện >5TNLS 
và thu dung >30 BN (giai đoạn 
2013-2014) và chấp thuận tham 
gia khảo sát 
Phương pháp: Thu thập dữ liệu 
toàn bộ quần thể nghiên cứu 
đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn. 
Cỡ mẫu: 15 BV triển khai 
TNLS thuốc hóa dược 
Nghiên 
cứu 
các 
yếu tố 
ảnh 
2.1 Nghiên cứu định 
tính về các yếu tố 
ảnh hưởng tới 
hoạt động báo cáo 
SAE trong TNLS 
Tối thiểu 15 NCV, cán bộ quản 
lý TNLS tham gia vào các 
TNLS thuốc hóa dược tại các 
BV nghiên cứu. 
Phương pháp: Chọn mẫu thuận 
11 
hưởng 
tới 
hoạt 
động 
báo 
cáo 
SAE 
trong 
TNLS 
thuốc 
hóa 
dược 
thuốc hóa dược tiện thông qua giới thiệu của 
cán bộ quản lý TNLS tại BV 
Cỡ mẫu: 15 NCV 
2.2 Phân tích các yếu 
tố ảnh hưởng tới 
hoạt động báo cáo 
SAE trong TNLS 
thuốc hóa dược 
Tối thiểu 180 NCV tham gia 
vào các TNLS thuốc tại các BV 
nghiên cứu (kích thước cỡ mẫu 
tối thiểu gấp 5 lần tổng số biến 
quan sát. Nghiên cứu này sử 
dụng 30 biến số quan sát, với 
tỷ lệ hao hụt 20%, kích thước 
mẫu tối thiểu là 180 NCV) 
[45]. 
Phương pháp: Chọn mẫu thuận 
tiện thông qua giới thiệu của 
cán bộ quản lý TNLS tại BV 
Cỡ mẫu: 215 NCV 
Đ
án
h
 g
iá
 s
au
 c
an
th
iệ
p
3.1 Bước đầu đánh giá 
tác động của một 
số giải pháp cải 
thiện hoạt động 
báo cáo SAE trong 
TNLS thuốc hóa 
dược (năm 2017 so 
với năm 2014) 
Toàn bộ báo cáo SAE trong 
TNLS về thuốc hóa dược tại 
Việt Nam có ngày ký trong 
thời gian từ 1/1/2017 tới hết 
31/12/2017. 
Phương pháp: Thu thập dữ liệu 
toàn bộ quần thể nghiên cứu 
Cỡ mẫu: 1,556 báo cáo SAE 
2.2.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 
- Nghiên cứu định tính xác định các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt 
động báo cáo SAE trong TNLS: sử dụng phần mềm Nvivo 11 hỗ trợ 
cho việc phân tích theo chủ đề. Kết quả được trực quan hóa thành mô 
hình. 
- Nghiên cứu định lượng các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động 
báo cáo SAE trong TNLS: sử dụng phần mềm SPSS (phiên bản 22). 
Những phân tích thống kê bao gồm: Phần trăm, trung vị, ý nghĩa 
thống kê, độ lệch chuẩn, hệ số Cronbach’s alpha, phân tích nhân tố 
12 
(EFA) và hệ số tương quan. Phân tích hồi quy đa nhân tố được sử 
dụng để nghiên cứu sự tương quan và kiểm tra mô hình. 
Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động báo cáo AE trong 
TNLS thuốc tại Việt Nam: để xác định các nhân tố đưa ra kiểm định 
có tác động đến hoạt động báo cáo SAE. Sau khi phân tích khám phá 
nhân tố, căn cứ dữ liệu thực tế đặt lại tên cho các nhân tố hình thành 
và điều chỉnh mô hình, giả thuyết ban đầu cho phù hợp thực tế. 
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố tới hoạt động báo 
cáo AE trong TNLS thuốc tại Việt Nam bằng xây dựng phương 
trình hồi quy đa biến. 
- Đánh giá tác động của một số giải pháp cải thiện hoạt động 
báo cáo SAE trong TNLS thuốc tại Việt Nam: 
+ Phân tích điểm thay đổi theo nguyên tắc phân đoạn nhị phân 
+ Phân tích chuỗi thời gian gián đoạn theo phương pháp hồi quy 
từng phần. 
