Tóm tắt Luận án Nghiên cứu văn bản tác phẩm diễn nôm Nhị Độ Mai

Khảo dị các văn bản Nhị độ mai diễn ca

Thông qua quá trình khảo dị các văn bản truyện thơ Nôm Nhị

độ mai diễn ca, chúng tôi rút ra một số đặc điểm sau:13

Các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca có sự

thống nhất nhau. Tất cả các bản khắc in và sao chép đều dựa vào

bản nền VNb.22, và về cơ bản đều tuân thủ theo bản nền, do đó giữa

các văn bản có sự thống nhất về tên gọi, thống nhất về cấu trúc văn

bản: Từ trang bìa, nhan đề tác phẩm, thông tin nơi in ấn, nơi tàng

bảng, niên đại thành thư, rồi đến sự phân chia bên trong nội dung

chính về cơ bản vẫn thống nhất giữa các văn bản.

Các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca có sự kế

thừa nhau. Tính kế thừa trong hệ thống các văn bản truyện thơ Nôm

Nhị độ mai thể hiện ở đặc điểm là các văn bản khắc in lại đều dựa

theo bản nền VNb.22, nhưng kế thừa những ưu điểm của văn bản

này, mà khắc phục những nhược điểm, những từ ngữ sai nhầm để văn

bản được hoàn thiện hơn.

Các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca có sự

hoàn thiện hơn trong quá trình truyền bản. Sự hoàn thiện trong quá

trình truyền bản đặc điểm nổi bật nhất giữa các văn bản truyện thơ

Nôm Nhị độ mai diễn ca. Văn bản VNb.22 do khắc in lần đầu nên đã

tồn tại một số nhược điểm, khiến cho văn bản chưa thật sự hoàn

thiện, thể hiện ở 3 phương diện: Về hình thức khắc in; về cấu trúc

chữ Nôm; và về vấn đề từ ngữ. Các bản khắc in, nhuận chính, tân

truyện về sau đã khắc phục dần những nhược điểm từ bản nền

VNb.22, khiến cho hệ thống văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai trở

nên hoàn thiện hơn.

Thông qua bảng khảo dị những dị văn ở các văn bản Nhị độ

mai diễn ca, chúng tôi nhận thấy rằng, mặc dù giữa các bản truyện

thơ Nhị độ mai diễn ca có sự thống nhất với nhau, nhưng vẫn tồn tại14

những dị văn. Những dị văn này chủ yếu là sự khác biệt về các bộ

phận biểu ý trong cấu trúc chữ Nôm. Nếu ở bản nền VNb.22, chữ

Nôm thiên về xu hướng sử dụng chữ Nôm đơn, các bộ phận (cả biểu

âm và biểu ý) trong chữ thường có xu hướng viết giản lược, bớt nét.

