Tóm tắt Luận án Phân tích hiệu quả kinh tế và môi trường của mô hình tôm thâm canh vùng chuyển đổi ven biển đồng bằng sông Cửu Long

Diện tích ao nuôi có ảnh hưởng tỷ lệ thuận với hiệu quả môi trường

ở mức ý nghĩa 10%, kết quả này cho thấy những nông hộ có diện

tích ao nuôi càng lớn thì hiệu quả sẽ càng cao. Kết quả này có thể

được giải thích là những nông hộ có ao nuôi lớn sẽ có nhiều điều

kiện để tận dụng thức ăn tự nhiên nên tiết kiệm được các đầu vào có

ảnh hưởng xấu đến môi trường như thức ăn và thuốc

pdf37 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 01/03/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Phân tích hiệu quả kinh tế và môi trường của mô hình tôm thâm canh vùng chuyển đổi ven biển đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cũng có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng chương trình nông nghiệp (Adesina và Zinnah, 1993; Negatu và Parikh, 1999; Sidibé, 2005; Wang et al., 2016). Các nghiên cứu khác đã xem xét các yếu tố bên ngoài, đặc điểm nông trại, chính sách, sự sẵn có và đặc điểm tài chính (Knowler và Bradshaw, 2007; Lee, 2005; Meijer et al., 2015; Wang et al., 2016). Về mô hình lý thuyết bối cảnh đặc điểm của người sử dụng công nghệ - the technology characteristics-user’s context model (Negatu và Parikh, 1999) cho rằng các đặc điểm của công nghệ là một thành phần cơ bản trong việc xác định một cá nhân sử dụng công nghệ đó. Mô hình kết hợp phân tích nhận thức của những người chấp nhận tiềm năng như những ảnh hưởng đến quyết định áp dụng. Mô hình lý thuyết thứ hai là tối đa hóa hữu dụng (Rahm và Huffman, 1984; Sidibé, 2005) cho rằng nông dân có nhiều khả năng áp dụng các công nghệ mới, đổi mới hoặc thực hành nếu hữu dụng có được từ chúng lớn hơn so với những mô hình/kỹ thuật/công nghệ cũ. 6 2.2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ Hiệu quả kinh tế đầu tiên được đề xuất bởi Farrell (1957) thông qua thuật ngữ hiệu quả tổng cộng hay hiệu quả toàn phần (overall efficiency). Hiệu quả kinh tế được định nghĩa là khả năng sản xuất một sản lượng xác định với mức chi phí đầu vào thấp nhất hay là tích của hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ (allocative efficiency) (Farrell, 1957; Schmidt and Lovell, 1979, 1980; Kopp, 1981; Bravo‐ Ureta and Pinheiro, 1997). Theo Kumbhakar and Lovell (2003); Coelli et al. (2005), hiệu quả kinh tế có thể là hiệu quả chi phí, hiệu quả doanh thu và hiệu quả lợi nhuận. Hiệu quả kinh tế theo hướng tối thiểu hóa chi phí thể hiện khả năng sản xuất ở một lượng đầu ra nhất định ở chi phí thấp nhất với giá đầu vào tương ứng (Farrell, 1957; Battese, 1992; Bravo‐ Ureta and Pinheiro, 1997; Reinhard et al., 1999; Reinhard et al., 2000; Coelli et al., 2002; Coelli et al., 2005; Khai and Yabe, 2011). Hiệu quả kinh tế có thể được đo lường bằng cách sử dụng phương pháp phân tích giới hạn biên ngẫu nhiên SFA. Cách tiếp cận được đề xuất đầu tiên bởi Aigner, Lovell and Schmindt (1977) và Meeusen và Van Den Broeck (1977). Phân tích hiệu quả kinh tế đã được thực hiện trong nhiều lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và là cơ sở để đánh giá mô hình sản xuất hiệu quả hay chưa. Để đánh giá hiệu quả kinh tế thông thường các nghiên cứu có 2 phương pháp đo lường (1) Sử dụng hàm lợi nhuận biên hoặc (2) sử dụng hàm chi phí biên. Một số nghiên cứu điển hình sử dụng hàm lợi nhuận biên gồm Phạm Lê Thông và cộng sự (2011); Nguyễn Văn Tiển và Phạm Lê Thông (2014); Phạm Lê Thông và Nguyễn Thị Phượng (2015); Nguyễn Minh Hiếu (2014). Một số tác giả đã sử dụng cách tiếp cận hàm chi phí biên ngẫu nhiên để đo lường hiệu quả kinh tế theo hướng tối thiểu hóa chi phí như Ferrier and Lovell (1990); Worthington (2000); Rosko (2001). 