Nhận thức về ngoại giao văn hóa chưa thực sự đầy đủ, đồng nhất
ở các cấp, các ngành; chưa hình thành được cơ chế chỉ đạo và phối
hợp giữa các ban, bộ, ngành và địa phương; còn thiếu sự điều phối,
chỉ đạo ở tầm quốc gia, thiếu một kế hoạch trung và dài hạn tổng thể
ở quy mô cả nước; chưa gắn kết chặt chẽ ngoại giao văn hóa với hội
nhập quốc tế; địa bàn hoạt động ngoại giao văn hóa còn hẹp; hoạt
động ngoại giao văn hóa ở từng địa bàn không duy trì được ở mức độ
thường niên; chất lượng hoạt động ngoại giao văn hóa chưa cao; còn
chậm thành lập mới các Trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài;
ứng dụng công nghệ hiện đại vào ngoại giao văn hóa còn yếu; chất
lượng nguồn nhân lực làm công tác ngoại giao văn hóa còn hạn chế;
công tác quản lý việc giới thiệu văn hóa nước ngoài tại Việt Nam còn
chưa chặt chẽ
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 02/03/2022 | Lượt xem: 859 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế đương đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều
có những điều chỉnh cơ bản trong chính sách đối ngoại, cũng như
6
xuất hiện nhiều yếu tố tác động đến đời sống chính trị quốc tế. Đặc
biệt, ở trong nước, kể từ khi bắt tay vào công cuộc Đổi mới, nhất là
từ khi bước sang Thiên niên kỷ mới, với những thay đổi mạnh mẽ
của tình hình thế giới, với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế thì
vấn đề nghiên cứu ngoại giao văn hóa nhằm phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng trở nên cấp thiết. Trong lúc
đó, hiện tại vẫn còn quá ít ỏi những công trình nghiên cứu về vấn đề
này một cách cụ thể từ góc nhìn của Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu chủ yếu của luận án là làm rõ vị trí và hoạt
động của ngoại giao văn hóa trên thế giới trong quan hệ quốc tế
đương đại, nghiên cứu ngoại giao văn hóa của một số chủ thể quốc
tế, dự báo triển vọng của ngoại giao văn hóa trên thế giới, từ đó đề
xuất một số kiến nghị cho Việt Nam nhằm tăng cường hơn nữa hiệu
quả của ngoại giao văn hóa Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là hoạt động ngoại giao văn
hóa trong quan hệ quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu: Về ngoại giao văn hóa trên thế giới, luận án
đặt khung thời gian từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Về khung địa
lý: luận án tập trung nghiên cứu chính sách và thực tiễn hoạt động
ngoại giao văn hóa của Pháp, Mỹ, Trung Quốc và của Hàn Quốc -
quốc gia có nhiều nét tương đồng về văn hóa-xã hội với Việt Nam.
Đối với Việt Nam: Từ sau Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là làm rõ thực
trạng ngoại giao văn hóa kể từ Hội nghị Ngoại giao lần thứ 25 năm
2006 đến nay, làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác ngoại giao văn hóa của đất nước trong thời gian tới.
7
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế kết
hợp với các phương pháp nghiên cứu truyền thống và liên ngành,
trong đó có phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp
phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống, phương pháp phân tích
thực tiễn và so sánh nhằm làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn ngoại
giao văn hóa trong chính sách đối ngoại của một số nước trên thế
giới; đồng thời phân tích, luận giải hoạt động ngoại giao văn hóa
trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời gian qua.
6. Đóng góp của Luận án
Luận án góp phần hệ thống hóa và đưa ra một cách nhìn tổng
quan từ góc độ Việt Nam về ngoại giao văn hóa trên thế giới trong
mối tương quan với quan hệ quốc tế; làm rõ hơn những tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước về ngoại
giao văn hóa; phân tích khoa học về chính sách và thực tiễn ngoại
giao văn hóa của một số nước trong quan hệ quốc tế; dự báo xu
hướng phát triển của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế; phân
tích, đánh giá thực trạng ngoại giao văn hóa Việt Nam thời gian qua,
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao
văn hóa của Việt Nam trong tình hình mới.