Nhưng ở các bản in sau, đặc biệt ở 3 bản R.495, Nhuận chính và Tân

truyện, thì loại hình chữ Nôm ghép (tức loại chữ Nôm tự tạo) có xu

hướng tăng lên, và các bộ phận (cả biểu âm và biểu ý) lại có xu

hướng viết đầy đủ tự thể. Ngoài ra, dị văn giữa các bản truyện thơ

Nôm Nhị độ mai diễn ca còn có sự khác biệt hình thể do dùng chữ dị

thể, tục thể, chữ thông tự. Nhìn chung, cấu trúc chữ Nôm ở các bản

khắc in và nhuận chính sau thường đi theo xu hướng tăng dần lên loại

hình chữ Nôm tự tạo, chữ biểu thị âm đọc chính xác hơn, phạm vi chỉ

nghĩa cụ thể hơn, rõ ràng hơn, điều đó cũng phù hợp với quy luật

phát triển của chữ Nôm, là càng về giai đoạn sau thì chữ Nôm tự tạo

càng tăng lên, xu hướng biểu âm chính xác, cụ thể càng tăng lên so

với giai đoạn trước

pdf27 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 625 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu văn bản tác phẩm diễn nôm Nhị Độ Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương: Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Khái niệm “diễn Nôm” trong Văn học Trung đại Việt Nam Một số công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Quang Hồng, Hoàng Thị Ngọ, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Kim Sơn,đã nhắc đến các cụm từ như diễn ca, diễn âm, giải âm, diễn Nôm, diễn truyện,... Những khái niệm này đều là cách gọi khác của “diễn Nôm”. “Diễn Nôm” là cụm từ để chỉ những văn bản, tác phẩm được chuyển dịch, hoặc diễn Nôm từ một văn bản tác phẩm gốc bằng chữ Hán hoặc từ một nội dung sẵn có. “Diễn Nôm” tuy không phải là khuynh hướng học thuật mang tính bác học nhưng nó có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với nền văn học dân tộc. “Diễn Nôm” không phải chỉ để dễ nhớ, dễ thuộc nội dung của một văn bản chữ Hán mà còn thổi vào đó chính kiến, định hướng tiếp nhận của người diễn dịch. Đặc biệt diễn dịch bằng thơ sẽ đem lại cho văn bản mới màu sắc cảm tính, xúc động, tâm đắc của người diễn dịch so với bản gốc. 5 1.2. Tình hình nghiên cứu văn bản tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai 1.2.1 Vấn đề nguồn gốc truyện thơ Nôm Nhị độ mai Căn cứ vào câu 17: Truyện ngoài xem Nhị độ mai, tất cả các nhà nghiên cứu văn học sử từ trước tới giờ đều cho rằng nguồn gốc của Nhị độ mai Việt Nam chính là cuốn Nhị độ mai Trung Hoa. 1.2.2 Công việc phiên âm và chú giải NĐM ở Việt Nam a) Các khảo cứu thƣ mục học về NĐM Về các văn bản NĐM bằng chữ Nôm, đã có một số công trình nhắc đến nhưng chưa thực sự đầy đủ. - Theo Thư viện Viễn Đông Bác Cổ, nay là Thư viện Khoa học Xã hội tại Hà Nội có 2 bản: Nhị độ mai, Nhị độ mai truyện. - Theo cuốn Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu (Nxb. KHXH, H, 1993) thì hiện có 4 bản diễn Nôm Nhị độ mai. - Tác giả Lê Trí Viễn, Hoàng Ngọc Phách trong cuốn Nhị độ mai bên cạnh việc giới thiệu, chú thích cho văn bản đã đưa ra những kết quả khảo luận về các bản diễn Nôm Nhị độ mai. Các tác giả cho rằng, hiện nay có 3 bản Nhị độ mai: Nhị độ mai diễn ca, Nhị độ mai tinh tuyển, Nhị độ mai truyện . b) Các công bố phiên âm và chú giải văn bản Theo khảo sát của chúng tôi, Các bản Nhị độ mai bằng quốc ngữ gồm có 13 bản. Nhưng tất cả các bản Nhị độ mai quốc ngữ đều phiên chú từ một bản Nôm là bản Nhị độ mai diễn ca, còn các bản diễn Nôm Nhị độ mai khác chưa được công bố đến đông đảo công chúng. 