Tình hình xã hội, quan hệ bang giao Việt Nam – Trung Quốc
nửa đầu thế kỉ XIX
2.1.1. Tình hình xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX
Lý Văn Phức sinh năm 1785 mất năm 1849. Ông là sinh ra vào giai
đoạn cuối thời Lê Trung hưng, qua triều Tây Sơn (1788 - 1802) đến đầu
triều Nguyễn (1802 - 1849). Tuổi thơ của ông là thời kì đất nước nhiều biến
động, chiến tranh, nội chiến.11
Về ngoại giao, bên cạnh mối bang giao lâu đời vẫn được duy trì với
phong kiến Trung Quốc, thời kì này phát triển quan hệ bang giao với các
nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á.
2.1.2. Quan hệ bang giao Việt Nam - Trung Quốc khoảng giữa thế kỉ
XIX
Các vị vua triều Nguyễn đều coi trọng quan hệ bang giao. Nguyễn Ánh
ngay khi lên ngôi, ông đã cho xây dựng hệ thống dịch trạm từ Nhị Hà đến
Lạng Sơn để đón, tiếp sứ. Vua Minh Mệnh rất coi trọng sứ thần. Việc bang
giao giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn giữa thế kỉ XIX là thời gian
việc triều cống diễn ra bình thường, không gián đoạn.
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 510 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu văn bản tác phẩm Chu Nguyên tạp vịnh thảo của Lý Văn Phức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oài, Trần Ích Nguyên
là một chuyên gia về Lý Văn Phức, tác giả của cuốn sách Việt Nam Hán
tịch văn hiến thuật luận.
1.1.1.3. Các bài tạp chí và kỷ yếu hội thảo
Theo trình tự thời gian, chúng tôi điểm lại những bài viết công bố trên
tạp chí và các kỷ yếu hội thảo nghiên cứu về Lý Văn Phức.
Năm 1981, tác giả Nguyễn Đổng Chi trong bài viết “Lý Văn Phức, cây
bút luận chiến ngoại giao cứng cỏi” [82, tr. 530] khẳng định Lý Văn Phức
là vị sứ thần, “không làm nhục sứ mệnh”, một nhà văn tài hoa đầy dũng khí
và lòng tự trọng.
Năm 1988, Nguyễn Đăng Na có bài viết “Tây hành kiến văn kỷ lược
của Lý Văn Phức” được đăng trên Tạp chí Tác phẩm mới. Đến năm 2001,
bài viết có bổ sung, dịch mục Châu thuyền và phần Phụ lục in trong Văn
xuôi Việt Nam thời trung đại.
6
Năm 1992, Dương Thị The trong bài viết “Sứ trình tiện lãm khúc - tác
phẩm thơ chữ Nôm của Lý Văn Phức” trên Tạp chí Hán Nôm đã chọn văn
bản VHv.217 làm bản nền, và phiên âm, chú thích một số trích đoạn.
Năm 2004, Nguyễn Thị Ngân có bài viết “Dòng họ Lý Văn Phức qua
Lý thị gia phải” trên Thông báo Hán Nôm học.
Năm 2007 hàng loạt các hội thảo liên quan đến Lý Văn Phức và các
tác phẩm của ông được tổ chức, nhiều bài nghiên cứu được công bố. Đó là
các bài viết của tác giả Nguyễn Thị Ngân và Trần Ích Nguyên.
Năm 2012, tại hội thảo Hội thảo về văn hóa Mân được tổ chức tại Đài
Loan, Trịnh Khắc Mạnh đã có bài tham luận “Lý Văn Phức (1785 - 1849)
và tác phẩm Mân hành”.
Năm 2017, hai bài viết về sự nghiệp trước tác của Lý Văn Phức được
công bố trên tạp chí Nghiên cứu văn học có nhiều đóng góp mới trong
nghiên cưu. Thứ nhất, bài “Sự nghiệp trước thuật của Lý Văn Phức” số
tháng 2 năm 2017 của Phạm Văn Ánh. Thứ hai là Trần Hải Yến với bài
“Nhìn lại việc phiên âm các tác phẩm Nôm của Lý Văn Phức và việc lưu
truyền các phiên bản quốc gữ của chúng từ đầu thế kỉ XX đến nay”. .
1.1.1.4. Biên dịch tác phẩm của Lý Văn Phức
Biên dịch các tác phẩm của Lý Văn Phức được tiến hành khá sớm, và
với các tác phẩm bằng chữ Nôm trước. Theo trình tự thời gian, các công
trình biên dịch cụ thể như sau:
Theo biên mục Thư viện Quốc gia còn lưu bản sớm nhất của Nhị độ
mai vãn vào năm 1905. Đây là bản in lần thứ ba nên bản in lần đầu còn có
niên đại sớm hơn nữa.