7 Để ước lượng hiệu quả kinh tế, gần đây phương pháp một bước (one-step estimation model) được khuyến khích sử dụng bởi các chuyên gia kinh tế lượng thay cho cách tiếp cận hai bước (two-step estimation) như trước đây do cách tiếp cận một bước hạn chế được những sai lệch trong quá trình ước lượng (Caudill & Ford, 1993; Wang & Schmidt, 2002; Caudill, 2003; Greene, 2005; Belotti et al., 2013; Kumbhakar et al., 2015). Tóm lại các nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở việc phân tích hiệu quả kinh tế bằng hàm lợi nhuận biên và chi phí biên theo cách tiếp cận hai bước. Bên cạnh đó, các nghiên cứu sử dụng hàm Cobb- Doughlas và phương pháp DEA nên khó tách biệt được nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả và tác động nhiễu. Do vậy, luận án đi sâu phân tích hiệu quả kinh tế theo hướng tối thiểu hóa chi phí bằng ước lượng biên ngẫu nhiên theo hướng một bước nhằm khắc phục các nhược điểm khi ước lượng hai bước. 2.3 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ HIỆU QUẢ MÔI TRƯỜNG Pittman (1983) được xem là người đầu tiên quan tâm về vấn đề môi trường khi ước lượng hiệu quả của hoạt động sản xuất. Trong nghiên cứu này tác giả xem xét khía cạnh môi trường là một đầu ra không mong đợi của hoạt động sản xuất. Kết quả từ nghiên cứu đã đóng vai trò quan trọng cho hoạch định chính sách trong bối cảnh đánh đổi giữa đầu ra mong đợi và đầu ra không mong đợi. Tuy nhiên, đo lường đầu ra không mong đợi là một công việc khó khăn, đặc biệt trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Färe et al. (1989) đã đề xuất một thuật ngữ tạm dịch là “chỉ số hiệu quả sản xuất hy-péc-pôn cải tiến (enhanced hyperbolic productive efficiency measure)”. Thuật ngữ này xem xét đồng thời sự khác biệt về khả năng tăng đầu ra mong đợi tối đa, khả năng giảm đầu ra không mong đợi tối đa và cùng lúc giảm các yếu tố đầu vào. Tuy nhiên, nghiên cứu này đề xuất phương pháp đo lường bằng DEA 8 nên không thể tách các tác động nhiễu ra khỏi việc đo lường hiệu quả sản xuất. Thêm vào đó, đo lường đầu ra không mong đợi là một công việc khó khăn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Từ những hạn chế trên, Reinhard et al. (1999) đã xem xét vấn đề môi trường ở khía cạnh đầu vào của hoạt động sản xuất gồm (e.g., phân đạm, phân lân và nhiên liệu) để từ đó đo lường hiệu quả môi trường (EE). Do các đầu vào xấu hay đầu vào có ảnh hưởng đến môi trường như phân, thuốc trừ sâu, nhiên liệu, có mối quan hệ mặt thiết với đầu ra không mong đợi (ô nhiễm), nên tối thiểu hóa đầu ra không mong đợi có thể được thực hiện thông qua tối thiểu hóa các đầu vào có ảnh hưởng đến môi trường. Một vài nghiên cứu điển hình về hiệu quả môi trường như Võ Hồng Tú (2015); Tu et al. (2015), trình bày về phương pháp đo lường