1.2.3. Vấn đề tác giả và niên đại truyện thơ Nôm Nhị độ mai Vấn đề tác giả truyện thơ Nôm Nhị độ mai Tác giả của Cải dịch Nhị độ mai truyện là Thiện Đình Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng.Tác giả của Nhị độ mai tinh tuyển là Song Đông 6 Ngâm Tuyết Đường, đây chỉ là một thất danh nên những thông tin về tác giả vẫn còn bỏ ngỏ. Riêng với truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca, theo Lê Trí Viễn – Hoàng Ngọc Phách trong phần giới thiệu về truyện thơ Nôm Nhị độ mai thì cho rằng tác giả là Lý Văn Phức. Trong bài giới thiệu truyện thơ Nôm NĐM, tác giả người Pháp A. Landes viết: “Truyện Nhị độ mai do một văn sĩ Bắc kỳ, tước Bình chuẩn, còn sống cách đây ít năm sáng tác”. Tác giả Hoàng Xuân Hãn cũng cho rằng tác giả của Nhị độ mai chắc chắn là Đặng Huy Trứ. Vấn đề niên đại truyện thơ Nôm NĐM Cải dịch Nhị độ mai truyện do Đặng Xuân Bảng (1828-1910) biên soạn. Theo đó, có thể thấy tác phẩm này ra đời vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nhị độ mai tinh tuyển do Song Đông Ngâm Tuyết Đường soạn năm Đồng Khánh thứ 2, tức năm 1887. Với Nhị độ mai diễn ca, Bài tựa bản Nhị độ mai của nhà in Quốc Hoa cho rằng: “Truyện Nhị độ mai do một tác giả vô danh viết vào khoảng 1782 – 1786, giữa lúc nước Việt đang ở vào thời kỳ điêu đứng, nước bị cắt đôi”. Theo tác giả Nguyễn Thạch Giang trong phần giới thiệu truyện thơ Nôm Nhị độ mai: “Nhị độ mai ra đời vào nửa đầu thế kỷ XIX sau Truyện Kiều và trước truyện Lục Vân Tiên”. 1.2.4. Bàn về giá trị truyện thơ Nôm NĐM Trong phần giới thiệu về tác phẩm truyện thơ Nôm NĐM, đồng tác giả Lê Trí Viễn – Hoàng Ngọc Phách đã đưa ra những dẫn chứng để chứng minh “Truyện thơ Nôm Nhị độ mai theo sát tiểu thuyết Hán văn của Trung Quốc nhưng có giá trị là một sáng tác độc lập”. Trong lời giới thiệu về truyện thơ Nôm Nhị độ mai (Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, H. 1988) tác giả Nguyễn Thạch Giang đã khẳng định tác phẩm đưa ta trở về với những giá trị truyền thống bền vững, 7 Riêng với truyện thơ Nôm Nhị độ mai tinh tuyển và Cải dịch Nhị độ mai truyện ,tác giả Lê Trí Viễn – Hoàng Ngọc Phách trong phần khảo luận về truyện thơ Nôm Nhị độ mai cũng đã cho rằng do khác nhau về nhận thức của người viết Nhị độ mai diễn ca và Nhị độ mai tinh tuyển nên cách xây dựng nhân vật có khác nhau. Tác giả cho rằng Nhị độ mai tinh tuyển và Cải dịch Nhị độ mai truyện không có giá trị bằng Nhị độ mai diễn ca. Tác giả Hoàng Thị Ngọ trong bài viết “Nhị độ mai tinh tuyển – một bản diễn âm Nôm có giá trị” đăng trên Thông báo Hán Nôm học năm 2009 đã giới thiệu sơ lược về tình hình văn bản diễn Nôm truyện Nhị độ mai. Đồng thời tác giả đã lưu ý đến bản diễn Nôm Nhị độ mai tinh tuyển. Tác giả đã chỉ ra trong Nhị độ mai tinh tuyển lời văn khá mượt mà, có sự ảnh hưởng của văn chương Truyện Kiều. Luận văn thạc sĩ của Trang Thu Quân tại Đài Loan, một số công trình nghiên cứu của Võ Thị Ngọc Thúy đã đề cập đến vấn đề các văn bản diễn Nôm Nhị độ mai nhưng sự khảo sát chưa phong phú và chưa có biện luận thuyết phục về quá trình truyền bản Nhị độ mai. Tiểu kết chƣơng 1: Trong chương này, chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu các quan niệm về “diễn Nôm” trong Văn học Trung đại Việt Nam. Đồng thời qua khảo sát cho thấy các tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai mới chỉ được trích dịch ở mức độ đơn lẻ. Người ta mới chỉ quan tâm dịch chú và bình phẩm về một văn bản tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai được phiên ra quốc ngữ từ văn bản Nhuận chính Trung hiếu tiết nghĩa Nhị độ mai truyện với ký hiệu AB.419 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tác giả mới chỉ khái quát hoá mà chưa hệ thống đầy đủ tư liệu, hoặc chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu một hệ thống văn bản diễn Nôm 8 Nhị độ mai. Kết quả biên soạn cũng như nghiên cứu chủ yếu có tính chất gợi mở và phác thảo. Luận án trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của người đi trước, tiếp tục nghiên cứu về hệ thống văn bản tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai ở mức độ sâu, hệ thống hơn. Chƣơng 2 HIỆN TRẠNG NGUỒN TƢ LIỆU VĂN