Năm 1919, trên Tạp chí Nam Phong giới thiệu ba tác phẩm của Lý
Văn Phức: Bất phong lưu truyện, Hồi chu trở phong thán, Tự thuật ký. Sau
này, Dương Quảng Hàm đã dịch, giới thiệu trọn vẹn bài Tự thuật ký, có chú
giải khá chi tiết, và giới thiệu Nằm váng, khóc măng trong Nhị thập tứ hiếu
diễn âm trong Việt Nam thi văn hợp tuyển.
7
Năm 1962, Truyện Tây sương được Vũ Kỳ Sâm phiên âm và Phạm Trọng
Điềm chú thích trong cuốn Lý Văn Phức - Truyện Tây sương.
Năm 1972, tác phẩm Nhị độ mai được biên dịch và công bố, trong
cuốn Nhị độ mai do Lê Trí Viễn, Hoàng Ngọc Phách giới thiệu.
Năm 1975, tác phẩm Ngọc Kiều Lê tân truyện được Trần Văn Giáp
phiên âm, khảo dị, chú thích trong cuốn sách cùng tên.
Năm 1993, cuốn Thơ đi sứ đã trích dẫn giới thiệu tác gia Lý Văn Phức
và một số bài thơ chữ Hán, chữ Nôm viết trong các chuyến đi hiệu lực ở
Tiểu Tây Dương năm 1830, đi công cán ở Việt Đông năm 1833 và đi sứ
Yên Kinh năm 1841.
Năm 2000, trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 16, giới thiệu Lý
Văn Phức và 4 tác phẩm: Sứ trình tiện lãm khúc, Nhị thập tứ hiếu diễn âm,
Truyện Ngọc Kiều Lê, Truyện Tây sương.
Năm 2009, tác giả Nguyễn Thị Ngân đã phiên âm, dịch nghĩa, chú toàn
bộ Tây hành kiến văn kỷ lược trong luận án Tiến sĩ Nghiên cứu Lý Văn
Phức và Tây hành kiến văn kỷ lược.
Năm 2012, Nguyễn Thị Nhung trong khóa luận Tìm hiểu “Sứ trình chí
lược thảo” đã nghiên cứu về đặc điểm văn bản, đánh giá giá trị nội dung,
hình thức và phiên âm, dịch nghĩa và chú thích toàn bộ tác phẩm này.
Ngoài ra những bài thơ, văn của Lý Văn Phức còn được dịch giới thiệu
rải rác ở một số công trình nghiên cứu về thơ văn ông.
1.1.2. Nghiên cứu văn bản tác phẩm Chu Nguyên tạp vịnh thảo
1.1.2.1. Khảo cứu về văn bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, tình hình văn bản
của tác phẩm được nói vắn tắt: đây là tập thơ, văn Lý Văn Phức làm trong
dịp đi sứ Yên Kinh Trung Quốc năm Thiệu Trị Tân Sửu (1841), tác phẩm
này hiện còn tồn tại 08 bản, chép tay, lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán
Nôm.
8
Trong bài viết “Sự nghiệp trước thuật của Lý Văn Phức”, Phạm Văn
Ánh đã sơ bộ khảo sát bản CNTVT ký hiệu A.304, văn bản gồm 80 bài thơ
và một số bài kí do Lý Văn Phức sáng tác. Phạm Văn Ánh đã phát hiện
thêm 1 dị bản CNTVT chép trong Hoàng Hoa tạp vịnh kí hiệu A.1308.
1.1.2.2. Tình hình biên dịch Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Chưa có công trình biên dịch trọn vẹn, tập trung vào tác phẩm CNTVT,
tuy nhiên xuất hiện trong các bài nghiên cứu hoặc công trình tuyển tập có
bài thơ văn, hoặc bộ phận bài thơ văn được dịch.
Trong cuốn chuyên luận Lý Văn Phức, Hoa Bằng trích dịch giới thiệu
một phần bài tựa Lý Văn Phức viết và bài tựa do Lê Văn Đức viết. Cũng
trong chuyên luận này, trích dịch hai bài thơ: Nguyên đán, nhị nhật, bi thuật;
Nhục thực hí thành. Trong bài viết “Văn hóa ẩm thực châu Á đầu thế kỷ
XIX dưới ngòi bút Lý Văn Phức Việt Nam” Trần Ích Nguyên cũng dịch, lại
bài thơ Nhục thực hí thành với nhan đề là Nhục thực hí trình chư đồng sự .
