Hoạt động của nông trường giai đoạn 1956 – 1975
2.3.1. Khai hoang, lao động sản xuất
Trong những năm 1956 - 1965, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An xây dựng, phát triển và thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao trong thời bình. Các nông trường không ngừng khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng với các loại cây trồng như cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, và các loại cây công nghiệp khác như thuốc lá, vừng, bông, lạc, cây lương thực như lúa, ngô và cây ăn quả như cam, dứa, quýt. Nông trường quốc doanh không chỉ hình thành vùng chuyên canh về cây trồng, mà còn trở thành vùng tập trung chăn nuôi quy mô lớn.
Giai đoạn 1965 - 1975, nông trường chuyển tất cả các hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An là vị trí quan trọng thường xuyên bị đánh phá. Do vậy nhiệm vụ của các nông trường trong giai đoạn này là vừa sản xuất, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Trong thời điểm này, các nông trường thực sự trở thành nơi dự trữ sức người, sức của, thành những cơ sở chiến đấu cho cả hai miền Nam - Bắc. Mặc dầu chiến tranh diễn ra ác liệt, nhưng các nông trường vẫn hoàn thành các nhiệm vụ nhà nước đề ra, nhiều nông trường vượt mức kế hoạch.
2.3.2. Tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An không chỉ cung cấp vật lực, mà còn cung cấp nguồn nhân lực cho chiến trường, làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam đánh Mỹ.
Ngoài ra, trong chiến đấu các nông trường luôn nêu cao tinh thần tự giác đấu tranh. Địa bàn các nông trường vừa trở thành căn cứ hậu phương của tỉnh Nghệ An, vừa trở thành các trận địa bắn máy bay, bảo vệ giao thông vận tải, nơi sơ tán của các cơ sở sản xuất công nghiệp trong tỉnh, điểm dừng chân của con đường vận tải chi viện cho miền Nam. Lực lượng phòng không bảo vệ các địa phương không chỉ có dân quân, mà còn có lực lượng bộ đội tự vệ. Các lực lượng này phối hợp chiến đấu tạo nên hệ thống phòng không nhân dân dày đặc, đánh địch ở mọi tầng cao và chiến đấu khắp mọi vùng.
24 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 499 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ năm 1956 đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiên cứu và bài viết được công bố trên các tạp chí: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Lịch sử quân sự, tạp chí Khoa học của một số trường đại học; các luận án, luận văn và một số website có nội dung liên quan đến nông trường quốc doanh.
- Tài liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi đã tiến hành điền dã, khảo sát thực tế tại các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An để tập hợp thêm tư liệu và tham quan các cơ sở sản xuất, chế biến của nông trường.
Ngoài ra, tác giả luận án còn tiến hành phỏng vấn các nhân chứng đã từng làm việc trong các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An.
4.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ khoa học đặt ra, chúng tôi dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương của Đảng về Đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
Hai phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
. Với phương pháp lịch sử, chúng tôi trình bày quá trình ra đời và xây dựng cũng như thực tế hoạt động của Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An một cách hệ thống theo trình tự thời gian liên tục từ năm 1956 đến năm 2015.
Với phương pháp logic, chúng tôi kết nối, xâu chuỗi các vấn đề, các sự kiện, hiện tượng và các nội dung với nhau một cách hợp lý nhằm làm rõ những nội dung cần được làm sáng tỏ.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành khác như khu vực học, kinh tế học, xã hội học, các phương pháp phân tích, thống kê, đối chiếu, so sánh, điều tra khảo sát thực địa, phỏng vấn nhân chứng để làm rõ thêm nội dung của luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
Một là, Luận án là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 - 2015.
Hai là, Luận án phục dựng lại bức tranh khá toàn diện, hệ thống về quá trình ra đời, xây dựng và quá trình chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý của các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ năm 1956 đến năm 2015.
Ba là, Luận án làm rõ hoạt động sản xuất, kinh doanh; Nêu bật vai trò và những đóng góp của nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 - 2015 đối với kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh ở địa phương; Chỉ ra những bài học kinh nghiệm.