Đối với Việt Nam, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong giảng dạy và nghiên cứu về ngoại giao văn hóa. Ở một góc độ
nhất định, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các nhà hoạch định và thực thi chính sách nhằm nâng
cao hiệu quả công tác ngoại giao văn hóa thời gian tới.
8
7. Kết cấu của Luận án: Luận án gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về ngoại giao văn hóa: Phân
tích những khái niệm cơ bản, tạo cơ sở, khuôn khổ lý luận làm định
hướng nghiên cứu ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế, gồm:
quyền lực mềm, văn hóa, giao lưu và tiếp biến văn hóa, văn hóa đối
ngoại, ngoại giao văn hóa. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về ngoại giao văn hóa.
Chương 2. Ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế từ sau
Chiến tranh Lạnh đến nay: Phân tích những yếu tố tác động, đặc
điểm, vai trò và xu hướng của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc
tế; chính sách và thực tiễn ngoại giao văn hóa của một số nước từ sau
Chiến tranh Lạnh như Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc.
Chương 3. Ngoại giao văn hóa Việt Nam - Thực trạng và một
số kiến nghị : Phân tích quá trình hình thành, những thành tựu, hạn
chế của ngoại giao văn hóa Việt Nam từ sau Chiến tranh Lạnh, đặc
biệt là từ khi được chính thức nhìn nhận là một trong ba trụ cột của
nền ngoại giao hiện đại Việt Nam tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 25
năm 2006 đến nay; một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả công tác ngoại giao văn hóa của Việt Nam thời gian tới.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI GIAO VĂN HÓA
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Quyền lực mềm
Quyền lực mềm là khả năng tác động thông qua sự hấp dẫn và sức
thuyết phục để người khác làm theo những gì mình muốn. Quyền lực
mềm được xây dựng trên nền tảng văn hóa, các giá trị chính trị và
chính sách của quốc gia. Một số học giả cho rằng cần bổ sung thêm
9
những thành tố hữu dụng khác như hình ảnh, uy tín của đất nước, khả
năng lãnh đạo, nhất là khả năng thuyết phục của những người thực
thi quyền lực, mức độ cởi mở của xã hội, sức hấp dẫn của nền văn
hóa Quyền lực mềm của một quốc gia là sự kết tinh từ những giá
trị cốt lõi, tinh hoa của nền văn hóa quốc gia đó. Quyền lức mềm chỉ
phát huy hiệu quả trong quan hệ quốc tế khi được truyền bá ra thế
giới bên ngoài. Đây chính là nền tảng cơ sở để ngoại giao văn hóa
hình thành và phát triển, trở thành một hoạt động không thể thiếu
trong đời sống chính trị quốc tế.
1.1.2. Văn hóa
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tuy
nhiên, luận án không đặt mục đích đi tìm một định nghĩa mới về văn
hóa, mà sử dụng định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc,
ở và các phương thức sử dụng Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó chính là văn hóa”. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng luận
điểm trong Tuyên bố toàn cầu về Đa dạng văn hóa của UNESCO
năm 2001 để luận giải thêm những phân tích trong luận án.
1.1.3. Giao lưu và tiếp biến văn hóa
Giao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ
biến của xã hội loài người. Giao lưu văn hóa là sự tiếp xúc và trao đổi
qua lại trong một quá trình lâu dài, trực tiếp giữa hai nền văn hóa của
hai cộng đồng người khác nhau. Giao lưu văn hóa là sự vận động
thường xuyên của văn hóa. Nó không chỉ là động lực phát triển của
văn hóa mà còn là động lực của sự tiến hóa của xã hội. Giao lưu văn
hóa là sự bổ sung các giá trị văn hóa giữa các dân tộc. Giao lưu văn
10
hóa có vai trò rất quan trọng đối với mỗi nền văn hóa, là quy luật tất
yếu mà không một nền văn hóa nào có thể đứng ngoài. Đây là một
trong những nguyên nhân thúc đẩy ngoại giao văn hóa.