hiệu quả môi trường của hoạt động sản xuất nông nghiệp bằng phương pháp tiếp cận hàm sản xuất biên ngẫu nhiên và kết quả nghiên cứu về hiệu quả môi trường của hoạt động sản xuất lúa công nghệ sinh thái hay còn được gọi là mô hình “ruộng lúa bờ hoa” tại tỉnh An Giang. Nghiên cứu định nghĩa hiệu quả môi trường là tỷ số giữa các đầu vào có ảnh hưởng xấu đến môi trường (phân, thuốc, nhiên liệu) nhỏ nhất có thể so với số lượng thực tế của nó hay nói cách khác là khả năng có thể giảm các yếu tố đầu vào có ảnh hưởng xấu đến môi trường. Hong et al. (2016) sử dụng cách tiếp cận của Reinhard et al. (2000) để đo lường hiệu quả môi trường cho 243 nông hộ sản xuất trà tại tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu này xem xét hai yếu tố đầu vào có ảnh hưởng xấu đến môi trường là phân bón hóa học và thuốc trừ sâu và các yếu tố đầu vào thông thường khác gồm lao động, vốn, chi phí tưới tiêu và chi phí khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức hiệu quả môi trường trung bình của các hộ trồng trà là 76,03% và có sự dao động lớn về hiệu quả môi trường giữa các nông hộ. Tu (2015) cũng sử dụng cách tiếp cận của Reinhard et al. (2000); Reinhard & Thijssen (2000) để đo lường hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu vào cho nông hộ sản xuất lúa tỉnh An Giang. Kết quả nghiên 9 cứu cho thấy hiệu quả kỹ thuật định hướng đầu vào và đầu ra trung bình lần lượt là 91,92% và 85,39%. Hiệu suất theo quy mô của nông hộ trồng lúa là giảm dần. Nghiên cứu cũng cho thấy hai yếu tố đầu vào thuốc trừ sâu và nhiên liệu được sử dụng kém hiệu quả nhất với mức hiệu quả trung bình lần lượt là 51,39% và 45,53%. Việc sử dụng kém hiệu quả này đã dẫn đến một sự thất thoát lớn về mặt kinh tế, khoảng 8,2 triệu đồng/ha. Do vậy, nghiên cứu này cũng sử dụng hàm sản xuất giới hạn biên ngẫu nhiên theo hướng một bước để đo lường hiệu quả môi trường cho mô hình nuôi tôm thâm canh chuyển đổi vùng ven biển. 2.4 TỔNG QUAN VỀ HỒI QUY CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ Mô hình hồi quy Tobit được phát triển đầu tiên bởi Tobin (1958) để xem xét mối tương quan giữa biến phụ thuộc và biến độc lập, trong đó biến phụ thuộc bị chặn và không âm. Trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, mô hình Tobit được sử dụng để lượng hóa sự tác động của các yếu tố về điều kiện kinh tế xã hội (giới tính chủ hộ, trình độ học vấn, tham gia tập huấn) đến hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả chi phí và hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất nông nghiệp (Thái Thanh Hà, 2009; Tu & Yabe, 2015). Bước hồi quy Tobit được xem là bước 2 của các nghiên cứu về hiệu quả do kết quả từ hồi quy Tobit sẽ là tiền đề quan trọng để tìm ra sự khác biệt về mức hiệu quả giữa các nông hộ từ đó sẽ đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả (Färe & Lovell, 1978; Bravo-Ureta &Rieger, 1991; Bravo-Ureta &Pinheiro, 1993; Bravo‐ Ureta & Pinheiro, 1997; Khai & Yabe, 2011). Do đặc điểm các mức hiệu quả nằm trong giới hạn hay nói cách khác là bị chặn (censored) trong khoảng giới hạn nhất định nên kết quả ước lượng từ hồi quy Tobit sẽ ít bị sai lệch hơn so với hồi quy OLS thông thường (Tobin, 1958; Grigorian &Manole, 2006; Tu &Trang, 2015). 