Năm 2015 bài tựa do Lê Văn Đức trong tập CNTVT được dịch toàn bộ,
giới thiệu trong Tuyển tập thi luận Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX.
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở nội dung về thân thế sự nghiệp,
quê quán, hành trạng. Thành tựu lớn nhất trong cuộc đời ông năm trong
khoảng từ năm 1830 đến năm 1841. Trong thời kì này, ông đi hiệu lực,
công cán, đi sứ đồng thời để lại một di sản thơ văn đồ sộ.
- Sự nghiệp sáng tác của Lý Văn Phức bao gồm cả chữ Hán và chữ
Nôm, thuộc nhiều thể loại khác nhau. Điều này cho thấy bút lực dồi dào và
đa dạng. Tính đến nay bảng danh mục các tác phẩm và sơ bộ tình hình văn
bản của Lý Văn Phức do Phạm Văn Ánh cung cấp chi tiết hơn cả nhưng
cũng chưa đầy đủ.
- 14 bản CNTVT hiện tồn chưa được khảo sát định lượng số bài, đối
chiếu dị văn, so sánh các dị bản, quá trình truyền bản giữa chúng. Nghiên
cứu chỉ dừng lại ở việc trích dịch giới thiệu một bài tựa, một số bài thơ. Về
9
tác phẩm, đương nhiên do chưa được dịch, công bố cho nên chưa có công
trình nào đánh giá giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm đi sứ
này.
1.3. Định hƣớng nghiên cứu của đề tài
Dựa trên những đánh giá về tình hình nghiên cứu như trên, chúng tôi
đề xuất hướng nghiên cứu của đề tài:
- Bổ sung những thông tin về chuyến đi sứ năm 1841 của Lý Văn Phức
đến Yên Kinh Trung Quốc.
- Khảo sát tả chi tiết tình trạng của 14 văn bản CNTVT hiện tồn, xác định
thế hệ bản sao, khảo sát dị văn giữa các bản, chọn bản tin cậy để biên dịch và
công bố.
- Nghiên cứu đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm CNTVT.
1.4. Các thuật ngữ sử dụng trong luận án
1.4.1. Đi sứ, đi công cán, đi hiệu lực
Đi sứ, chỉ những phái đoàn được cử sang thực hiện sứ mệnh bang giao
như: tiến cống, cầu phong, tạ ơn, báo tang, chúc mừng Đi công cán, là
những chuyến đi mang tính chất sự vụ như: đi mua sắm vật dụng cho triều
đình, đi truy bắt tội phạm trong nước chạy sang nước bạn, trao trả tội phạm,
hộ tống người bị bão giạt, mua hàng hóa Đi hiệu lực, tức là đi phục dịch
để lấy công chuộc tội.
1.4.2. Thơ bang giao, thơ đi sứ
Thơ bang giao là khái niệm chỉ những bài thơ được sáng tác trong các
hoạt động bang giao giữa sứ thần các nước. Thơ đi sứ là một bộ phận của
thơ bang giao. Chúng tôi đồng tình với quan điểm của Bùi Duy Tân “thơ đi
sứ là những tác phẩm của các sứ thần viết ra, để bày tỏ tâm sự và miêu tả
hành trình đi sứ của mình” [86, tr 302].
1.4.3. Văn bản, tác phẩm
Văn bản, theo D.X. Likhachev thì Văn bản là một bản tin biểu đạt
bằng ngôn ngữ thể hiện ý đồ của người sáng tạo ra nó. Tác phẩm, được
10
hiểu là phải có sự thống nhất về nội dung và hình thức, thể hiện ý đồ
sáng tác.
1.4.4. Bản nền, dị bản
Bản nền, luận án đồng quan điểm với tác giả Trịnh Khắc Mạnh khi xác
định bản nền “trên thực tế để tiến hành so sánh đối chiếu các dị bản, cũng
có thể chọn bản đầy đủ làm bản nền, còn bản nền có trùng với bản cổ, hay
trùng với bản tin cậy hay không thì chỉ được xác định sau nghiên cứu phân
tích văn bản” Dị bản, chỉ những văn bản khác nhau của cùng một tác phẩm”.
Tiểu kết
Chương tổng quan đã điểm lại những nghiên cứu liên quan tới đề
tài và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo luận án đề xuất ba nội dung
nghiên cứu bổ sung. Thứ nhất, hoàn thiện những thông tin liên quan đến
chuyến đi sứ Yên Kinh năm 1841 của tác giả. Thứ hai, bằng phương pháp
văn bản học, chúng tôi mô tả 14 dị bản hiện tồn của CNTVT, đối chiếu đưa
ra danh mục thơ văn, xác lập văn bản khả tín để dịch thuật và công bố. Cuối
cùng, luận án nghiên cứu đặc điểm nội dung và nghệ thuật tác phẩm
CNTVT, bước đầu có sự so sánh với tác phẩm đi sứ khác của Lý Văn Phức
cũng như sáng tác của các tác giả cùng thời.