1.1.4. Văn hóa đối ngoại
Văn hóa đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối
ngoại của mỗi quốc gia, bên cạnh các chính sách về chính trị đối
ngoại, kinh tế đối ngoại, là đường lối chính sách và hoạt động thực
tiễn để thực hiện các mục tiêu của chính sách đối ngoại. Văn hóa đối
ngoại là các chủ trương đường lối, chính sách, chiến lược, kế hoạch
và các hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa mà một quốc gia thực
hiện hướng ra thế giới bên ngoài nhằm quảng bá các giá trị văn hóa
dân tộc ra thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.1.5. Ngoại giao văn hóa
Trên thế giới còn nhiều cách hiểu khác nhau về ngoại giao văn
hóa: “Là những phương thức mà một quốc gia sử dụng để quảng bá
các giá trị văn hóa và chính trị ra thế giới” (Viện Ngoại giao văn hóa,
Đức), “Là sự giao lưu những tư tưởng, trao đổi thông tin, nghệ thuật,
lối sống, hệ giá trị, truyền thống, tín ngưỡng và các phương diện khác
của văn hóa nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia và
dân tộc” (Milton C. Cummings Jr.), “Là một hình thức ngoại giao
nhấn mạnh tới sự thừa nhận văn hóa và hiểu biết lẫn nhau như là một
cơ sở của đối thoại” (Simeon Adebolu),
Ở Việt Nam cũng chưa có một khái niệm chung nhất về ngoại
giao văn hóa mặc dù đã có nhiều hội thảo bàn về vấn đề này. Qua
nghiên cứu nội hàm của ngoại giao văn hóa và quan điểm của một số
học giả trong và ngoài nước, luận án xây dựng khái niệm: “Ngoại
giao văn hóa là hình thức ngoại giao, do nhà nước làm chủ đạo, điều
phối, với sự tham gia của nhiều chủ thể phi nhà nước khác trong xã
11
hội, thể hiện qua sự quảng bá, giới thiệu, giao lưu các giá trị văn
hóa, văn học, nghệ thuật, phong tục, tập quán, tín ngưỡng và các
phương diện khác của văn hóa giữa một quốc gia với một hoặc nhiều
quốc gia khác trên thế giới, nhằm đạt được những mục tiêu của chính
sách đối ngoại của đất nước”..
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về ngoại giao văn hóa
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao văn hóa
Nghiên cứu tư tưởng của Người có thể thấy toát lên những luận
điểm sâu sắc về ngoại giao văn hóa. Người chỉ rõ, văn hóa phải làm
cho thế giới hiểu thêm về sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt
Nam; muốn làm tốt ngoại giao văn hóa, trước hết phải xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng;
ngoại giao văn hóa là hiểu rõ văn hóa thế giới, tiếp thu tinh hoa văn
hóa thế giới làm giàu văn hóa Việt Nam; ngoại giao văn hóa là không
ngừng kế thừa, phát huy truyền thống đối ngoại của dân tộc, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại của đất nước; ngoại giao văn hóa
là giữ gìn bản sắc văn hóa trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài, gắn kết kiều bào với quê hương, đất nước; ngoại giao văn hóa
là tôn trọng và trân trọng giá trị văn hóa của các dân tộc khác.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về ngoại giao văn hóa
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định văn hóa là nhân tố then chốt
làm nên sức mạnh toàn dân tộc, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển của đất nước, khẳng định vai trò quan trọng của văn
hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoại giao văn hóa
giữ vai trò quan trọng trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế,
góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, gắn với tiếp thu tinh
hoa văn hóa thế giới để làm giàu, làm phong phú văn hóa dân tộc. Giữ
12
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chính là nâng cao bản lĩnh, trí
tuệ văn hóa Việt Nam trong hội nhập, tiếp biến tinh hoa văn hóa thế
giới. Ngoại giao văn hóa là một trong các công cụ quan trọng để thực
hiện các nhiệm vụ của công tác đối ngoại. Ngoại giao văn hóa phải góp
phần thực hiện tốt công tác về người Việt Nam ở nước ngoài.