10 CHƯƠNG 3 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3.1.1 Mô hình thâm canh Theo Nguyễn Thanh Phương và cộng sự (2014), nuôi tôm thâm canh là “phương thức nuôi năng suất <200 tấn/ha/năm, kiểm soát tốt các điều kiện nuôi; kỹ thuật nuôi và hiệu quả sản xuất đều cao; có xu hướng tiến tới chủ động kiểm soát tất cả các điều kiện nuôi (thức ăn và chất lượng nước); và hệ thống nuôi có tính nhân tạo cao”. 3.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi mô hình Theo Negatu & Parikh (1999) cho rằng các đặc điểm của công nghệ là một thành phần cơ bản trong việc xác định một cá nhân sử dụng công nghệ đó. Bên cạnh đó, Rahm & Huffman (1984); Sidibé (2005) cho rằng nông dân có nhiều khả năng áp dụng các công nghệ nông nghiệp mới, đổi mới hoặc thực hành nếu hữu dụng có được từ chúng lớn hơn so với những mô hình/kỹ thuật/công nghệ cũ. Kết hợp từ hai mô hình lý thuyết này, các nhóm biến thường được sử dụng trong phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chấp nhận kỹ thuật mới gồm (1) đặc điểm nhân khẩu học xã hội (tuổi, giáo dục, kinh nghiệm, lao động và lao động nữ ), (2) nhận thức về rủi ro, (3) nhận thấy sự hữu ích (sản lượng, giá bán, lợi ích), (4) nhận thức về môi trường (ô nhiễm và đa dạng sinh học), (5) nhận thấy sự dễ sử dụng (khía cạnh kỹ thuật); (6) đặc điểm nông trại (quy mô diện tích và số mẫu đất), (7) mạng xã hội (thành viên trong các tổ chức) và (8) đặc điểm tài chính (nhận thức về hỗ trợ bên ngoài và tiếp cận tín dụng) (Adesina và Zinnah, 1993; Barreiro-Hurlé et al., 2010; Davis, 1989; Negatu và Parikh, 1999; Sidibé, 2005; Wang và cộng sự, 2016). Các nghiên cứu về khía cạnh này chủ yếu sử dụng mô hình hồi quy logit hoặc generalized ordered logit hoặc mô hình 11 SEM (structural equation modelling) trong xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi hoặc chấp nhận kỹ thuật mới. 3.1.3 Hiệu quả kinh tế và cơ sở lý thuyết đo lường Hiệu quả kinh tế được định nghĩa là khả năng để sản xuất ở đầu mức đầu ra cho trước ở mức chi phí tối ưu nhất hay còn được xem như là tích của hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency) và hiệu quả phân bổ hay hiệu quả giá (Allocative efficiency) (Farrell, 1957; Kopp, 1981; Bravo‐ Ureta & Pinheiro, 1997). Để ước lượng hiệu quả kinh tế bằng cách tiếp cận phân tích giới hạn biên ngẫu nhiên, nghiên cứu sử dụng hàm giới hạn chi phí biến đổi translog (translog variable cost frontier) theo hướng một bước để ước lượng các tham số và mức độ không hiệu quả về kinh tế bởi vì một nông hộ được giả định là đạt trạng thái cân bằng tĩnh ở lượng đầu vào chính trong điều kiện lượng đầu vào cố định (quasi-fixed inputs) (Brown & Christensen, 1980; Caves et al., 1981). Thêm vào đó, chúng ta không thể ước lượng hàm tổng chi phí do giá của một số đầu vào không có trên thị trường (Grisley & Gitu, 1985). 