Bốn là, Luận án cung cấp tài liệu tham khảo và cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách cũng như quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An nói chung, đối với khu vực ở miền Tây Nghệ An nói riêng; Đồng thời luận án là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về lịch sử địa phương.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phần phụ lục, nội dung chính luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ từ năm 1956 đến năm 1986
Chương 3: Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ năm 1986 đến năm 2015
Chương 4: Một số nhận xét về nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những nghiên cứu về Nông trường quốc doanh nói chung
Từ trước đến nay, đã có những công trình nghiên cứu về kinh tế đồn điền thời thuộc địa được công bố, như: Cuốn “Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ 1884 - 1918” xuất bản năm 1996 (NXB Thế giới) của tác giả Tạ Thị Thúy; Cuốn “Đồn điền Thanh Hóa thời thuộc Pháp (1940 – 1945)” (NXB Thanh Hóa, năm 2012) của nhóm tác giả Nguyễn Trọng Văn, Trần Vũ Tài, Nguyễn Thị Hạnh. Bên cạnh các công trình nghiên cứu, bài viết, còn có các luận án đi sâu nghiên cứu về vấn đề này; Luận án Tiến sĩ “Những chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ từ 1884 đến 1945” của tác giả Trần Vũ Tài (năm 2007)
Nghiên cứu về hệ thống Nông trường quốc doanh cũng đã thu hút được nhiều tác giả quan tâm. Năm 1963, tác giả Trần Hữu Dực xuất bản công trình “Ra sức xây dựng và củng cố nông trường quốc doanh”, NXB Sự Thật - Hà Nội. Tác giả Hòa Bình công bố công trình nghiên cứu “Công tác hạch toán trong nông trường quốc doanh” (NXB Thống kê - năm 1985); Đáng chú ý là cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II, 1955-1975”, (NXB Khoa học xã hội - năm 2005) của tác giả Đặng Phong; Tác giả Phạm Thị Vượng công bố bài viết “Lực lượng lao động nữ trong các nông trường quốc doanh ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1955 -1975” trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3 (479) 2016; Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế viết về nông trường quốc doanh của Phạm Quốc Doanh, trường Đại học kinh tế quốc dân với đề tài “Đổi mới nông trường quốc doanh trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam” (bảo vệ năm 1994).
Bên cạnh đó, viết về nông trường quốc doanh nói chung còn có một số công trình nghiên cứu của các tác giả người Liên Xô.
Tác giả X.I Azeva - M.I Chikhômirôva viết “Tổ chức sản xuất trong nông trường quốc doanh và nông trang tập thể” ( NXB Nông Nghiệp Hà Nội 1981); Công trình “Quản lý nông trường quốc doanh” của U.N Nagimốp (NXB Nông nghiệp, năm 1958); Năm 1985, I.V Zagôrôđnhiucơ và C.G Charetxki viết “21 tình huống tổ chức lao động khoa học trong các nông trường và nông trang” ( NXB Nông nghiệp Hà Nội)
1.2. Những nghiên cứu về Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 2 (1954 - 1975)”, của nhóm tác giả Bùi Ngọc Tam, Hoàng Minh Truyền, Dương Văn Em, Ngô Đức Khánh (NXB Nghệ An, năm 1999); Cuốn “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 3 (1975-2005)”, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2008; Năm 2014, tác giả Đinh Quang Hải công bố bài viết “Tìm hiểu nông trường quốc doanh ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1955-1960” trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 10 (462); Cuốn “Lịch sử Nông trường 1/5” được biên soạn bởi nhóm tác giả Lê Hồng Sơn, Nguyễn Duy Đại, Lê Phước Huẩn, Nguyễn Thê, Hoàng Chỉnh (NXB Nghệ An năm 2012); Cuốn “Lịch sử Nông trường 3/2’’, của nhóm tác giả Nguyễn Đình Dũng, Nguyễn Phơng, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Đình Thận, Hoàng Văn Chỉnh (NXB Nghệ An, năm 2013).