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1 Thực trạng hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc tại 
Việt Nam năm 2014 
3.1.1. Số lượng báo cáo SAE trong TNLS trước khi triển khai can thiệp 
Bảng 3.13 Thông tin chung về báo cáo SAE năm 2014 
TT Chỉ số Số lượng 
1 Tổng số TNLS thuốc 96 
2 Số TNLS ghi nhận SAE 21 
3 Số lượng báo cáo SAE 301 
4 SL báo cáo trung bình/TNLS có báo cáo 14,3 
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong năm 2014, tổng số TNLS 
thuốc được triển khai là 96, trong đó 21 TNLS có báo cáo SAE 
13 
(chiếm tỷ lệ 21,9%). Trên tổng số 18 TCNT báo cáo SAE, số lượng 
báo cáo SAE ghi nhận được là 301, số lượng báo cáo trung bình 
trong một TNLS là 14,3. 
3.1.2. Chất lượng báo cáo SAE 
Bảng 3.17 Tính đầy đủ của báo cáo SAE trước khi can thiệp 
TT Nhóm thông tin 
Số lượng báo cáo 
đủ thông tin 
(n=301) 
% báo cáo 
đủ thông 
tin 
1 Hành chính 220 73,1 
2 Người báo cáo 249 82,7 
3 Đối tượng gặp SAE 73 24,2 
4 SAE 271 90,0 
5 Thuốc nghiên cứu 274 91,0 
Kết quả nghiên cứu cho thấy các thông tin hành chính, thông tin 
về người báo cáo, SAE và thuốc nghiên cứu tương đối đầy đủ 
(73,1%, 82,7%, 90,0% và 91,0% theo thứ tự). Tuy nhiên số lượng 
báo cáo đầy đủ thông tin về đối tượng gặp SAE (bao gồm cả thông 
tin về y khoa như tiền sử liên quan đến SAE trước đó) còn rất hạn 
chế (chỉ 24,2% báo cáo đủ thông tin). 
3.1.3. Tuân thủ về thời hạn báo cáo 
Bảng 3.18 Số lượng (tỷ lệ%) báo cáo SAE tuân thủ 
và không tuân thủ thời hạn báo cáo 
T
T 
Số lượng 
(n=301) 
Tỷ lệ 
1 Tuân thủ thời hạn 102 33,9 
2 Không tuân thủ thời hạn 22 7,3 
3 Không đủ thông tin xác định việc tuân thủ 177 58,8 
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số báo cáo thiếu thông tin về 
ngày phát hiện SAE, do đó không đủ thông tin để xác định việc tuân 
14 
thủ báo cáo (58,8%). Bên cạnh đó, tỷ lệ báo cáo tuân thủ thời hạn 
cũng đạt mức thấp (33,9%). 
3.1.4. Thực trạng công tác quản lý thực hành báo cáo SAE trong 
TNLS tại một số bệnh viện triển khai TNLS 
Trong thời gian thực hiện đề tài, có 13 bệnh viện đồng ý tham 
gia khảo sát về công tác quản lý thực hành báo cáo SAE trong 
TNLS. Kết quả khảo sát được trình bày trong hình 3.6. 
Hình 3.6 Đánh giá chung về 5 khía cạnh của hệ thống báo cáo SAE 
Kết quả nghiên cứu cho thấy ngoại trừ cơ sở vật chất nhân lực 
(điểm trung bình 76,9% so với hệ thống tiêu chuẩn) và quy định 
(57,7%), không có khía cạnh nào của hệ thống báo cáo SAE tại các 
bệnh viện triển khai TNLS trong mẫu nghiên cứu có điểm trung bình 
đạt >50%. Trong đó, các khía cạnh có điểm trung bình đặc biệt thấp 
bao gồm tổ chức quản lý (20,5%), quy trình chuẩn (24,4%) và chính 
sách (30,8%). Đặc biệt, các bệnh viện có CRU có điểm trung bình ở 
mọi khía cạnh đều cao hơn các bệnh viện không có CRU. 