BẢN DIỄN NÔM NHỊ ĐỘ MAI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC 2.1. Trữ lƣợng văn bản diễn Nôm Nhị độ mai Qua khảo sát ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Sử học, Thư viện Quốc gia Việt Nam, thư viện điện tử, một số kho sách trong dân gian, chúng tôi thống kê được có tất cả 13 bản diễn Nôm truyện Nhị độ mai, có thể phân thành 2 nhóm: - Nhóm 1 là các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai : 11văn bản (VNb.22, VNb.28, VNb.37, VNb.7, R464, R495, AB.419/bis, Yale 1.0004a.028, AB.419, AB.350, N.73) - Nhóm 2 là các bản diễn xướng Nhị độ mai: 2 văn bản (AB.451, Nhị độ mai diễn truyện) 2.2. Nguồn gốc các văn bản diễn Nôm NĐM ở Việt Nam Theo khảo sát của chúng tôi, Nhị độ mai ở Trung Quốc gồm có 2 loại: loại viết theo thể tiểu thuyết chương hồi và loại ca từ: Loại viết theo thể tiểu thuyết chương hồi gồm có 8 bản, loại viết theo thể ca từ gồm 1 bản. Khi đối chiếu Nhị độ mai Việt Nam với Nhị độ mai tiểu thuyết và Nhị độ mai ca bản của Trung Quốc chúng tôi thấy rằng: truyện thơ Nôm Nhị độ mai của Việt Nam chính là bắt nguồn từ tiểu thuyết chữ Hán Trung hiếu tiết nghĩa Nhị độ mai 忠 孝 節 義 二 度 梅 của Trung Quốc. Đồng thời, trong quá trình diễn Nôm cũng có hiện tượng bản sau bắt nguồn, học hỏi, diễn dịch từ bản diễn Nôm trước. 9 2.3. Chọn văn bản nền Thông qua việc khảo sát hệ thống văn bản diễn Nôm Nhị độ mai, chúng tôi chọn bản VNb.22 làm văn bản nền bởi những lí do sau: đây là văn bản có niên đại sớm nhất trong hệ thống các văn bản diễn Nôm Nhị độ mai diễn ca; cũng là bản đầy đủ, toàn vẹn, đảm bảo các điều kiện cho việc nghiên cứu văn bản học; tuy là một tác phẩm ra đời vào cuối thế kỷ XIX, nhưng văn bản VNb.22 còn bảo lưu khá nhiều mã chữ Nôm cổ, những từ ngữ cổ thường thấy ở các tác phẩm chữ Nôm thời Lê. Có những chữ nhất loạt được ghi theo kiểu chữ Nôm đời Lê và trước Lê. Hơn nữa, cũng như những tác phẩm văn học Nôm ra đời vào khoảng thế kỷ XIX trở về trước, văn bản Nhị độ mai diễn ca VNb.22 còn ghi lại khá nhiều từ Việt cổ. Theo đó, văn bản VNb.22 có những đặc điểm sau: 2.3.1. Văn bản VNb.22 có nhiều chữ khắc sai Những chức khắc sai, nhầm trong bản VNb.22 thường là những chữ có tự dạng tương đồng, hoặc gần giống với chữ khác, nên dễ gây nhầm lẫn cho thợ khắc. 2.3.2. Vết tích kỵ húy trong văn bản VNb.22 Do được khắc in dưới thời trị vị của vua Tự Đức, nên văn bản VNb.22 có sự kỵ húy theo quy định đương thời, tuy nhiên, dấu vết kỵ húy của văn bản VNb.22 là không thống nhất, không chặt chẽ và không tuân thủ nghiêm ngặt. 2.3.3. Chữ Nôm trong văn bản VNb.22 còn bảo lưu được nhiều lối viết cổ Trong quá trình phát triển, hầu như ở mỗi thời kỳ, chữ Nôm đều có những đặc trưng riêng. Tuy Nhị độ mai diễn ca là một tác phẩm ra đời vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, trên văn bản còn 10 thấy khá nhiều mã chữ Nôm cổ, những từ ngữ cổ thường thấy ở các tác phẩm chữ Nôm thời Lê. Sự tồn tại của những tổ hợp phụ âm KL, KR, ML là gắn liền với hệ thống ngữ âm thuần Việt từ thế kỷ XVIII trở về trước. Sang các thế kỷ tiếp theo, khi các tổ hợp phụ âm đầu đã hoàn toàn biến mất thì các chữ Nôm mang các tổ hợp phụ âm đầu đó cũng dần dần được cải cách. Các yếu tố khó hiểu, rườm rà đối với người đời sau sẽ bị lược bớt và thay bằng các yếu tố mới dễ hiểu, phù hợp hơn. 2.3.4. Tình hình từ cổ trong Nhị độ mai diễn ca VNb.22 Dựa vào từ điển Nôm cổ chúng tôi đã thống kê được 66 từ cổ. Điều đó chứng tỏ rằng trong Nhị độ mai diễn ca dù sáng tác ở thế kỷ XIX nhưng vẫn bảo lưu được những từ cổ của tiếng Việt. Đây cũng là một cứ liệu quan trọng giúp người nghiên cứu có cái nhìn đúng đắn khi nghiên cứu quá trình phát triển của tiếng Việt. Lớp từ cổ trong Nhị độ mai diễn ca cũng khá phong phú, gồm khá nhiều loại như: danh