3.1.4. Hiệu quả môi trường và cơ sở lý thuyết đo lường Để đo lường hiệu quả môi trường, cho đến nay có hai cách tiếp cận chính là sử dụng phương pháp phân tích vỏ bọc dữ liệu DEA và phân tích giới hạn biên ngẫu nhiên SFA. Do cách tiếp cận DEA tính toán hiệu quả dựa trên mô hình tuyến tính (mathematic programming) và phi tham số (non-parametric) nên không thể loại bỏ các tác động nhiễu (noise effects) ra khỏi đường giới hạn sản xuất (deterministic frontier), nên trong nghiên cứu này sẽ tập trung vào phương pháp đo lường hiệu quả môi trường bằng cách tiếp cận SFA. Cách tiếp cận SFA dựa trên mô hình kinh tế lượng nên có thể khắc phục các nhược điểm của DEA (Tu & Yabe, 2015). Giả sử một nông hộ sử dụng 02 nhóm yếu tố đầu vào, ký hiệu là X và Z, để sản xuất một đầu ra, ký hiệu là Y (Y ), trong đó X 12 ( ) là vector các đầu vào thông thường như lao động, vốn, và Z ( ) là những yếu tố đầu vào có tác động hay ảnh hưởng xấu đến môi trường như thức ăn, thuốc kháng sinh và nhiên liệu. Hiệu quả môi trường là khả năng giảm các yếu tố đầu vào có ảnh hưởng xấu đến môi trường trong khi các đầu vào khác và đầu ra cố định. Tương tự như hiệu quả kinh tế, nghiên cứu cũng sử dụng cách tiếp cận một bước để đo lường hiệu quả môi trường. 3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.2.1. Khung lý thuyết Hình 3.1 mô tả chi tiết về khung lý thuyết của nghiên cứu. Hình 3.1: Khung lý thuyết nghiên cứu Nguồn: Tác giả đề xuất Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và biến động thị trường đã dẫn đến chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp diễn ra như một hiện tượng tất yếu. Để góp phần đề xuất các giải pháp trong quản lý 13 chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, nghiên cứu tập trung phân tích những nguyên nhân dẫn đến chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp và sau đó thực hiện so sánh hiệu quả tài chính của hai mô hình trước và sau chuyển đổi. Đối với những nông hộ nuôi tôm TCT thâm canh, nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận phân tích giới hạn biên ngẫu nhiên để đo lường hiệu quả kinh tế và môi trường, từ đó góp phần đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế và giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường cho mô hình nông nghiệp chuyển đổi vùng ven biển ĐBSCL. 3.2.2 Phương pháp chọn vùng nghiên cứu Nghiên cứu chọn 02 tỉnh ven biển khu vực ĐBSCL có diện tích chuyển đổi mô hình sang tôm cao nhất là Sóc Trăng và Kiên Giang, trong đó Kiên Giang là tỉnh chịu ảnh hưởng bởi triều biển Tây còn Sóc Trăng bị ảnh hưởng bởi triều biển Đông. Trong giai đoạn từ 2011-2015, sản lượng tôm của tỉnh Sóc Trăng tăng trung bình hàng năm là 13,3%, cao nhất so với các tỉnh ven biển khác như Trà Vinh 7,5%/năm, Bạc Liêu 7,2%/năm, Bến Tre 4,3%/năm và cuối cùng là Cà Mau 4,1%/năm (GSO, 2015). Tỉnh Kiên Giang được chọn làm địa bàn nghiên cứu do đây là tỉnh duy nhất ven biển của ĐBSCL chịu ảnh hưởng bởi triều biển tây. 3.2.3. Phương pháp phân tích số liệu - Sử dụng các công cụ thống kê mô tả và tần suất để mô tả về thực trạng sản xuất và chuyển đổi mô hình canh tác từ mía sang tôm tại tỉnh Sóc Trăng và từ lúa - tôm sang tôm tại Kiên Giang, và phương pháp CRA để phân tích hiệu quả tài chính của mô hình tôm chuyển đổi. - Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi mô hình canh tác từ mía sang nuôi tôm và từ tôm-lúa sang nuôi tôm, nghiên cứu sử dụng hàm hồi quy logit. 