Chƣơng 2: LÝ VĂN PHỨC VÀ CHUYẾN ĐI SỨ YÊN KINH
(TRUNG QUỐC) NĂM 1841
2.1. Tình hình xã hội, quan hệ bang giao Việt Nam – Trung Quốc
nửa đầu thế kỉ XIX
2.1.1. Tình hình xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX
Lý Văn Phức sinh năm 1785 mất năm 1849. Ông là sinh ra vào giai
đoạn cuối thời Lê Trung hưng, qua triều Tây Sơn (1788 - 1802) đến đầu
triều Nguyễn (1802 - 1849). Tuổi thơ của ông là thời kì đất nước nhiều biến
động, chiến tranh, nội chiến.
11
Về ngoại giao, bên cạnh mối bang giao lâu đời vẫn được duy trì với
phong kiến Trung Quốc, thời kì này phát triển quan hệ bang giao với các
nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á.
2.1.2. Quan hệ bang giao Việt Nam - Trung Quốc khoảng giữa thế kỉ
XIX
Các vị vua triều Nguyễn đều coi trọng quan hệ bang giao. Nguyễn Ánh
ngay khi lên ngôi, ông đã cho xây dựng hệ thống dịch trạm từ Nhị Hà đến
Lạng Sơn để đón, tiếp sứ. Vua Minh Mệnh rất coi trọng sứ thần. Việc bang
giao giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn giữa thế kỉ XIX là thời gian
việc triều cống diễn ra bình thường, không gián đoạn.
2.2. Giới thiệu chung về cuộc đời và tác phẩm của Lý Văn Phức
2.2.1. Cuộc đời Lý Văn Phức (1785-1849)
Trong luận án này, chúng tôi không trình bày lại toàn bộ những thông tin
về tác giả, mà tập trung phân tích những yếu tố khách quan và chủ quan góp
phần hình thành nên tài năng thơ văn của Lý Văn Phức.
Những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến sự nghiệp của Lý Văn Phức,
bao gồm các yếu tố gia đình và thời đại.
Tổ tiên và gia đình, tổ tiên của Lý Văn Phức ở thôn Tây Hương, thuộc
huyện Long Khê, phủ Chương Thâu, tỉnh Phúc Kiến. Những người có ảnh
hưởng lớn đến cuộc đời của Lý Văn Phức là: ông nội, cha và mẹ. Ông nội là
Lý Khắc Đôn, theo nghiệp Nho và đậu Hương tiến. Cha ông Nho nghèo,
các con nhỏ, gặp thời loạn lạc nên người cha phải vừa làm thuốc vừa dạy
học để kiếm sống. Chính tấm gương cần mẫn của cha ông, cùng sự chịu
thương của mẹ đã hun đúc nên tinh thần chăm chỉ, ý chí không ngừng vươn
lên của Lý Văn Phức.
Thời đại, Lý Văn Phức sinh ra và lớn lên trong một thời kì nhiều biến
động. Trong cuộc đời mình, ông đã chứng kiến sự trị vì và thay thế của các
triều đại, bao cảnh đau thương, thảm khốc trong nhân gian. Hoàn cảnh xã
12
hội ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình, khiến cho tuổi trẻ ông gặp nhiều trắc
trở nhưng lại vun vén nên đức tính kiên cường ở ông.
Văn hóa xã hội, Lý Văn Phức sinh ra vào nửa cuối thế kỉ XVIII, được
tiếp xúc sách vở từ sớm. Giai đoạn này, lịch sử văn hóa dân tộc chứng kiến
những hoạt động và thành tựu văn hóa với những tên tuổi lớn như Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương Những giá trị tư tưởng đã ngấm truyền vào Lý Văn
Phức và việc dụng chữ Nôm sáng tác văn học được ông vận dụng rất thành
công.
Những biến động cuộc đời, cuộc đời làm quan của Lý Văn Phức trải
qua nhiều thăng trầm. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến tư tưởng và sự
nghiệp sáng tác. Sau lần bị bãi chức, ông được cử đi hiệu lực ở Tiểu Tây
Dương để lập công chuộc tội. Trong chuyến đi này, Lý Văn Phức đã bộc lộ
sở trường của một vị quan ngoại giao xuất sắc. Sau đó, ông liên tiếp được
giao trọng trách đi sứ, công cán ở nước ngoài. Sự nghiệp ngoại giao chính
là tiền đề phát triển sự nghiệp văn học của ở Lý Văn Phức.