CHƯƠNG 2
NGOẠI GIAO VĂN HÓA TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY
2.1. Những nhân tố tác động, vai trò, đặc điểm và xu hướng phát
triển của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế
2.1.1. Những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa trong quan
hệ quốc tế
2.1.1.1. Xu hướng hợp tác và hội nhập quốc tế
Hợp tác, hội nhập quốc tế để phát triển trở thành xu thế dẫn dắt
trong quan hệ quốc tế, đòi hỏi các nước điều chỉnh chính sách, tăng
cường đối thoại, trao đổi, giao lưu, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa
nhằm thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau, xây dựng, củng cố lòng tin, tạo
dựng môi trường hòa bình, ổn định, an toàn, thân thiện mến khách để
thúc đẩy quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế, thương mại, thu hút
đầu tư và du lịch.
2.1.1.2. Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa vừa mang lại những thuận lợi, vừa mang lại những
thách thức to lớn đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển,
trong đó có thách thức về văn hóa. Các quốc gia đẩy mạnh ngoại giao
văn hóa để bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trước vòng xoáy và trước
những tác động của toàn cầu hóa, nhất là trước nguy cơ “xâm lăng
văn hóa”, đồng thời tận dụng điều kiện thuận lợi của toàn cầu hóa để
13
nâng cao hình ảnh, sức hấp dẫn, thúc đẩy phát triển kinh tế, mở rộng
quan hệ thương mại, đầu tư, hợp tác, thu hút khách du lịch.
2.1.1.3. Cách mạng khoa học và công nghệ
Cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin,
tác động mạnh mẽ đến ngoại giao văn hóa, làm thay đổi căn bản hình
thức và nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại giao văn hóa.
2.1.1.4. Các vấn đề an ninh phi truyền thống
Các vấn đề an ninh phi truyền thống đang đặt ra cho tất cả các
quốc gia trên thế giới yêu cầu cấp bách trong đẩy mạnh hợp tác để
cùng giải quyết, trong đó một số vấn đề an ninh phi truyền thống có
tác động đến ngoại giao văn hóa, nhất là những vấn đề như khủng bố,
xung đột sắc tộc và tôn giáo, di cư,... Ngoại giao văn hóa là một trong
những giải pháp tích cực trong xây dựng và củng cố lòng tin, nâng
cao hiểu biết lẫn nhau, qua đó thúc đẩy hợp tác cùng giải quyết.
2.1.2. Vai trò của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế
Ngoại giao văn hóa góp phần củng cố và làm sâu sắc mối quan
hệ ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tăng
cường hiểu biết lẫn nhau, gia tăng sự gắn kết và củng cố lòng tin,
qua đó góp phần gìn giữ hòa bình, ổn định và hợp tác trên thế giới;
gắn kết chặt chẽ và làm sâu sắc hơn hợp tác đa phương; góp phần
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quan hệ quốc tế;
đóng góp xây dựng hệ giá trị văn hóa chung của nhân loại, tôn
trọng bản sắc văn hóa và đa dạng văn hóa, thúc đẩy sự phát triển
của các nền văn hóa trên thế giới; hỗ trợ cho ngoại giao chính trị và
ngoại giao kinh tế; nâng cao và củng cố quyền lực mềm của quốc
gia trên trường quốc tế.
14
2.1.3. Một số đặc điểm của ngoại giao văn hóa trong quan hệ
quốc tế đương đại
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong triển khai thực hiện công tác
ngoại giao văn hóa, với công cụ hữu hiệu nhất là các trung tâm văn
hóa ở nước ngoài. Bên cạnh đó, do tính đặc thù của ngoại giao văn
hóa, ngày càng có nhiều chủ thể tham gia vào ngoại giao văn hóa.
Một trong những mục tiêu được các nước quan tâm nhất là phổ quát
văn hóa và ngôn ngữ quốc gia ra thế giới. Ngoại giao văn hóa là quá
trình tương tác hai chiều, có đi có lại, với đối tượng tác động chính
yếu là nhân dân, nhất là giới trẻ của các nước. Ngoại giao văn hóa là
hoạt động đòi hỏi tính thường xuyên, liên tục và dài lâu.