1.3. Kết quả nghiên cứu đạt được
Các công trình chủ yếu nghiên cứu về kinh tế đồn điền của người Pháp, quá trình cướp đoạt ruộng đất của thực dân Pháp đối với nông dân để lập đồn điền ở cả ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ; những công trình nghiên cứu về nông trường quốc doanh nói chung, tập trung tìm hiểu sự hình thành các nông trường quốc doanh; những công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp về nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An chủ yếu nghiên cứu về lịch sử phát triển nông trường, làm rõ sự ra đời, hình thành và phát triển của các nông trường ở miền Tây Nghệ An qua các giai đoạn.
CHƯƠNG 2
NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN
TỪ NĂM 1956 ĐẾN NĂM 1986
2.1. Những yếu tố tác động đến sự ra đời và phát triển của nông trường quốc doanh ở miền Tây nghệ An
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi, nguồn nước dồi dào, cây trồng phong phú, miền Tây Nghệ An hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế toàn diện, đặc biệt là một ngành nông nghiệp đa dạng, nhất là trồng cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc với quy mô lớn. Đó cũng chính là điều kiện cho các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An ra đời và phát triển.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về cơ bản, những đồn điền lớn do người Pháp thiết lập đều tập trung ở các huyện thuộc vùng trung du miền núi như: Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Châu, Đô Lương và Anh Sơn. Huyện Nghĩa Đàn có mức độ tập trung các đồn điền của người Pháp nhiều nhất vì nơi đây có diện tích đất đỏ lớn nhất của tỉnh, thuận lợi phát triển chăn nuôi và kinh doanh cây công nghiệp. Điều đó thể hiện sự độc quyền của tư bản Pháp trong việc kinh doanh đồn điền.
Miền Tây Nghệ An đã tiếp nhận các lực lượng lao động từ các vùng miền khác nhau, như: Lực lượng bộ đội đội miền Nam tập kết ra Bắc để xây dựng vùng kinh tế mới xã hội chủ nghĩa và lực lượng lao động ở các địa phương sau này thành các lực lượng chủ đạo trong các nông trường.
2.1.3.Chủ trương xây dựng và phát triển nông trường của Đảng
Trước thời kì đổi mới, Đảng đã xác định một cách cụ thể về vị trí, vai trò của hệ thống nông trường quốc doanh trong các nghị quyết Đại hội của Đảng, như: Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao Động Việt Nam (1960); Ngày 13/1/1961, Ban Bí thư ban hành Thông tư số 14-TT/TW; Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng năm 1976; Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982).
2.2. Quá trình ra đời và hệ thống tổ chức
2.2.1. Quá trình ra đời
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An được hình thành từ ba nguồn: Quốc hữu hóa các đồn điền của thực dân Pháp, của tư bản hoặc của địa chủ phong kiến Việt Nam; Các Liên đoàn sản xuất nông nghiệp do cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc; Những nông trường quân đội được thành lập theo chủ trương chuyển ngành hàng loạt bộ đội sang làm kinh tế.
2.2.2. Hệ thống tổ chức
Cơ cấu tổ chức nông trường quốc doanh về cơ bản đều học tập theo mô hình của Liên Xô: đứng đầu là giám đốc, giúp việc cho giám đốc là các phó giám đốc và phòng ban; các nông trường chia thành các khu vực sản xuất, gồm các đội và tổ. Nhìn chung, cơ cấu tổ chức nông trường Liên Xô tinh giản hơn so với nông trường ở Việt Nam. Tuy cơ cấu tổ chức của các nông trường trên phạm vi cả nước nói chung, ở miền Tây Nghệ An nói riêng vào thời điểm đó còn cồng kềnh, có tính chất phân tán, chưa tập trung, nhưng phù hợp với hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh.