Những yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến sự nghiệp của Lý Văn Phức
Bản thân Lý Văn Phức là người thông minh, hiếu học và giàu nghị lực.
Cậu bé Đường 棠 đi học từ 7 tuổi, phải đến năm 22 tuổi mới đỗ Sinh đồ (Tú
tài). Sau 12 năm vật lộn kiếm sống và học hành, nhưng ông vẫn kiên trì cho
đến năm 33 tuổi thi đỗ Hương tiến (Cử nhân).
Lý Văn Phức có phẩm chất của một vị quan ngoại giao giỏi. Sau
chuyến đi đầu tiên đến Tiểu Tây Dương, Đại Nam thực lục (tập 2) ghi chép
lời của bọn phái viên Lê Thuận Tĩnh nói “Phức là người làm việc xuất sắc”.
Ông là người quảng giao, đặc biệt là với các văn nhân Nho sĩ cùng chí
hướng, yêu và có tài văn thơ. Theo khảo sát của Dương Đại Vệ trong luận văn
Thạc sĩ, Lý Văn Phức có sự giao lưu với 14 vị quan lại và 17 văn nhân Trung
Hoa trong 6 chuyến đi đến đất nước này.
13
Hội tụ những yếu tố chủ quan và khách quan như trên, Lý Văn Phức đã
trở thành một vị quan ngoại giao xuất sắc, một tác gia văn học lớn ở nửa
đầu thế kỉ XIX.
2.2.2. Sự nghiệp văn học của Lý Văn Phức
Sự nghiệp sáng tác của Lý Văn Phức song song với chặng đường đời.
Những sáng tác của ông tập trung trong thời gian làm quan ngoại giao.
Danh mục tác phẩm thơ, văn của Lý Văn Phức rất đồ sộ, nên một trong
nhưng công việc đầu tiên khi nghiên cứu sự nghiệp văn học của Lý Văn Phức,
nhà nghiên cứu nào cũng có tham vọng tổng hợp những tác phẩm của tác giả.
Luận án hệ thống thông tin và lập danh mục đầy đủ sáng tác của Lý Văn
Phức ở Phụ mục 1 của luận án.
Tài năng thơ văn, Lý Văn Phức được bậc danh Nho đánh giá rất cao,
nổi bật nhất là ở sự tự nhiên và thành thực. Trong bài tựa ở tập CNTVT, Lê
Văn Đức cho biết Lý Văn Phức là người giỏi từ hành, ca, phú đến thơ lại
càng giỏi giang. Thơ ông đến một cách tự nhiên mà kiệt xuất, là kết tựu của
tài năng, học vấn tinh thông, kinh nghiệm đi nhiều cùng năng lực quan sát
không mệt mỏi.
2.3.1. Mục đích của chuyến đi
Năm Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất (1841), Lý Văn Phức làm
Chánh sứ đi Yên Kinh báo tang vua Minh Mệnh. Chuyến đi sứ vừa tròn
một năm: từ mùa xuân năm Tân Sửu (1841) đến mùa xuân năm Nhâm Dần
(1842).
2.3.2. Hành trình của chuyến đi
Căn cứ vào Sứ trình chí lược thảo, Sứ trình toát yếu biên, chúng ta có
thể dựng lại một cách chi tiết con đường mà Lý Văn Phức và đoàn sứ bộ đã
đi tới Yên Kinh. Những tác phẩm thuộc thể ký, không chỉ giúp chúng ta
hình dung một cách chi tiết, cụ thể con đường đi sứ, còn là căn cứ quan
trọng khi chúng ta tìm hiểu tác phẩm CNTVT.
14
Mục đích của nội dung này không chỉ là dựng lại con đường đi sứ với
những đơn vị hành chính chi tiết nhất, mà còn dựng lại con đường đi sứ
xuyên suốt tập thơ CNTVT, cởi giải những khúc mắc về địa danh, nhân vật
lịch sử được ghi lại trong tập thơ.
2.3.3. Bốn tác phẩm văn học của Lý Văn Phức được sáng tác trong
chuyến đi sứ năm 1841
Trong chuyến đi này, ngoài CNTVT, Lý Văn Phức còn viết ba tác
phẩm khác cả chữ Hán và chữ Nôm: Sứ trình tiện lãm khúc 使程便覽曲, Sứ
trình quát yêu biên 使程括要編, Sứ trình chí lược thảo 使程志略草. Mỗi
một thể loại văn học có ưu thế riêng, đã phản ánh một cách toàn diện chuyến đi
này. Đây là một hiện tượng văn học thú vị chỉ đến đầu thế kỉ XVIII mới
xuất hiện, đó là nhà văn - nhà ngoại giao sáng tác từ hai tác phẩm trở lên
trong một chuyến đi sứ, như Nguyễn Tông Quai, Bùi Văn Dị, Nguyễn Tư
Giản.
Tiểu kết
Ở chương 2, luận án đã hệ thống lại thông tin về cuộc đời sự nghiệp
sáng tác của Lý Văn Phức và chuyến đi sứ năm 1841 đến Yên Kinh của ông.
Những yếu tố khách quan và chủ quan hội tụ vun đắp nên nhân cách, tài
năng ngoại giao và sự nghiệp văn chương rực rỡ của Lý Văn Phức. Luận án
lập danh muc đầy đủ các sáng tác văn chương của Lý Văn Phức. Về chuyến
đi sứ cuối cùng đến Yên Kinh năm 1841 là chuyến đi tương đối đặc biệt với
Lý Văn Phức, chuyến đi ông nhận được nhiều ân sủng và kỳ vọng. Tất cả
những điều đó Lý Văn Phức thể hiện qua 4 tác phẩm thuộc 4 thể loại khác
nhau. Điều này vừa cho thấy tài năng, bút lực văn chương dồi dào của tác
giả vừa khắc họa một cách trọn vẹn toàn diện hành trình đi sứ. Đây là một
hiện tượng văn học thú vị và đặc biệt ở giai đoạn này.
15
Chƣơng 3: KHẢO SÁT VĂN BẢN CHU NGUYÊN TẠP VỊNH
THẢO CỦA LÝ VĂN PHỨC
3.1. Tình hình văn bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Tác giả luận án bổ sung hai bản CNTVT chưa được các nhà nghiên cứu
đi trước đề cập đến. Đó là bản CNTVT kí hiệu R.240 ở Thư viện Quốc gia
và bản CNTVT kí hiệu HN.660 ở Viện Văn học. Bởi vậy, tính đến thời
điểm hiện tại, ghi nhận còn 14 bản CNTVT. Dựa vào hình thức tên gọi văn
bản, chúng tôi chia làm 2 nhóm văn bản. Nhóm 1 có tiêu đề CNTVT, gồm
10 dị bản là các kí hiệu sau: A.1188, VHv. 111, VHv.1146, A.304, A.2992,
A.2805, A.2497, VHv.110, R. 240, HN.660. Nhóm hai là các bản tiêu đề
không ghi CNTVT, gồm 4 dị bản còn lại, đó là các kí hiệu: A.1250, A.2636,
A.1308, A.1757.
* Nhận xét chung về 14 văn bản hiện tồn
+/ Vấn đề tên gọi văn bản
Tên sách, sách chép tập thơ, văn CNTVT vừa có vựng tập vừa có biệt
tập. Tiêu đề sách nhóm 1 đều ghi CNTVT, nhóm 2 không ghi CNTVT, gồm
4 bản. Trong đó, hai bản Mân hành thi tập A.1250 và Sứ Thanh văn lục
A.1757 chép chung với các tác phẩm khác. Hai bản Sứ trình di lục 使程遺
錄 kí hiệu A.2636, Hoàng Hoa tạp vịnh 皇華雜詠 kí hiệu A.1308 đều là
những biệt tập,
Tên tác phẩm, trong 14 dị bản, tác phẩm này có ba nhan đề khác nhau:
Sứ trình di lục 使程遺錄 (bản A.2636), Hoàng Hoa tạp vịnh 皇華雜詠
(A.1308), CNTVT (các bản còn lại). Cả ba nhan đề đều thể hiện đây là tập
thơ văn đi sứ. Tuy nhiên, CNTVT chính là nhan đề đã được Lý Văn Phức
đặt cho tác phẩm này.
+/ Cấu trúc của văn bản
Từ sự mô tả văn bản chung nhất về hiện trạng các bản sao CNTVT
trên đây, căn cứ vào những thông tin thống nhất giữa các văn bản, sự phân
16
tích tư liệu có được, luận án đưa ra cấu trúc của các bản sao CNTVT như
sau:
- Tên văn bản: Chu Nguyên tạp vịnh thảo
- Hai bài tựa: 1. Bài tựa do Lê Văn Đức viết; 2. Bài tựa Lý Văn Phức
tự viết.
- Các bài thơ văn trên hành trình đi sứ từ kinh đô Phú Xuân tới Yên
Kinh, và từ Yên Kinh trở về đến Hà Nội.
- Một số nội dung khác ghi chép ngoài thơ, văn.