14 - Để thực hiện phân tích hiệu quả kinh tế và môi trường, nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp phân tích giới hạn sản xuất ngẫu nhiên hay phân tích biên ngẫu nhiên được đề xuất bởi Aigner. Lovell & Schmindt (1977) và Meeusen & Van Den Broeck (1977). Hàm translog sẽ được sử dụng để phản ánh công nghệ sản xuất nông nghiệp (Coelli et al., 2005) và phân tích hiệu quả (Reinhard et al., 1999). + Đối với ước lượng hiệu quả kinh tế, đề tài ước lượng hiệu quả kinh tế theo hướng tối thiểu hóa chi phí bằng cách tiếp cận một bước. + Đối với hiệu quả môi trường, trong trường hợp mô hình nuôi tôm, các đầu vào có ảnh hưởng xấu đến môi trường gồm thức ăn, thuốc kháng sinh và nhiên liệu. - Do nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận một bước nên các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế đã được thực hiện đồng thời với quá trình ước lượng hàm chi phí biên ngẫu nhiên. Tuy nhiên, đối với hiệu quả môi trường được tính thông qua hiệu quả kỹ thuật định hướng đầu ra. Trong đó, hiệu quả kỹ thuật định hướng đầu ra cũng được ước lượng thông qua cách tiếp cận một bước. Do vậy, để góp phần đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả môi trường, nghiên cứu sử dụng hồi quy Tobit. 15 CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1 THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH CANH TÁC SANG TÔM 4.1.1 Thực trạng chuyển đổi mô hình canh tác Chuyển đổi mô hình sản xuất là hiện tượng tất yếu với kỳ vọng lợi nhuận lớn hơn. Bức tranh chung về tình hình chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp vùng ven biển ở địa bàn nghiên cứu được mô tả cụ thể ở Hình 4.1. Hình 4.1: Xu hướng chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng và Kiên Giang Hình 4.1 cho thấy ở khu vực nước ngọt người dân địa bàn nghiên cứu chủ yếu sản xuất lúa và trồng mía. Ở khu vực nước lợ hay còn được gọi là vùng chuyển đổi do bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn, nhiều nông hộ đã chuyển đổi mô hình sản xuất từ mía sang tôm tại Sóc Trăng và từ lúa - tôm sang tôm Kiên Giang. Điều này cho thấy xâm nhập mặn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự chuyển đổi của mô hình sản xuất nông nghiệp. Để kiểm chứng giả thuyết này, Gia tăng về độ mặn và thời gian bị ảnh hưởng mặn BIỂN Lúa và mía Chuyên tôm Lúa – tôm và mía Tôm rừng M ứ c đ ộ c h ấ p n h ậ n /c h u y ển đ ổ i Độ mặn (từ ngọt – lợ – mặn) Lúa và mía Lúa – tôm và mía Chuyên tôm 16 nghiên cứu sử dụng biến khoảng cách từ ruộng/ao đến sông như biến độc lập thay thế cho độ mặn do thiếu giá trị mặn tại ruộng của từng nông hộ. 4.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi mô hình canh tác sang tôm Kết quả ước lượng mối liên hệ giữa các yếu tố về điều kiện kinh tế xã hội với quyết định chuyển đổi mô hình canh tác được trình bảy ở Bảng 4.1 sau: Bảng 4.1: Kết quả hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi mô hình Biến Tỉnh Sóc Trăng (Mía  Tôm) Tỉnh Kiên Giang (Lúa - Tôm  Tôm) Hệ số s.e dy/dx Hệ số s.e dy/dx Giới tính 0.132 0.863 0.0329 0.441 0.772 0.1093 Tuổi -0.027 0.029 -0.0066 0.013 0.019 0.0033 Lao động 0.016 0.416 0.0039 0.260 0.348 0.0650 Lao động nữ -0.994* 0.592 -0.2483 0.429 0.499 0.1074 Trình độ 0.153* 0.081 0.0382 0.124* 0.073 0.0309 Tham gia tổ chức -1.650* 0.887 -0.3682 -1.209 0.853 -0.2807 Vay vốn -2.682*** 0.608 -0.5853 0.158 0.526 0.0395 Diện tích đất -0.168*** 0.053 -0.0422 -0.015 0.012 -0.0038 Khoảng cách -0.004*** 0.001 -0.0012 -0.004*** 