2.3. Hoạt động của nông trường giai đoạn 1956 – 1975
2.3.1. Khai hoang, lao động sản xuất
Trong những năm 1956 - 1965, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An xây dựng, phát triển và thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao trong thời bình. Các nông trường không ngừng khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng với các loại cây trồng như cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, và các loại cây công nghiệp khác như thuốc lá, vừng, bông, lạc, cây lương thực như lúa, ngô và cây ăn quả như cam, dứa, quýt. Nông trường quốc doanh không chỉ hình thành vùng chuyên canh về cây trồng, mà còn trở thành vùng tập trung chăn nuôi quy mô lớn.
Giai đoạn 1965 - 1975, nông trường chuyển tất cả các hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An là vị trí quan trọng thường xuyên bị đánh phá. Do vậy nhiệm vụ của các nông trường trong giai đoạn này là vừa sản xuất, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Trong thời điểm này, các nông trường thực sự trở thành nơi dự trữ sức người, sức của, thành những cơ sở chiến đấu cho cả hai miền Nam - Bắc. Mặc dầu chiến tranh diễn ra ác liệt, nhưng các nông trường vẫn hoàn thành các nhiệm vụ nhà nước đề ra, nhiều nông trường vượt mức kế hoạch.
2.3.2. Tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An không chỉ cung cấp vật lực, mà còn cung cấp nguồn nhân lực cho chiến trường, làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam đánh Mỹ.
Ngoài ra, trong chiến đấu các nông trường luôn nêu cao tinh thần tự giác đấu tranh. Địa bàn các nông trường vừa trở thành căn cứ hậu phương của tỉnh Nghệ An, vừa trở thành các trận địa bắn máy bay, bảo vệ giao thông vận tải, nơi sơ tán của các cơ sở sản xuất công nghiệp trong tỉnh, điểm dừng chân của con đường vận tải chi viện cho miền Nam. Lực lượng phòng không bảo vệ các địa phương không chỉ có dân quân, mà còn có lực lượng bộ đội tự vệ. Các lực lượng này phối hợp chiến đấu tạo nên hệ thống phòng không nhân dân dày đặc, đánh địch ở mọi tầng cao và chiến đấu khắp mọi vùng.
2.3.3. Đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công nhân nông trường
Bên cạnh hoạt động sản xuất, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An còn quan tâm đến đời sống cán bộ, công nhân nông trường trên các phương diện, như: trình độ văn hóa, vấn đề sức khỏe, nhà ở, văn nghệ, thể dục thể thao, trong hoàn cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân lao động đã có chủ trương và biện pháp cụ thể, nhiều nghị quyết chuyên đề của Ban chấp hành, nhưng trong thực tế vẫn còn ít đơn vị thực hiện được việc tổ chức làm ăn tập thể để giải phóng sức lao động, nhất là lao động nữ, nên sức sản xuất làm ra của cải rất thấp.
2.4. Hoạt động nông trường giai đoạn 1975 - 1986
2.4.1. Nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ An trước yêu cầu nhiệm vụ mới
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nhưng tình hình thực tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khắn: cơ sở vật chất bị tàn phá; bị bao vấy cấm vận; viện trợ các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút; thiên tai liên tiếp diễn ra; việc cung ứng vật tư, tiền vốn cho các đơn vị thuộc kinh tế quốc doanh bị cắt giảm; nhà nước cũng không có đủ hàng để trao đổi với nông dân để thu mua nông sản theo giá kế hoạch.
Trên cả nước, hệ thống nông trường quốc doanh cũng được đầu tư xây dựng rộng khắp. Tuy nhiên, nhìn chung, kết quả tổng thể của các nông trường quốc doanh trong cả nước đưa lại chưa tương xứng với sự đầu tư to lớn của nhà nước
2.4.2. Nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ An khôi phục sản xuất sau chiến tranh
Trước hoàn cảnh khó khăn, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đã thanh lí các vườn cây già cỗi, thay thế bằng các vườn cây mới đảm bảo năng suất sản lượng ổn định và kinh doanh có hiệu quả. Các loại cây như cà phê, cao su, cam vẫn là cây trồng chủ lực của các nông trường. Diện tích trồng các loại cây công nghiệp lâu năm không giảm sút mà được mở rộng. Các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, thuốc lào, đậu tương, vừng lạc cũng được chú trọng.