từ, động từ, tính từ, hư từđến nay hầu như không còn thấy xuất hiện trong các văn bản thành văn nữa. 2.4. Vấn đề tác giả và niên đại các tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai Vấn đề tác giả các truyện thơ Nôm Nhị độ mai Tác giả của Nhị độ mai diễn ca có 2 giả thuyết đưa ra là Lý Văn Phức và Đặng Huy Trứ. Tuy không có bằng chứng chính xác, cụ thể nhưng nếu chắp nối các sự kiện lẻ tẻ như: Chức Bình Chuẩn ghi trong lời chú của A. Landes và chức Bình Chuẩn của Đặng Huy Trứ trong Đại Nam chính biên liệt truyện, chức Giám sát Ngự sử của 11 Đặng Huy Trứ và việc ông hạch tội Nguyễn Luận, các tác phẩm Hán văn có màu sắc luân lý Nho gia của Đặng Huy Trứ, những câu thơ trong Nhị độ mai chứng tỏ tác giả là người miền Trung và có lẽ đã có dịp qua Dương Châu, hoặc chứng kiến cảnh giao thương sầm uất ở các trung tâm đô thị, trung tâm thương mại của Việt Nam thế kỷ XIX. Tất cả những dẫn chứng trên chứng tỏ thuyết của A. Landes và Hoàng Xuân Hãn có sức thuyết phục. Nhị độ mai tinh tuyển có đề tên người chép là Song Đông Ngâm Tuyết Đường. Mặc dù vậy, các tra cứu không cho ra kết quả nào về cái tên này. Do đó, các thông tin về tên tuổi, quê quán, hành trạng của nhân vật này tạm thời bỏ ngỏ. Tác giả của Cải dịch Nhị độ mai truyện là Thiện Đình Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng(鄧春榜, 1828-1910) tự là Hy Long, hiệu là Thiện Đình, là quan nhà Nguyễn và đồng thời cũng là một nhà sử học Việt Nam. Các tác phẩm chính của Đặng Xuân Bảng gồm có 21 sách, gồm cả sách do Đặng Xuân Bảng viết và phê duyệt ở đủ các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lí, bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Vấn đề niên đại của các truyện thơ Nôm Nhị độ mai Niên đại của bản in sớm nhất hiện còn là bản được in năm 1875 tại Chợ Lớn. Các nhà văn học sử Việt Nam đã có những phỏng đoán về niên đại ra đời của tác phẩm này. Chúng tôi chọn giả thuyết của nhà nghiên cứu Nguyễn Thạch Giang : Nhị độ mai ra đời vào nửa đầu thế kỷ XIX sau Truyện Kiều và trước truyện Lục Vân Tiên. Cải dịch Nhị độ mai truyện do Đặng Xuân Bảng (1828-1910) biên soạn. Theo đó, có thể thấy tác phẩm này ra đời vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. 12 Nhị độ mai tinh tuyển do Song Đông Ngâm Tuyết Đường soạn năm Đồng Khánh thứ 2 tức năm 1887, chắc rằng xuất hiện sau Nhị độ mai diễn ca. Tiểu kết chƣơng 2: Hệ thống văn bản tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai rất phong phú về thể loại và cả số lượng văn bản. Chúng tôi hiện thấy có tới 13 văn bản diễn Nôm Nhị độ mai ở cả 2 thể loại là truyện thơ Nôm và diễn xướng. Chúng tôi lựa chọn văn bản Nhị độ mai diễn ca VNb.22 làm bản nền cho hệ thống các văn bản Nhị độ mai diễn ca. Qua khảo sát văn bản nền VNb.22, chúng tôi đã chỉ ra những đặc điểm của văn bản này về chữ kỵ húy, những chữ khắc in sai, lối viết cổ và đặc biệt nhấn mạnh vào hệ thống từ Việt cổ trong văn bản này. Trong chương này chúng tôi cũng đã đặt vấn đề nguồn gốc các bản diễn Nôm Nhị độ mai. Qua đối chiếu cho thấy Nhị độ mai Việt Nam bắt nguồn từ bản tiểu thuyết Trung hiếu tiết nghĩa Nhị độ mai truyện – một tiểu thuyết nổi tiếng của Trung Quốc. Đồng thời, trong quá trình diễn Nôm cũng có hiện tượng bản sau bắt nguồn, học hỏi, diễn dịch từ bản diễn Nôm trước. Luận án cũng đưa ra một số lí giải về vấn đề tác giả và niên đại các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai. Chƣơng 3 XÁC LẬP QUÁ TRÌNH TRUYỀN BẢN CỦA CÁC VĂN BẢN DIỄN NÔM NHỊ ĐỘ MAI 3.1. Quá trình truyền bản của các văn bản Nhị độ mai diễn ca 3.1.1. Khảo dị các văn bản Nhị độ mai diễn ca Thông qua quá trình khảo dị các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca, chúng tôi rút ra một số đặc điểm sau: 13 Các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca có sự thống nhất nhau. Tất cả các bản khắc in và sao chép đều dựa vào bản nền VNb.22, và về cơ bản đều tuân thủ theo bản nền, do đó giữa các văn bản có sự thống nhất về tên gọi, thống nhất về cấu trúc văn bản: Từ trang bìa, nhan đề tác phẩm, thông tin nơi in ấn, nơi tàng bảng, niên đại thành thư, rồi đến sự phân chia bên trong nội dung chính về cơ bản vẫn thống nhất giữa các văn bản. Các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca có sự kế thừa nhau. Tính kế thừa trong hệ thống các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai thể hiện ở đặc điểm là các văn bản khắc in lại đều dựa theo bản nền VNb.22, nhưng kế thừa những ưu điểm của văn bản này, mà khắc phục những nhược điểm, những từ ngữ sai nhầm để văn bản được hoàn thiện hơn. Các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca có sự hoàn thiện hơn trong quá trình truyền bản. Sự hoàn thiện trong quá trình truyền bản đặc điểm nổi bật nhất giữa các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca. Văn bản VNb.22 do khắc in lần đầu nên đã tồn tại một số nhược điểm, khiến cho văn bản chưa thật sự hoàn thiện, thể hiện ở 3 phương diện: Về hình thức khắc in; về cấu trúc chữ Nôm; và về vấn đề từ ngữ. Các bản khắc in, nhuận chính, tân truyện về sau đã khắc phục dần những nhược điểm từ bản nền VNb.22, khiến cho hệ thống văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai trở nên hoàn thiện hơn. Thông qua bảng khảo dị những dị văn ở các văn bản Nhị độ mai diễn ca, chúng tôi nhận thấy rằng, mặc dù giữa các bản truyện thơ Nhị độ mai diễn ca có sự thống nhất với nhau, nhưng vẫn tồn tại 14 những dị văn. Những dị văn này chủ yếu là sự khác biệt về các bộ phận biểu ý trong cấu trúc chữ Nôm. Nếu ở bản nền VNb.22, chữ Nôm thiên về xu hướng sử dụng chữ Nôm đơn, các bộ phận (cả biểu âm và biểu ý) trong chữ thường có xu hướng viết giản lược, bớt nét. Nhưng ở các bản in sau, đặc biệt ở 3 bản R.495, Nhuận chính và Tân truyện, thì loại hình chữ Nôm ghép (tức loại chữ Nôm tự tạo) có xu hướng tăng lên, và các bộ phận (cả biểu âm và biểu ý) lại có xu hướng viết đầy đủ tự thể. Ngoài ra, dị văn giữa các bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca còn có sự khác biệt hình thể do dùng chữ dị thể, tục thể, chữ thông tự. Nhìn chung, cấu trúc chữ Nôm ở các bản khắc in và nhuận chính sau thường đi theo xu hướng tăng dần lên loại hình chữ Nôm tự tạo, chữ biểu thị âm đọc chính xác hơn, phạm vi chỉ nghĩa cụ thể hơn, rõ ràng hơn, điều đó cũng phù hợp với quy luật phát triển của chữ Nôm, là càng về giai đoạn sau thì chữ Nôm tự tạo càng tăng lên, xu hướng biểu âm chính xác, cụ thể càng tăng lên so với giai đoạn trước. Về vấn đề từ ngữ: Vấn đề từ ngữ là một sự thay đổi và khác biệt khá rõ, thể hiện xu hướng hoàn thiện của các văn bản thuộc nhóm truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca. Bản in sớm nhất là bản VNb.22, dĩ nhiên với một bản in lần đầu khó tránh khỏi những sai sót, nhầm lẫn trong việc dùng từ, đặt câu, nhiều từ ngữ không hay, không mượt mà... Những nhược điểm đó ở bản nền VNb.22 đã được các bản in sau, đặc biệt là ở hai bản Nhuận chính và Tân truyện khắc phục, nhuận chính, trau chuốt lại, khiến cho lời thơ trở nên mượt mà hơn, âm điệu trong sáng hơn. 15 3.1.2. Xác lập quá trình truyền bản của các văn bản Nhị độ mai diễn ca Thông qua quá trình khảo sát trên đây, chúng tôi sẽ xác lập sơ đồ truyền bản của các văn bản diễn Nôm Nhị độ mai diễn ca như sau: Sơ đồ 3.1: Sơ đồ truyền bản các văn bản Nhị độ mai diễn ca 3.3. Quá trình truyền bản của các văn bản Nhị độ mai tinh tuyển, Cải dịch Nhị độ mai truyện, Nhị độ mai trò, Nhị độ mai diễn truyện Trong hệ thống các văn bản diễn Nôm Nhị độ mai, bản in sớm nhất của truyện thơ Nôm Nhị độ mai là bản khắc in năm 1876 (ký hiệu VNb.22). Từ văn bản này đã xuất hiện nhiều văn bản diễn Nôm Nhị độ mai khác với những đặc điểm khác nhau: Văn bản R.495 chính là bản khắc in lại, có nhuận chính những chữ sai nhầm từ bản VNb.22, văn bản này đã khắc in chữ Nôm đẹp, rõ R.49 5 ) VNb. 28 AB.419 /bis (19 07) Tân truyện R.464 VNb. 37 Tiểu thuyết Trung hiếu tiết nghĩa Nhị độ mai VNb.22 (1876) VNb.7 16 ràng, các chữ Nôm viết tắt, viết giản lược ở văn bản VNb.22 đã được bản R.495 “chuận chính” lại rõ ràng, đầy đủ hơn. Văn bản Nhuận chính Trung hiếu tiết nghĩa Nhị độ mai truyện Ab.419/bis không chỉ nhuận chính lại toàn bộ những chữ khắc in sai nhầm của VNb.22, đồng thời còn nhuận chính lại những chữ không hay, chưa hay, ý nghĩa sai hoặc không rõ từ bản VNb.22. Ngoài ra, bản Ab.419/bis đã bổ sung phần nguyên truyện bằng việc cho khắc in nguyên truyện ở tầng trên của mỗi trang in. Có thể khẳng định rằng, văn bản Ab.419/bis là một văn bản có nhiều ưu điểm vượt trội về mặt văn chương, văn tự so với bản VNb.22, giúp cho văn bản diễn Nôm NĐM “hoàn toàn lột xác” so với bản in lần đầu 1876. Nhị độ mai tân truyện là bản khắc in lại Nhuận chính (Ab.419/bis). Nhưng phần nguyên truyện ở bản Nhuận chính đã được bản Tân truyện dịch sang chữ Quốc ngữ. Toàn bộ các bài thơ ở đầu truyện trong văn bản Nhuận chính đều được bản Tân truyện dịch sang chữ Quốc ngữ. Sự xuất hiện của văn bản Tân truyện cho thấy xu hướng của quá trình truyền bản các văn bản diễn Nôm Nhị độ mai luôn đi theo xu hướng thời đại, phù hợp với lịch sử, văn hóa, văn học dân tộc khi đưa chữ quốc ngữ vào văn bản. Xen giữa quá trình truyền bản giữa hai bản Nhuận chính và Tân truyện là sự xuất hiện của bốn văn bản: Nhị độ mai tinh tuyển (AB.350) Nhị độ mai trò (AB.451), Cải dịch Nhị độ mai truyện (AB.419) và Nhị độ mai diễn truyện (sưu tập cá nhân, không có ký hiệu). Nhưng bốn văn bản này lại đi theo một xu hướng khác so với các bản khác, đó là xu hướng “diễn dịch”. So với Truyện Kiều, tuy 17 Nhị độ mai không có quá trình diễn dịch đa dạng bằng, nhưng với ba văn bản nêu trên cũng cho thấy tính hấp dẫn của truyện Nhị đọ mai với độc giả - khán giả đương thời, và bộ Nhị độ mai diễn truyện đồ sộ với 6 hồi cho thấy Nhị độ mai cũng đã có một dấu ấn quan trọng trong dòng văn học diễn xướng. Các văn bản VNb.28, VNb.37, R.464 được khắc in và sao chép muộn nhất trong hệ thống các văn bản diễn Nôm Nhị độ mai (đều từ những năm 20 thế kỷ XX trở về sau), song qua khảo sát thì cả 3 văn bản này chỉ là những bản sao chép và khắc in lại từ bản VNb.22 mà thôi. Sự xuất hiện của những văn bản này trong xu hướng bối cảnh xã hội đương thời chính là nhằm bảo tồn vốn văn hóa cổ, phục vụ cho tầng lớp độc giả mới, phục vụ văn hóa đọc truyện Nôm đương thời, khi mà các quy định về việc thưởng thức văn học Nôm không còn khắt khe ràng buộc như những năm giữa thế kỷ XIX trở về sau. Thông qua các kết quả khảo sát, chúng tôi đưa ra sơ đồ truyền bản cho các văn bản diễn Nôm Nhị độ mai. Qua sơ đồ truyền bản chúng ta dễ dàng nhận thấy quá trình truyền bản của hệ thống văn bản Nhị độ mai được chia thành 3 nhánh, mà chúng tôi tạm định danh là “nhánh trùng san”, “nhánh nhuận chính” và “nhánh diễn xướng”. Cả ba nhánh này đều khiến cho quá trình truyền bản của hệ văn bản Nhị độ mai trở nên phức tạp hơn, đa dạng hơn, nhưng cũng trở nên hoàn thiện hơn, phong phú hơn, rộng rãi hơn. Và đó cũng là quy luật chung trong quá trình truyền bản của những tác phẩm văn học nổi tiếng (như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Hoa tiên nhuận chính....) trong dòng văn học Trung đại Việt Nam. 18 19 Tiểu kết chƣơng 3: Để xác định quá trình truyền bản của hệ thống các văn bản truyện thơ Nôm Nhị độ mai diễn ca, chúng tôi đã tiến hành khảo dị các văn