2.1.4. Xu hướng phát triển của ngoại giao văn hóa trong quan hệ
quốc tế
Ngoại giao văn hóa tiếp tục là phương thức ngoại giao hiệu quả
trong quan hệ quốc tế hiện đại, thu hút sự quan tâm của các chủ thể
của quan hệ quốc tế, nhất là các quốc gia. Bên cạnh ngoại giao văn
hóa song phương, các quốc gia sẽ đẩy mạnh ngoại giao văn hóa qua
các cơ chế hợp tác đa phương bởi tính hiệu quả của nó cũng như xu
thế phát triển của hợp tác đa phương trên thế giới.
2.2. Ngoại giao văn hóa trong chiến lược đối ngoại của một số
quốc gia trên thế giới
2.2.1. Ngoại giao văn hóa Cộng hòa Pháp
Mục tiêu ngoại giao văn hóa Pháp gồm: (i) truyền bá văn hóa và
ngôn ngữ Pháp ra thế giới; (ii) nâng cao nhận thức về văn hóa Pháp
và văn hóa Cộng đồng Pháp ngữ; (iii) thúc đẩy đa dạng văn hóa trên
thế giới. Để thực hiện chính sách này, Pháp có mạng lưới khổng lồ
gồm các cơ quan đại diện, các viện trao đổi văn hóa (Alliance
Française) và các trung tâm văn hóa ở nước ngoài (The Institut
français) để thực hiện nhiệm vụ. Song song với triển khai ở nước
ngoài, Pháp rất quan tâm đến các hoạt động ngoại giao văn hóa ở
15
trong nước với việc tổ chức nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa, thể thao
lớn tại Pháp. Pháp đẩy mạnh hỗ trợ, giúp đỡ các nước tổ chức các sự
kiện ngoại giao văn hóa tại Pháp nhằm khẳng định vị trí trung tâm
văn hóa, nghệ thuật, thể hiện vai trò nước lớn, khẳng định vị thế
không thể thiếu của Pháp trong chính sách đối ngoại của các nước;
tạo cảm tình và củng cố quan hệ giữa Pháp với các nước, đồng thời
đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Pháp. Đẩy mạnh ngoại
giao văn hóa trong Cộng đồng Pháp ngữ (Francophonie) và
UNESCO được Pháp đặc biệt coi trọng nhằm qua cơ chế này tập hợp
lực lượng, củng cố vị thế và ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ vào khu
vực được coi là ảnh hưởng của Pháp.
2.2.2. Ngoại giao văn hóa Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Là cường quốc vượt trội về mọi mặt từ quân sự, kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục và khoa học, Mỹ luôn tự hào với cái gọi là “giá trị
Mỹ” và luôn cho rằng Mỹ có sứ mệnh phải gieo đi mọi nơi trên thế
giới. Sau Chiến tranh Lạnh, một số chương trình giao lưu văn hóa
chính thức của Hoa Kỳ với nước ngoài bị giảm sút do những khó
khăn kinh tế. Tuy nhiên, sau vụ khủng bố 11/9/2001, Mỹ đã sớm điều
chỉnh chính sách ngoại giao văn hóa với nhiều cải cách tích cực.
Ngoại giao văn hóa được xác định là then chốt của ngoại giao công
chúng, có ý nghĩa quyết định trong bảo vệ an ninh và truyền bá giá trị
văn hóa Mỹ ra thế giới. Nhiều chương trình ngoại giao văn hóa lớn
được tổ chức ở quy mô toàn cầu, đặc biệt Mỹ thiết kế những dự án
ngoại giao văn hóa riêng cho thế giới Ảrập và Hồi giáo, khu vực có ý
nghĩa chiến lược về an ninh đối với Mỹ.
2.2.3. Ngoại giao văn hóa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Từ cuối thế kỷ XX, bước sang đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc “trỗi
dậy” đi lên như một cường quốc ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương, có tầm ảnh hưởng trên thế giới và bắt đầu tập trung vào
ngoại giao văn hóa. Đại hội lần thứ 17 Đảng Cộng sản Trung Quốc
16
(năm 2007) đánh dấu sự thay đổi tư duy về ngoại giao văn hóa với
quan điểm cho rằng nắm được văn hóa là nắm quyền chủ động trong
cuộc cạnh tranh quốc tế, Trung Quốc không thể trở thành cường quốc
toàn diện nếu chỉ dựa vào sức mạnh kinh tế và quân sự. Trung Quốc
triển khai mọi khía cạnh và phương diện của ngoại giao văn hóa. Xây
dựng trên 400 Viện Khổng Tử trên thế giới và đặt mục tiêu 1000
Viện Khổng Tử vào năm 2020, tổ chức hàng ngàn hoạt động giới
thiệu văn hóa Trung Quốc ở nước ngoài mỗi năm, truyền bá văn hóa
qua điện ảnh, truyền hình, võ thuật, đăng cai tổ chức các sự kiện văn
hóa, thể thao lớn cấp khu vực và thế giới, đẩy mạnh ngoại giao văn
hóa trong các cơ chế đa phương như ASEAN và Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO).