Có thể nói trong những năm đầu tiên sau khi đất nước thống nhất, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đã có nhiều nỗ lực trong khắc phục hậu quả chiến tranh. Tuy nhiên, một số hạn chế trong cơ chế quản lí đã xuất hiện và bộc lộ ngày một rõ nét. Điều này đưa đến tình trạng khủng hoảng của các nông trường ở miền Tây Nghệ An và những bước đi đầu tiên nhằm thích ứng với cơ chế quản lí kinh tế mới trên cả nước.
2.4.3. Khó khăn của các nông trường và những tín hiệu chuyển đổi mô hình quản lý
Tại các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An, mặc dù được đánh giá là hoạt động khả quan hơn so với một số nông trường khác trên cả nước, song khó khăn cũng ngày một nặng nề. Tại các nông trường như Nông trường Đông Hiếu, Nông trường Cờ Đỏ, Nông trường 1/5 trong giai đoạn này vườn cây lâu năm bị giảm sút cả về diện tích, năng suất và chất lượng sản phẩm; nhiều đàn gia súc bị chết; sản xuất không có hiệu quả. Lương thực khan hiếm, công nhân ăn mì hạt, mì bột, có những lúc phải luộc sắn phát cho công nhân. Trong sinh hoạt, nhà ở dành cho công nhân vô cùng khó khăn.
Thực trạng khủng hoảng trong tất cả các ngành kinh tế, cơ chế quan liêu ngột ngạt đã dẫn đến tình trạng “bung ra ngoài sản xuất” trong các ngành. Đổi mới trở thành nhiệm vụ cấp bách của các nông trường, để giải quyết vấn đề tồn tại hay không tồn tại.
CHƯƠNG 3
NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2015
3.1. Yêu cầu chuyển đổi phương thức quản lý và hoạt động của nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ An giai đoạn 1986 - 1997
3.1.1. Yêu cầu chuyển đổi phương thức quản lý
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) là đại hội mở đầu quá trình đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm và trước hết là đổi mới về kinh tế. Sau Đại hội nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển đổi về cơ chế quản lý, từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã từng bước chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Những thay đổi trên đây đã tác động đến tình hình sản xuất nông nghiệp nói chung, các nông trường quốc doanh nói riêng.
Việc chuyển đổi các nông trường quốc doanh trên phạm vi cả nước nói chung, ở miền Tây Nghệ An nói riêng trở thành một vấn đề bức thiết, vừa phù hợp với nhu cầu thực tiễn, vừa khắc phục những hạn chế và phát huy những thế mạnh sẵn có của nông trường. Sự chuyển đổi của các nông trường diễn ra trên các lĩnh vực: hệ thống tổ chức, cách thức quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.1.2. Tổ chức bộ máy
Hệ thống tổ chức nông trường quốc doanh trong giai đoạn này so với hệ thống tổ chức nông trường quốc doanh thời kỳ bao cấp đã có sự chuyển biến. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả. Các khu vực sản xuất nay đã được thay thế bởi các đội sản xuất, để ban lãnh đạo dễ quản lý. Các phòng ban và bộ phận lao động trực tiếp đã phối hợp công việc có hiệu quả hơn. Hệ thống tổ chức nông trường chuyển đổi phù hợp với cơ chế mới của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những ưu điểm, hệ thống tổ chức của nông trường còn tồn tại những hạn chế nhất định, như: chi phí gián tiếp còn lớn làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, đã có sự phân công nhiệm vụ giữa các phòng ban, nhưng công việc nghiên cứu tìm kiếm thị trường chưa được phân định rõ ràng.
3.1.3. Phương thức quản lý “khoán”
Năm 1989, Nông trường Tây Hiếu 1 là nông trường tiên phong thực hiện phương án khoán trên vùng đất Phủ Quỳ. Trong khi đó các nông trường còn lại như Nông trường 3/2, Nông trường 1/5, vẫn chưa có thay đổi trong việc sử dụng phương thức khoán.