bản Nhị độ mai diễn ca và thấy rằng giữa các bản truyện thơ Nhị độ mai diễn ca có sự thống nhất với nhau, nhưng vẫn tồn tại những dị văn. Những dị văn này chủ yếu là sự khác biệt về các bộ phận biểu ý trong cấu trúc chữ Nôm. Về từ ngữ, bản in sớm nhất là bản VNb.22 khó tránh khỏi những sai sót, nhầm lẫn trong việc dùng từ, đặt đâu, nhiều từ ngữ không hay, không mượt mà... Những nhược điểm đó ở bản nền VNb.22 đã được các bản in sau, đặc biệt là ở hai bản Nhuận chính và Tân truyện khắc phục, trau chuốt lại, khiến cho lời thơ trở nên mượt mà hơn. Thông qua đối chiếu các tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai gồm có ba truyện Nôm, một vở chèo, một vở tuồng, chúng tôi nhận thấy các văn bản này đều có ảnh hưởng soi chiếu, học tập, kế thừa lẫn nhau. Luận án đã thiết lập sơ đồ truyền bản của hệ thống văn bản tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai. Từ bản nền Nhị độ mai diễn ca VNb.22 nếu dựa vào quá trình truyền bản thì các văn bản diễn Nôm Nhị độ mai ĐM có thể chia thành 3 nhánh: nhánh trùng san (gồm VNb.38, VNb.28, R.464), nhánh nhuận chính (gồm R.495, AB.419/bis và Yale 100044.028), nhánh thứ 3 là nhánh diễn dịch (bao gồm Nhị độ mai tinh tuyển AB.350, Cải dịch Nhị độ mai truyện AB.419, Nhị độ mai trò AB.451 và Nhị độ mai diễn truyện). 20 CHƢƠNG 4 GIÁ TRỊ VÀ VỊ THẾ CỦA CÁC TÁC PHẨM DIỄN NÔM NHỊ ĐỘ MAI QUA VIỆC NGHIÊN CỨU VĂN BẢN 4.1. Hình thức nghệ thuật 4.1.1. Về thể tài Sự dị biệt căn bản giữa hai tác phẩm tiểu thuyết chữ Hán Trung hiếu tiết nghĩa Nhị độ mai và truyện thơ Nôm Nhị độ mai về thể tài đã tạo ra một số những khác biệt giữa hai tác phẩm. Nhị độ mai Việt Nam lại viết theo thể văn vần. Thể tài này với những ràng buộc, câu thúc về âm vận, với những giới hạn về khuôn khổ khiến tác giả rất khó đi sâu vào nhiều chi tiết. Sự khó khăn đó buộc tác giả phải khéo léo lựa chọn để chỉ gạn lọc lấy những chi tiết độc đáo và có ý nghĩa. Chính vì vậy mà thể văn này dễ làm nổi bật được những chi tiết chính, dễ cô đọng được những phần quan trọng của tác phẩm. 4.1.2. Về cách xây dựng nhân vật Từ những nội dung, nhân vật mượn từ bản tiểu thuyết chữ Hán, nhờ khéo léo sửa chữa các sơ hở, khuyết điểm, nhờ thêm một vài sắc thái cá biệt lý thú, và nhất là chú ý tới chiều sâu tâm lý, các tác giả Việt Nam đã khiến cho các nhân vật trong truyện thơ Nôm Nhị độ mai trở nên sống động và vượt hẳn các nhân vật trong bản tiểu thuyết gốc. 4.1.3. Ngôn ngữ thể hiện Lời thơ trong Nhị độ mai diễn ca tuy chưa đạt đến mức tuyệt diệu nhập thần và đôi khi còn dễ dãi, dù vậy ở nhiều chỗ lời văn của Nhị độ mai cũng rất chải chuốt, khéo léo, cô đọng nhờ vào việc sử dụng các điển cố, điển tích, vận dụng ca dao tục ngữ và lối nói bình dân nên rất gần gũi với bạn đọc.Trong 3 truyện thơ Nôm Nhị độ mai Việt Nam thì Cải dịch Nhị độ mai truyện của Đặng Xuân Bảng là tác 21 phẩm có mặt độ sử dụng điển cố, điển tích nhiều hơn cả, ngôn từ bóng bẩy. Tác phẩm này rất có giá trị về mặt văn chương. Nhị độ mai tinh tuyển thiên về lối điệp cú pháp và sử dụng từ thuần Việt thay vì dùng từ Hán Việt hay các điển cố. Có thể thấy đây là những cách tân mới mẻ của tác giả đối với thể loại. 4.2. Giá trị nội dung tƣ tƣởng 4.2.1. Nêu cao tấm gương trung hiếu tiết nghĩa Giá trị luân lý về trung hiếu tiết nghĩa của Nhị độ mai Việt Nam hoàn hảo hơn so với bản tiểu thuyết vì đã sửa chữa được một số sơ hở về phương diện đạo đức trong tiểu thuyết. Nhị độ mai là câu chuyện trung hiếu tiết nghĩa,mỗi tấm gương nhân phẩm lại gắn với hình ảnh những nhân vật cụ thể. Chẳng hạn Mai Bá Cao tiêu biểu cho tấm gương về trung, Mai Lương Ngọc là tấm gương hiếu nghĩa, Hạnh Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_nghien_cuu_van_ban_tac_pham_dien_nom_nhi_do.pdf
Tài liệu liên quan