0.001 -0.0009 Kinh nghiệm 0.253*** 0.056 0.0633 Hằng số 4.731** 2.026 -3.476** 1.503 Ghi chú: * thể hiện mức ý nghĩa; *p < 0.1; **p < 0.05; ***p < 0.01 s.e là sai số chuẩn; dy/dx thể hiện tác động biên. Đối với trường hợp tỉnh Sóc Trăng (thay đổi mô hình từ mía sang tôm), Bảng 4.1 cho thấy các biến số của Lao động nữ, Vay vốn, Tham gia tổ chức, Diện tích đất và Khoảng cách ảnh hưởng tỷ lệ nghịch đến biến phụ thuộc trong khi Trình độ là biến duy nhất có tác động tỷ lệ thuận đến biến phụ thuộc. 17 Trong trường hợp tỉnh Kiên Giang (thay đổi hệ thống nuôi từ lúa- tôm sang tôm), Bảng 4.1 cho thấy Khoảng cách từ ruộng đến sông cũng ảnh hưởng tỷ lệ nghịch trong khi Trình độ và Kinh nghiệm nuôi tôm có ảnh hưởng tỷ lệ thuận đến quyết định chuyển đổi mô hình sản xuất. 4.2. HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG CỦA MÔ HÌNH NUÔI TÔM THÂM CANH VÙNG CHUYỂN ĐỔI 4.2.1. Hiệu quả kinh tế của mô hình tôm thâm canh 4.2.1.1 Ước lượng hiệu quả kinh tế Trước khi thực hiện chạy mô hình, ta tiến hành thực hiện kiểm định xem số liệu điều tra phù hợp nhất (best fit) với dạng hàm Cobb- Douglas hay translog bằng LR - log-likelihood ratio test (Coelli et al., 2005; Greene, 2012 ; Kumbhakar et al., 2015). Kết quả kiểm định LR cho thấy giá trị =51,41, lớn hơn nhiều so với giá trị tới hạn và có ý nghĩa ở mức 1%. Kết quả này cho thấy, bộ số liệu điều tra phù hợp với dạng hàm translog. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hàm chi phí translog theo phương pháp một bước (có xem xét đến mối tương quan giữa phi hiệu quả kinh tế với các đặc điểm kinh tế - xã hội) được chấp nhận so với hàm chi phí theo ước lượng hai bước (không bao gồm các biến độc lập ảnh hưởng đến phi hiệu quả kinh tế) thông qua giá trị =34,49, giá trị này lớn hơn so với giá trị tới hạn và có ý nghĩa ở mức 1%. Kết quả ma trận tương quan cũng cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến, cụ thể là hệ số tương quan đều nhỏ hơn 0,6. Do số liệu được thu thập từ hai địa bàn khác nhau và có mức độ nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng khác nhau nên việc kiểm định sự khác biệt của hai bộ số liệu trong ước lượng hàm chi phí chung là rất cần thiết. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa theo kiểm định t giữa hai bộ số liệu, ngoại trừ biến nguyên liệu. Như vậy, ta có thể thực hiện ước lượng hàm chi phí chung cho hai nhóm hộ 18 nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở Kiên Giang và Sóc Trăng. Kết quả hồi quy được trình bày chi tiết ở Bảng 4.2: Bảng 4.2: Kết quả ước lượng hàm giới hạn chi phí ngẫu nhiên Kết quả các tham số ước lượng hàm chi phí Biến Hệ số gốc Sai số chuẩn Biến Hệ số gốc Sai số chuẩn lnW1 8,578 54,603 lnW2lnZ1 -0,053** 0,023 lnW2 2,838 3,716 lnW2lnY 0,024 0,034 lnW3 -0,986 4,252 (lnW3lnW3)/2 -0,002 0,028 lnW4 -7,975 42,042 lnW3lnW4 0,047 0,310 lnW5 -18,267 45,160 lnW3lnW5 -0,152 0,254 lnZ1 -0,636 6,673 lnW3lnZ1 0,017 0,022 lnY -4,923 8,646 lnW3lnY -0,050 0,048 (lnW1lnW1)/2 0,414 1,451 (lnW4lnW4)/2 1,227 1,627 lnW1lnW2 -0,172 0,262 lnW4lnW5 -0,141 2,358 lnW1lnW3 0,266 0,328 lnW4lnZ1 0,337 0,510 lnW1lnW4 0,317 2,522 lnW4lnY -0,373 0,309 lnW1lnW5 -0,555 4,184 (lnW5lnW5)/2 1,338 2,053 lnW1lnZ1 -0,399 0,518 lnW5lnZ1 0,239 0,300 lnW1lnY -0,182 