Năm 1995, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 01/ CP, các nông trường đã áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhằm phù hợp với điều kiện kinh tế của nông trường. Trong đó, Nông trường Tây Hiếu 1 được đánh giá là nông trường sớm áp dụng chính sách khoán. Nông trường 3/2 mặc dù thực hiện muộn hơn, nhưng trong quá trình sản xuất, nông trường đã vận dụng nhiều cách khoán khác nhau nhằm để ưu tiên cho người lao động.
3.1.4. Hoạt động sản xuất, kinh doanh
Thực hiện quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, các nông trường ở miền Tây Nghệ An nói riêng đã chủ động tính toán, rà soát lại phương hướng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Nhờ xác định đúng đắn và cụ thể hơn về cơ cấu cây, con, đi vào thâm canh, chuyên canh và kinh doanh tổng hợp “lấy ngắn nuôi dài”, gắn sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm nên sản xuất hàng hóa của nhiều nông trường đã tăng lên khá rõ rệt, đảm bảo hoạt động tiệu thụ với khách hàng, tăng doanh thu để chủ động vốn sản xuất kinh doanh.
Những chuyển biến và thành quả các nông trường đã đạt được trong quá trình đổi mới có ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội hết sức to lớn. Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn còn những tồn tại, như: hiệu quả sử dụng đất đai ở các nông trường nhìn chung vẫn còn thấp; thiếu vốn, cơ cấu vốn không thích hợp, hiệu quả sử dụng vốn thấp; thiết bị và công nghệ chế biến lạc hậu.
3.2. Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1997 - 2015
3.2.1. Chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước về đổi mới nông trường
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ ngày 13 đến ngày 22/8/2001) đã ban hành Nghị quyết về “Tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước”. Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ ngày 18/2 đến 2/3/2002) đã bàn và ra các Nghị quyết, như: Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”; Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”
Những chủ trương trên của Đảng tạo điều kiện thuận lợi cho các nông trường đổi mới và được Nhà nước cụ thể hóa thành các chính sách.
Ngày 4/3/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 135/TTg về việc xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát ở các Tổng công ty nhà nước và các Doanh nghiệp Nhà nước có thành lập Hội đồng quản trị. Ngày 19/6/2002, Chính phủ ban hành Nghị định về việc chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Ngày 16/6/2003 Bộ chính trị ban hành Nghị quyết về sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh. Nghị định số 170/204/NĐ - CP ngày 22/9/2004 đã quy định rõ về các hình thức chuyển đổi các nông trường quốc doanh có hướng kinh doanh tốt và những nông trường quản lý yếu kém làm ăn thua lỗ.
Đặc biệt, Nghị định 135/2005/NĐ-CP, ngày 08/11/2005 về việc giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản trong các nông lâm trường quốc doanh.
Nghị quyết số 30 - NQ/TW ngày 17/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp.
3.2.2. Sự thay đổi hệ thống tổ chức
Năm 1997, các nông trường ở miền Tây Nghệ An bắt đầu chuyển đổi về mô hình để cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Các nông trường đã chuyển đổi qua hai giai đoạn: từ Nông trường quốc doanh chuyển sang Công ty nhà nước, sau đó từ Công ty nhà nước chuyển sang Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Do thay đổi về tổ chức bộ máy, nên chức năng và nhiệm vụ của công ty cũng thay đổi theo. Nhiệm vụ của công ty không chỉ đơn thuần thực hiện hai chức năng như giai đoạn trước đây. Nay các công ty kinh doanh cà phê, cao su theo quy hoạch và kế hoạch của nhà nước.