+/ Dựa vào chủ thể sáng tác luận án phân loại các bài thơ văn trong
CNTVT thành ba nhóm: thứ nhất là những sáng tác của Lý Văn Phức, gồm
165 bài; thứ hai là những sưu tập khác của Lý Văn Phức, gồm 6 bài; thứ ba
là những sáng tác của tác giả khác, gồm 7 bài.
3.2. Khảo dị 14 bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo
3.2.1. Chọn bản nền
Bản A.1188 ghi chép đầy đủ nhất số lượng thơ, thường có kèm đầy đủ
lời tự dẫn và chú giải sau nguyên tác ở mỗi bài. Do vậy, chúng tôi chọn bản
A.1188 là bản nền, làm cơ sở để đối chiếu so sánh với 13 bản còn lại.
3.2.2. Khảo sát số lượng các bài thơ, văn
Trong 14 văn bản CNTVT, bản A. 1188 là bản có số lượng bài đầy đủ
nhất, ghi chép 177 bài. Các bản VHv.111, A.1308 và R.240 đã bổ sung cho
bản A.1188 một bài Án Yên Đài bát cảnh, trong mục sưu tầm, ghi chép.
Như vậy, số bài thơ văn trong văn CNTVT là 178 bài. Trong đó, 165 sáng
tác và 6 bài sưu tầm ghi chép của Lý Văn Phức cùng 6 sáng tác của các tác
giả khác.
Trong 178 bài thơ văn của tập CNTVT qua khảo sát đối chiếu chỉ có 17
bài thơ xuất hiện trong cả 14 dị bản. Đây đều là những sáng tác của Lý Văn
Phức.
3.2.3. Khảo dị nhan đề các bài thơ, văn
17
CNTVT có 178 bài thơ văn, để đưa ra một danh mục tương đối chính
xác, luận án tiến khảo sát nhan đề gồm nhận định về tình hình xuất, nhập
và sai khác từ ngữ của nhan đề. (Xem Phụ lục 2: Khảo sát nhan đề và số
lƣợng các bài thơ văn)
3.2.3.1. Tình hình xuất nhập từ ngữ
14 văn bản CNTVT có 42 trường hợp nhan đề có hiện tượng xuất,
nhập và sai khác từ ngữ. (Xem Phụ lục 3: Tình hình xuất nhập, từ ngữ
sai khác trong nhan đề các bài thơ văn).
3.2.3.2. Sai khác về từ ngữ
Sai khác giữa nhan đề các văn bản gồm 22 trường hợp. Trong đó có
trường hợp khác biệt không làm thay đổi nội dung nhan đề thơ, văn. Tuy
nhiên, nhan đề trong các dị bản còn một số trường hợp sai khác cần biện
giải.
3.2.4. Khảo dị nội dung 17 bài thơ
3.2.4.1. Sai khác trong chính văn của 17 bài thơ
Trong phần nội dung thơ, do sự quy định chặt chẽ về số chữ trong một
câu, số câu trong một bài; nên chỉ xuất hiện sai khác, đảo mà không có xuất,
nhập.
3.2.4.2. Sai khác ở thi tự của 17 bài thơ trùng nhau
Có 19 điểm bản nền thừa so với 13 bản còn lại. 13 điểm bản nền thiếu
so với các bản còn lại. 13 từ, ngữ bản nền sai khác so với 13 bản còn lại.
Trong 14 văn bản CNTVT, các chữ có hiện tượng viết kiêng húy: chữ
thời 時, chữ hoa 華, chữ nhậm任.
3.4. Tổng hợp tình hình văn bản và sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa
các bản sao của văn bản CNTVT
Chúng tôi đã khảo sát văn bản CNTVT trên nhiều phương diện. Cuối
cùng, luận án tổng hợp sự khác biệt giữa 14 bản sao về hình thức, xác lập
sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các bản trong hệ thống văn bản CNTVT.
18
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các dị bản
3.5. Xác định bản tin cậy
Trên cơ sở khảo cứu, chúng tôi cho rằng bản A.1188 là bản đầy đủ
nhất về số lượng thơ văn (177/ 178 bài) và thi tự ở mỗi bài. Do vậy, chúng
tôi chọn bản A.1188 là bản đáng tin cậy hơn cả để phiên dịch, nghiên cứu
và công bố. Bản A.1188 chép thiếu 1 bài ở phần sưu tầm ghi chép của Lý
Văn Phức, bài 114: Án Yên Đài bát cảnh 按燕臺八景, chúng tôi bổ sung từ
các bản khác.