3.1.5. Thực trạng báo cáo thiếu SAE tại một số bệnh viện triển 
khai TNLS 
Bảng 3.20 Thực trạng báo cáo thiếu SAE 
tại một số bệnh viện triển khai TNLS 
Mã Mặt bệnh triển Số lượng Số lượng Số Số 
15 
BV khai TNLS 
(ICD-10) 
TNLS 
đã tuyển 
bệnh 
(%) 
TNLS 
báo cáo 
SAE 
lượng 
SAE 
báo 
cáo 
lượng 
SAE 
báo cáo 
thiếu 
1 Đa dạng* 12 5 (41,7) 37 0 
2 Đa dạng 10 4 (40,0) 10 2 
3 
Bệnh nhiễm trùng 
và ký sinh trùng, 
bệnh hô hấp 
8 4 (50,0) 39 1 
4 Đa dạng 7 3 (42,9) 11 1 
5 
Bệnh nhiễm trùng 
và ký sinh trùng 
6 5 (83,3) 64 0 
6 
Bệnh hệ tuần 
hoàn 
6 1 (16,7) 4 1 
7 
Bệnh hệ tuần 
hoàn 
5 1 (20,0) 1 1 
8 U (U tân sinh) 4 3 (75,0) 4 3 
9 Bệnh hệ hô hấp 4 1 (25,0) 2 0 
10 U (U tân sinh) 4 3 (75,0) 4 1 
11 U (U tân sinh) 4 3 (75,0) 7 0 
12 U (U tân sinh) 3 0 (0,0) 0 0 
13 Bệnh tuần hoàn 3 3 (100,0) 27 15 
14 Bệnh hệ hô hấp 3 1 (33,3) 5 0 
15 
Bệnh nhiễm trùng 
và ký sinh trùng 3 0 (0,0) 0 1 
*: Có ≥ 3 mặt bệnh thử nghiệm theo phân loại chương bệnh của ICD-10 
Kết quả khảo sát tại bảng 3.20 cho thấy trong mẫu nghiên cứu, 8 
bệnh viện có tỷ lệ TNLS báo cáo SAE <50%. Đặc biệt, có hai bệnh 
viện hoàn toàn không có báo cáo SAE, trong đó một bệnh viện triển 
khai TNLS bệnh điều trị u tân sinh. Các bệnh viện triển khai nghiên 
16 
cứu thuốc điều trị bệnh mạn tính của hệ tuần hoàn và hô hấp thường 
có số lượng báo cáo SAE thấp (từ 1 đến 4 báo cáo). Số lượng báo 
cáo SAE cao và báo cáo thiếu SAE thấp ghi nhận tại các TCNT số 1 
và số 5. Đây đều là các bệnh viện đã thành lập CRU để quản lý hoạt 
động nghiên cứu TNLS. 
3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong 
TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam 
Có 5 yếu tố chính ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE trong 
TNLS tại Việt Nam, được xếp loại theo mức độ ảnh hưởng từ mạnh 
nhất đến yếu nhất theo giá trị của hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta như 
sau: (1) Quy định, quy trình xử lý báo cáo (0,44); (2) Biểu mẫu báo 
cáo (0,42); (3) Kiến thức và thái độ của nghiên cứu viên (0,27); (4) 
Yếu tố khác (phản hồi, quá tải công việc chuyên môn) (0,12); (5) 
Người bệnh tham gia nghiên cứu (0,10). 
3.3. Bước đầu đánh giá hiệu quả của một số giải pháp cải thiện 
hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược tại Việt 
Nam 
3.3.1. Một số giải pháp cải thiện hoạt động báo cáo biến cố bất lợi 
trong TNLS thuốc hóa dược do Cục KHCN&ĐT triển khai 
(1) Ban hành Quyết định số 62/QĐ-K2ĐT ngày 2/6/2017 của 
Cục KHCN&ĐT hướng dẫn báo cáo SAE trong TNLS thuốc, kèm 
biểu mẫu báo cáo sửa đổi; (2) Giám sát hỗ trợ kỹ thuật chuyên đề về 
báo cáo an toàn trong TNLS thuốc; (3) Xây dựng và triển khai 
chương trình đào tạo, tập huấn về báo cáo an toàn trong TNLS thuốc. 
17 
3.3.2. Bước đầu đánh giá hiệu quả của một số giải pháp cải thiện 
hoạt động báo cáo SAE trong TNLS thuốc hóa dược tại Việt 
Nam 
3.3.2.1. Thay đổi số lượng báo cáo SAE 
Bảng 3.32 Thông tin chung về báo cáo SAE năm 2014 và 2017 
TT Chỉ số 2014 2017 
1 Tổng số TNLS thuốc 96 115 
2 Số TNLS ghi nhận SAE 21 54 
3 Số lượng báo cáo SAE 301 1556 
4 SL báo cáo trung bình/TNLS có báo cáo 14,3 28,8 
Năm 2017, trong tổng số 115 TNLS, số lượng báo cáo SAE ghi 
nhận được là 1556 báo cáo (gấp 5,2 lần năm 2014). Trung bình mỗi 
TNLS ghi nhận được 28,8 báo cáo (gấp 2 lần năm 2014). 