2.2.4. Ngoại giao văn hóa Đại Hàn Dân Quốc
Là quốc gia thành công về phát triển kinh tế, những năm gần đây
Hàn Quốc tập trung đẩy mạnh ngoại giao văn hóa nhằm nâng cao
hiểu biết của cộng đồng thế giới về Hàn Quốc. Hàn Quốc triển khai
nhiều biện pháp ngoại giao văn hóa như: thành lập Hội đồng Tổng
thống về thương hiệu quốc gia, đẩy mạnh việc ký kết các Hiệp định
hợp tác văn hóa với các nước, tích cực tham gia vào hoạt động của
UNESCO, thành lập Quỹ Hàn Quốc (KF), Trung tâm Văn hóa Hàn
Quốc ở nước ngoài, giao nhiệm vụ cho các Đại sứ quán ở nước ngoài
trong tổ chức các hoạt động ngoại giao văn hóa, đăng cai tổ chức các
sự kiện thể thao, triển lãm quốc tế. Đặc biệt, “Làn sóng Hàn Quốc” -
làn sóng quảng bá văn hóa, thể thao, xuất khẩu điện ảnh, truyền hình,
nhạc pop, ẩm thực, mỹ phẩm, hàng hóa Hàn Quốc ra nước ngoài -
được đánh giá là một công cụ hữu hiệu của ngoại giao văn hóa, có tác
dụng lớn trong nâng cao hình ảnh của Hàn Quốc và tăng cường
quyền lực mềm của quốc gia này trên trường quốc tế.
17
CHƯƠNG 3
NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM - THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Khái quát quá trình hình thành ngoại giao văn hóa Việt Nam
Trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, ngoại giao văn hóa luôn
được chú trọng. Ngoại giao văn hóa đã làm tốt nhiệm vụ tranh thủ sự
ủng hộ, đồng tình của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp cách mạng,
kháng chiến thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bước
sang thời kỳ Đổi mới, và đặc biệt là sau Chiến tranh Lạnh, Đảng đã
sớm điều chỉnh đường lối, chính sách đối ngoại phù hợp với xu thế
của thời đại và yêu cầu của nhiệm vụ Cách mạng. Ngoại giao văn hóa
từng bước khẳng định vị trí vai trò quan trọng trong thực hiện các
nhiệm vụ đối ngoại của đất nước, tiến tới chính thức được coi là một
trong ba trụ cột ngoại giao tại Hội nghị Ngoại giao năm 2006.
3.2. Ngoại giao văn hóa Việt Nam từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay
3.2.1. Những kết quả đạt được
Ngoại giao văn hóa đã góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu
của công tác đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; củng
cố, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các tổ chức
quốc tế trên thế giới, nâng cao vị thế, hình ảnh đất nước, con người,
văn hóa Việt Nam trên thế giới, góp phần tích cực trong vận động
UNESCO công nhận nhiều di sản của Việt Nam là di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới. Nâng cao tính chủ động trong tổ chức các sự
kiện quốc tế tại Việt Nam; cơ bản xây dựng được hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng về
ngoại giao văn hóa; nâng cao nhận thức của các Bộ, ngành, địa
phương về ngoại giao văn hóa; gắn kết và làm tốt công tác về người
Việt Nam ở nước ngoài; nâng cao hiệu quả công tác ký kết và triển
khai thực hiện các điều ước quốc tế về văn hóa với các nước; tích cực
18
phối hợp với các nước trong tổ chức những sự kiện ngoại giao văn
hóa của bạn tại Việt Nam.