0,608 lnW5lnY 0,629 0,481 (lnW2lnW2)/2 0,015 0,018 (lnZ1lnZ1)/2 0,048 0,042 lnW2lnW3 0,008 0,015 lnZ1lnY -0,004 0,058 lnW2lnW4 -0,225 0,227 (lnYlnY)/2 0,207** 0,103 lnW2lnW5 0,039 0,173 Hệ số chặn 117,308 551,57 Kết quả tham số ước lượng các yếu tố ảnh hướng đến phi hiệu quả (Mu) Biến Hệ số gốc Sai số chuẩn Biến Hệ số gốc Sai số chuẩn Trình độ 0,029 0,129 Số ao 1,039** 0,436 Kinh nghiệm 0,041 0,118 Khoảng cách -0,004 0,005 Tham gia hội 0,356 1,894 Lao động -0,003 0,632 Diện tích ao -1,137** 0,457 Hệ số chặn -0,124 2,188 Mật độ -0,027* 0,015 Usigma -0,607 0,437 Vsigma -2,919*** 0,179 L-Likelihood -9,27 Lamda 3,176*** 0,165 Wald χ2 value 228,33 Nguồn : Kết quả điều tra nông hộ năm 2017, n=125 Từ kết quả Bảng 4.2, ta có thể ước lượng hiệu quả kinh tế của nông hộ nuôi tôm ở địa bàn nghiên cứu. Kết quả về hiệu quả kinh tế được trình bày ở Bảng 4.3: 19 Bảng 4.3: Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi tôm Hiệu quả kinh tế Sóc Trăng Kiên Giang Số hộ % Số hộ % ≥90 42 46,67 23 65,71 80-90 38 42,22 9 25,71 70-80 6 6,67 2 5,72 60-70 2 2,22 0 0 50-60 0 0 1 2,86 40-50 1 1,11 0 0 30-40 0 0 0 0 <30 1 1,11 0 0 Hiệu quả trung bình 86,95 89,98 Giá trị nhỏ nhất 22,73 55,35 Giá trị lớn nhất 97,58 97,96 Giá trị kiểm định t 1,55 Hiệu quả chung 87,80 Độ lệch chuẩn 9,85 Nguồn : Kết quả điều tra nông hộ năm 2017, n=125 Từ kết quả Bảng 4.3 cho thấy mức hiệu quả kinh tế trung bình của mô hình nuôi tôm tỉnh Kiên Giang là 89,98%, khác biệt không có ý nghĩa so với hiệu quả kinh tế tỉnh Sóc Trăng là 86,95%. Kết quả này phần nào phản ánh sự kém hiệu quả trong quản lý nguồn lực đầu vào và phân bổ nguồn lực. Mức hiệu quả kinh tế cũng có sự biến động khá lớn giữa các hộ, hộ đạt mức hiệu quả cao nhất tại tỉnh Kiên Giang là 97,96% trong khi đó hộ thấp nhất đạt 55,35%. Tương tự, mức hiệu quả kinh tế nông hộ nuôi tôm tỉnh Sóc Trăng cũng có sự biến động khá lớn, hộ lớn nhất đạt 97,58% trong khi hộ thấp nhất chỉ đạt 22,73%. Xét về khía cạnh tối thiểu hóa chi phí ở mức đầu ra hiện tại, sự dao động lớn này có thể do mô hình được chuyển đổi gần đây nên còn sự khác biệt lớn về khoa học kỹ thuật trong quản lý và chăm sóc tôm cũng như sự biến động lớn về thời tiết dẫn đến rủi ro cao về đầu ra. Phần lớn các nông hộ nuôi tôm tỉnh Sóc Trăng đạt hiệu quả trên 70%, chiếm khoảng 95,56%. Với mức hiệu quả kinh tế trung bình 20 này, ở mức đầu ra hiện tại, nông hộ nuôi tôm tỉnh Sóc Trăng có thể giảm khoảng 13,05% tổng chi phí đầu tư. Tổng chi phí mà nông hộ có thể giảm hay nói cách khác là sự chênh lệch giữa chi phí thực tế và chi phí tối thiểu tiềm năng được trình bày ở Hình 5.5: Hình 4.2: Chi phí thực tế và chi phí tối thiểu tiềm năng tỉnh Sóc Trăng Nguồn : Kết quả điều tra nông hộ năm 2017, n=125 Từ kết quả Hình 5.5, ta có thể tính được chi phí mất đi do không đạt hiệu quả về kinh tế hay nói cách khác là chi phí mà nông hộ nuôi tôm tỉnh Sóc Trăng có thể giảm trung bình = Chi phí thực tế - Chi phí tối thiểu = 78,03 triệu đồng/ha/vụ. Đối với trường hợp tỉnh Kiên Giang, hiệu quả kinh tế cũng có phân bố tập trung trong khoảng từ 90% trở lên, chiếm hơn 65,71%. Ở Kiên Giang, mức hi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_phan_tich_hieu_qua_kinh_te_va_moi_truong_cua.pdf
Tài liệu liên quan