3.3.2.2. Thay đổi về chất lượng báo cáo 
Sau khi triển khai can thiệp, chất lượng báo cáo cải thiện đáng kể 
ở các nhóm thông tin quan trọng liên quan đến đánh giá về tác động và 
xử trí SAE bao gồm thông tin về tượng gặp SAE (từ 24,2% báo cáo có 
đủ thông tin trong năm 2014 lên 98,6% báo cáo có đủ thông tin trong 
năm 2017) và thông tin về SAE (từ 90,0% báo cáo đủ thông tin năm 
2014 lên 100,0% báo cáo có đủ thông tin năm 2017). 
Bảng 3.37 Tỷ lệ báo cáo SAE đầy đủ các nhóm thông tin 
trước và sau can thiệp 
T
T 
Nhóm thông tin 
2014 (n=301) 2017 (n=1556) Giá trị 
p N % N % 
1 Hành chính 220 73,1 1556 100 <0,001 
2 Người báo cáo 249 82,7 1058 68,0 <0,001 
3 Đối tượng gặp SAE 73 24,2 1535 98,6 <0,001 
4 SAE 271 90,0 1556 100,0 <0,001 
18 
T
T 
Nhóm thông tin 
2014 (n=301) 2017 (n=1556) Giá trị 
p N % N % 
5 Thuốc nghiên cứu 274 91,0 1334 85,7 0,014 
3.3.2.3. Thay đổi về tuân thủ thời hạn báo cáo 
Bảng 3.38 Số lượng (tỷ lệ%) báo cáo SAE tuân thủ và 
không tuân thủ thời hạn báo cáo 
T
T 
Phân loại 
2014 
(n=301) 
1-6/2017 
(n=767)* 
7-12/2017 
(n=736)** Giá trị 
p 
N % N % N % 
1 Tuân thủ 102 33,9 395 51,5 511 69,4 <0,001 
2 Không tuân thủ 22 7,3 236 30,8 221 30,0 <0,001 
3 
Không đủ thông 
tin xác định việc 
tuân thủ 
177 58,8 136 17,7 4 0,5 <0,001 
*,** Có 53 báo cáo thiếu thông tin về ngày gửi báo cáo. Do đó không 
phân loại được thời hạn gửi. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ báo cáo tuân thủ thời hạn tăng 
mạnh sau khi triển khai chuỗi can thiệp trong giai đoạn 2015-2017, 
đặc biệt sau khi ban hành quyết định 62/QĐ-K2T hướng dẫn ghi 
nhận, báo cáo SAE trong TNLS vào tháng 6/201, từ 33,9% năm 
2014 lên 69,4% vào 6 tháng cuối năm 2017 (tăng 2,04 lần). Tỷ lệ báo 
cáo thiếu thông tin để xác định việc tuân thủ thời hạn báo cáo giảm 
đáng kể, từ 58,8% năm 2014 xuống chỉ còn 0,5% vào 6 tháng cuối 
năm 2017. 
Chương 4. BÀN LUẬN 
4.1 Ưu điểm 
Về phương pháp luận: 
19 
Đây là nghiên cứu đầu tiên mang tính toàn diện, vừa tổng thể 
vừa chi tiết về hoạt động báo cáo SAE trong TNLS tại Việt Nam: đầu 
tiên đi sâu phân tích trực tiếp các báo cáo SAE để tìm hiểu chính xác 
thực trạng hoạt động, chất lượng báo cáo SAE. Từ đó với cách tiếp cận 
phù hợp là thiết kế kết hợp định tính và định lượng đã chỉ ra các yếu tố 
liên quan đến hoạt động báo cáo SAE và mức độ liên quan của từng yếu 
tố. 
Thiết kế nghiên cứu kết hợp định tính và định lượng: Đối với 
nghiên cứu định lượng, đây là một trong số rất ít các nghiên cứu trên 
thế giới có thể tiếp cận, khảo sát dữ liệu nguồn về báo cáo SAE tại 
các BV (báo cáo ca SAE đơn lẻ, hồ sơ bệnh án, kết quả xét nghiệm, 
báo cáo an toàn định kỳ, báo cáo tiến độ, báo cáo nghiệm thu). 