3.2.2. Một số tồn tại, hạn chế
Nhận thức về ngoại giao văn hóa chưa thực sự đầy đủ, đồng nhất
ở các cấp, các ngành; chưa hình thành được cơ chế chỉ đạo và phối
hợp giữa các ban, bộ, ngành và địa phương; còn thiếu sự điều phối,
chỉ đạo ở tầm quốc gia, thiếu một kế hoạch trung và dài hạn tổng thể
ở quy mô cả nước; chưa gắn kết chặt chẽ ngoại giao văn hóa với hội
nhập quốc tế; địa bàn hoạt động ngoại giao văn hóa còn hẹp; hoạt
động ngoại giao văn hóa ở từng địa bàn không duy trì được ở mức độ
thường niên; chất lượng hoạt động ngoại giao văn hóa chưa cao; còn
chậm thành lập mới các Trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài;
ứng dụng công nghệ hiện đại vào ngoại giao văn hóa còn yếu; chất
lượng nguồn nhân lực làm công tác ngoại giao văn hóa còn hạn chế;
công tác quản lý việc giới thiệu văn hóa nước ngoài tại Việt Nam còn
chưa chặt chẽ.
3.3. Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công
tác ngoại giao văn hóa trong thời gian tới
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về ngoại giao văn hóa
Cần sớm ban hành một Nghị quyết của Đảng về ngoại giao văn hóa
bởi ngoại giao văn hóa là thành tố quan trọng trong chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước, cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao
kinh tế tạo thành chỉnh thể của nền ngoại giao hiện đại Việt Nam.
3.3.2. Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về ngoại giao văn hóa, xây
dựng, triển khai các kế hoạch trung hạn, dài hạn về ngoại giao văn hóa
Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về Ngoại giao văn hóa do một
đồng chí Phó Thủ tướng làm Trưởng ban, với sự tham gia của lãnh
đạo các Bộ, ngành và một số tỉnh, thành phố lớn để tăng cường sự
19
lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu quả
phối hợp và chất lượng công tác ngoại giao văn hóa.
3.3.3. Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động và hình thành mạng
lưới ngoại giao văn hóa Việt Nam ở nước ngoài
Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm văn hóa
Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài cần quan tâm hơn nữa trong triển khai công tác ngoại giao văn
hóa. Tại các địa bàn có đông người Việt Nam sinh sống, lao động và
học tập, cần đẩy mạnh việc phối hợp với cộng đồng người Việt để
thực hiện các nhiệm vụ ngoại giao văn hóa. Sớm triển khai việc xây
dựng và đưa vào hoạt động các Trung tâm Văn hóa Việt Nam ở
Campuchia, Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Nhật Bản và Trung Quốc.
3.3.4. Đẩy mạnh công nghiệp văn hóa và truyền thông đối ngoại
Tập trung hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển
công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là
khu vực tư nhân đầu tư vào công nghiệp văn hóa. Đẩy mạnh công tác
xúc tiến, mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm văn hóa của Việt
Nam, xác lập thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác truyền
thông đối ngoại trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Chú
trọng ứng dụng công nghệ số trong truyền thông, khai thác tối đa lợi
thế của mạng internet trong phát triển ngoại giao văn hóa.
3.3.5. Đẩy mạnh xây dựng nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn
trọng pháp luật của người Việt Nam và môi trường văn hóa lành
mạnh
Môi trường ổn định, sự hấp dẫn của Việt Nam làm cho ngày càng
có nhiều khách du lịch và các đoàn khách quốc tế đến Việt Nam. Đây
chính là những người tuyên truyền khách quan nhất về Việt Nam sau
20
khi trở về nước. Vì vậy, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng
nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật của người
Việt Nam và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đặc biệt là
xây dựng xã hội có kỷ cương, an toàn, trật tự và môi trường xanh,
sạch, đẹp để luôn tạo và giữ ấn tượng tốt đối với du khách quốc tế.
3.3.6. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác
ngoại giao văn hóa
Cán bộ làm công tác ngoại giao văn hóa đòi hỏi vừa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_ngoai_giao_van_hoa_trong_quan_he_quoc_te_duo.pdf