Tiểu kết
Bằng phương pháp văn bản học, luận đã tiến hành khảo sát tình hình
văn bản tác phẩm CNTVT của Lý Văn Phức và đi đến một số kết luận sau.
Số lượng văn bản tác phẩm CNTVT còn 14 văn bản, tất cả đều là bản chép
tay và tình trạng văn bản còn khá tốt. Về số lượng, 14 văn bản CNTVT ghi
chép 178 bài thơ, văn. Trong đó, 165 bài là sáng tác và 6 bài ghi chép sưu
tầm của Lý Văn Phức cùng 7 sáng tác của các tác giả khác. Luận án đã khảo
dị trong nội dung văn bản 17 bài thơ xuất hiện ở cả 14 bản, khảo sát hiện
19
tượng kiêng húy, tình hình xuất nhập, trật tự sao chép văn bản, khảo dị, luận
án đưa ra sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các bản sao của tác phẩm CNTVT.
Luận án cho rằng bản A.1188 là bản đáng tin cậy (thiện bản) để chọn phiên
dịch, nghiên cứu và công bố.
Chương 4: GIÁ TRỊ CỦA CHU NGUYÊN TẠP VỊNH THẢO
4.1. Giá trị nội dung
4.1.1. Ý thức dân tộc sâu sắc
Ở CNTVT, ý thức dân tộc biểu hiện rõ nhất là thái độ trung cẩn và biết
ơn của Lý Văn Phức đối với triều đình với nhà vua.
Tinh thần dân tộc còn thể hiện ở niềm tự hào và tự tôn dân tộc. Những
giá trị văn hóa Việt mà ông truyền cảm luôn mạnh mẽ đánh thức niềm tự
hào dân tộc trong ông.
Ý thức dân tộc thể hiện chân thành, giản dị ở tình yêu, sự gắn bó máu
thịt và niềm tự hào sâu sắc với quê hương .
4.1.2. Cảm hứng sáng tạo thi ca hòa đồng cùng cảnh sắc thiên nhiên
Thiên nhiên gắn liền với địa danh và di tích lịch sử
Tên địa danh ở đây không chỉ là những danh từ riêng khô khan, mà
qua ngòi bút tài hoa của tác giả mỗi miền đất lại hiện lên với một bức tranh
thiên nhiên mang màu sắc, cảnh vật, đặc trưng riêng. Qua CNTVT đã thể
hiện rõ đặc điểm này.
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp
Hình ảnh về thiên nhiên xuyên suốt tập thơ một cách tự nhiên là mùa
xuân rực rỡ sắc màu, những buổi sáng trong trẻo có ánh mặt trời đỏ, sương
trên lá biếc, gió thì thầm, những khu rừng hai bên bờ sông xanh mướt
Thiên nhiên kì vĩ và hiểm trở
Vẻ đẹp thiên nhiên kì vĩ trong CNTVT rất rõ nét. Thiên nhiên vừa hiểm
trở vừa khắc nghiệt, khiến con đường đi sứ càng trở nên gian nan, nguy
hiểm.
20
4.1.3. Từ con đường đi sứ Yên Kinh đến dòng chảy cảm xúc của
nhân vật trữ tình trong Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Con đường đi sứ đến Yên Kinh được phản ánh chi tiết gắn với thông
tin đáng tin cậy về các địa danh Trung Hoa vào thời điểm năm 1841. Hành
trình đi sứ với không gian xa xôi, thời gian dằng dặc ảnh hưởng đến tâm
tình cô đơn, nỗi lòng lẻ loi của sứ thần.
Đối với hoàn cảnh đi xa, tha hương lữ khách, tình cảm gia đình, chữ
hiếu với mẹ cha không bộc bạch thường xuyên nhưng lại rất sâu đậm.
Bên cạnh tình yêu đất nước, tình cảm gia đình, còn có một nét đặc
trưng của thơ đi sứ và rất tiêu biểu ở Lý Văn Phức đó là tình bằng hữu
ngoài biên giới.
4.2. Giá trị nghệ thuật
4.2.1. Thể loại
Thể loại trong CNTVT rất đa dạng, chiếm số lượng lớn nhất là thơ
Đường luật (137 bài). Thứ nhất, là thể bát cú đường luật. Luật thi yêu cầu
chặt chẽ về niêm, luật, vần, đối. Niêm là nguyên tắc phối hợp thanh điệu
theo chiều dọc của bài thơ, làm cho các liên thơ kết dính lại với nhau. Thứ
hai, là thể thơ tuyệt cú. Tuyệt cú hay tứ tuyệt vốn được xem là thể thơ đặc
sắc, ngắn gọn, m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_van_ban_tac_pham_chu_nguyen_tap_v.pdf