Đặc biệt, trong nghiên cứu thực trạng báo cáo thiếu, chúng tôi trực 
tiếp rà soát, đối chiếu từng hồ sơ bệnh án, xét nghiệm cận lâm sàng 
và các tài liệu nguồn liên quan của bệnh nhân để tìm ra số lượng báo 
cáo thiếu SAE. Do vậy kết quả đưa ra về thực trạng báo cáo SAE 
trong TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam là tương đối chính xác. 
Trong nghiên cứu định tính, các đối tượng được hỏi tương đối đa 
dạng giúp cho phép các đánh giá mang tính chất đa chiều và khách 
quan hơn. 
Về ý nghĩa thực tiễn: 
Đây là một trong số ít các nghiên cứu đã góp phần tham gia xây 
dựng các giải pháp can thiệp thông qua việc cung cấp bằng chứng 
khoa học, tư vấn cho Cơ quan quản lý để ban hành, triển khai các nội 
dung này trong 01 văn bản quy phạm pháp luật (Thông tư số 29/TT-
BYT) và các hoạt động đào tạo, tập huấn về báo cáo SAE. 
Do vậy, các can thiệp được xây dựng phù hợp và khi Cục 
KHCN&ĐT triển khai đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong thực tiễn, 
20 
giải quyết phần lớn các rào cản đối với hoạt động báo cáo SAE trong 
TNLS thuốc hóa dược tại Việt Nam, tạo thuận lợi và khuyến khích 
được các NCV tham gia tích cực vào công tác báo cáo SAE. 
4.2 Nhược điểm: 
Phương pháp phỏng vấn để xác định yếu tố ảnh hưởng hoạt 
động báo cáo SAE: các sai số do phỏng vấn có thể xảy ra do việc báo 
cáo SAE trong TNLS là một vấn đề quan trọng và nhạy cảm, nên có 
thể chưa phát hiện được một số nguyên nhân sâu xa. Chính vì vậy, 
kết quả định lượng cũng cho thấy 05 yếu tố mà nghiên cứu đưa ra 
mới giải thích được 63,6% sự ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo SAE 
tại Việt Nam. Còn lại 37,4% ảnh hưởng tới hoạt động báo cáo là 
những yếu tố khác, cần có những nghiên cứu sâu hơn tiếp theo để 
tìm hiểu. Đồng thời, phỏng vấn cũng chưa tìm ra được các yếu tố 
thuận lợi cho hoạt động báo cáo SAE mà mới phân tích các rào cản. 
Nguyên nhân có thể do TNLS ở Việt Nam vẫn là một lĩnh vực còn 
mới so với thế giới với hệ thống TNLS đang được hoàn thiện dần 
dần. Do đó, các NCV chủ yếu nhận thức các khó khăn rào cản hơn là 
các yếu tố hỗ trợ. Bên cạnh đó, việc chưa phát hiện được các yếu tố 
hỗ trợ cũng có thể do những hạn chế trong cách thức phỏng vấn dẫn 
tới việc các yếu tố thuận lợi từ phía người được hỏi chưa được khai 
thác đầy đủ thông tin. 
Số báo cáo SAE có khả năng liên quan đến thuốc nghiên cứu 
chưa tăng đáng kể sau can thiệp: do điều kiện hạn chế về thời gian và 
nguồn lực nên nghiên cứu chưa thể tiến hành các can thiệp phù hợp 
đối với nội dung này. 
Thời gian theo dõi sau can thiệp chưa dài nên có thể chưa 
đánh giá được đầy đủ xu hướng báo cáo sau khi triển khai các giải 
pháp cải thiện hoạt động báo cáo SAE cũng như hiệu quả dài hạn của 
21 
các giải pháp can thiệp. Trong thời gian tới, cần có những nghiên cứu 
tiếp theo với thời gian theo dõi dài hơn để làm rõ hơn xu hướng và 
hiệu quả dài hạn nói trên. 
KẾT LUẬN 
1. Thực trạng hoạt động báo cáo biến c
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tom_tat_luan_an_nghien_cuu_thuc_trang_va_giai_phap_cai_thien.pdf tom_tat_luan_an_nghien_cuu_thuc_trang_va_giai_phap_cai_thien.pdf