3.2.3. Sự thay đổi mô hình quản lý
Sau khi chuyển đổi thành các công ty, phương thức quản lý của các nông trường đã có sự thay đổi. Công ty đã vận dụng linh hoạt chính sách khoán qua từng giai đoạn. Công tác quản lý, sử dụng đất đai đi vào nề nếp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của hộ nhận khoán. Sau khi có hình thức giao khoán theo Nghị định 135, các nông trường trực thuộc Công ty Đầu tư sản xuất cà phê - cao su đã chuyển đổi hình thức giao khoán. Công ty Nông công nghiệp 3/2 áp dụng Nghị định 135/CP (2005) muộn hơn so với Công ty Đầu tư sản xuất và xuất khẩu cà phê cao su Nghệ An, năm 2008 công ty bắt đầu áp dụng. Công ty 3/2 không giao khoán toàn bộ đất cho người lao động như Công ty sản xuất và xuất khẩu cà phê cao su Nghệ An, mà vẫn giữ lại đất để tổ chức sản xuất làm mô hình thử nghiệm và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật.
3.2.4. Hoạt động sản xuất, kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An có sự thay đổi qua hai giai đoạn: giai đoạn 1997 - 2010 và giai đoạn 2010 - 2015
Q uá trình chuyển từ nông trường quốc doanh sang Công ty TNHH MTV của các Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đã đáp ứng một số yêu cầu của thực tiễn, song cũng còn nhiều vấn đề tiếp tục phải nghiên cứu giải quyết. Các nông trường sau khi sát nhập vào công ty đã có sự phân định nhiệm vụ rõ ràng; nguồn vốn đầu tư vào các nông trường phong phú hơn; trong phương thức sản xuất kinh doanh, công ty đã sử dụng linh hoạt các phương thức khoán, đầu tư yếu tố khoa học kỹ thuật, do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cũng phát triển hơn về cả sản lượng, doanh thu.
Có thể nói rằng, trong giai đoạn hiện nay các công ty đã tiếp tục kế thừa và phát huy những kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật canh tác, giống cây trồng từ các nông trường quốc doanh thời Pháp ở khu vực Phủ Quỳ. Nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thực sự chưa cao; vấn đề thương hiệu của sản phẩm chưa có trên thị trường; công tác quản lý sản phẩm yếu kém; chất lượng sản phẩm thấp; quy mô sản xuất theo hướng nhỏ lẻ; lợi thế về tài nguyên đất chưa được khai thác hết.
3.2.5. Đời sống của cán bộ, công nhân nông trường
Năm 1997, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An gặp không ít khó khăn trong quá trình chuyển đổi hình thức quản lý,nhưng vẫn tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công nhân viên phát triển kinh tế gia đình, làm nhà ở, làm vườn, chăn nuôi, tham gia xây dựng các công trình phúc lợi xã hội.
Đời sống vật chất tinh thần của cán bộ, công nhân của các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An trong giai đoạn này về cơ bản đã có bước phát triển hơn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, đời sống của người lao động chưa được phát triển một cách toàn diện, đang còn những hạn chế nhất định.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN
4.1. Về nguồn gốc ra đời
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An được hình thành từ ba nguồn khác nhau. Đây là một đặc điểm khác biệt của các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An so với các nông trường ở một số tỉnh phía Bắc. Điển hình là ở Thanh Hóa hầu hết các nông trường được hình thành chủ yếu từ cơ sở quốc hữu hóa các đồn điền của thực dân Pháp và một số nông trường quân đội như: Nông trường Yên Mỹ, Nông trường Vân Du, Nông trường Phúc Do.
4.2. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An là những đơn vị sản xuất tương đối hoàn chỉnh, sản xuất ra nhiều sản phẩm khác nhau qua các giai đoạn. Đây là đặc điểm có tính khác biệt của các nông trường miền Tây Nghệ An so với các nông trường ở Thanh Hóa. Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới, Nông trường Thống nhất, nông trường Sao Vàng, nông trường Thạch Thành sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày gồm mía, dứa, cây công nghiệp dài ngày chỉ có cao su. Từ năm 2000, thế mạnh của các nông trường ở Thanh Hóa chủ yếu sản xuất dứa và mía.
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những kết quả nhất định trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nong_truong_quoc_doanh_o_mien_tay_nghe_an_tu.doc