Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT);
- Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (BOO);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (BTL);
- Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (BLT);
- Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (O&M).
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 21/02/2022 | Lượt xem: 467 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong quá trình lựa
chọn nhà đầu tư.
Thứ sáu, luận án đã chứng minh được việc quyết toán công
trình dự án theo quy định pháp luật hiện nay đối với dự án PPP là
không phù hợp với hình thức đầu tư này và cần phải thay đối theo
hướng .
Thứ bảy, luận án đã chứng minh việc cần bổ sung các quy định
nhằm bảo đảm sự hỗ trợ của nhà nước cho các dự án PPP thì mới có
thể thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư, qua đó góp phần
chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và nhà đầu tư.
5
Thứ tám, trên cơ sở những hạn chế, tồn tại của các quy định
hiện hành, luận án đã đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu, có hệ
thống và toàn diện để giải quyết những vấn đề lý luận cốt lõi và thực
tiễn về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
- Luận án là nguồn tài liệu hữu ích đối với các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong việc đánh giá hiệu quả của các quy định
pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, làm cơ sở cho việc
hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới.
- Luận án còn là nguồn tài liệu có giá trị đối với các cơ sở nghiên
cứu khoa học, giảng dạy, học tập về pháp luật về đầu tư theo hình thức
đối tác công tư.
- Với những cơ sở lý luận và thực tiễn được rút ra từ quá trình
nghiên cứu, các giải pháp và kiến nghị được luận án đưa ra có giá trị
tham khảo đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án được thiết kế gồm:
Phần thứ nhất: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài luận án.
Phần thứ hai: Nội dung của luận án gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đầu tư theo hình thức đối
tác công tư và pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về đầu tư theo hình thức đối
tác công tư ở Việt Nam.
- Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu
tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
6
Phần thứ nhất
TỔNG QUAN
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
hướng triển khai nghiên cứu đề tài luận án
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án,
tác giả rút ra một số nhận định và đánh giá sau đây:
1.1. Những kết quả đạt được về mặt lý thuyết và thực tiễn liên quan
đến đề tài luận án
1.1.1. Những kết quả đạt được về mặt lý thuyết và thực tiễn của các
công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đầu tư theo hình thức đối
tác công tư
Về phương diện lý luận: Các công trình nghiên cứu đã đề cập,
phân tích và làm rõ nhiều vấn đề lý luận về đầu tư theo hình thức đối
tác công tư như khái niệm, đặc điểm và vai trò của hình thức đầu tư này
trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng và cung cấp
dịch vụ công.
Về phương diện thực tiễn: Các công trình nghiên cứu đã đề cập
tới thực tiễn về đầu tư theo hình thức đối tác công tư của các quốc gia
điển hình trên thế giới, các kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất
quan trọng đối với tác giả và đối với luận án là đã khái quát được một
cách đầy đủ thực trạng đầu tư theo hình thức này trên thế giới được
quy định như thế nào, từ đó giúp cho tác giả có cơ sở để nghiên cứu
so sánh và nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam và có thể đưa
đến một số câu hỏi nghiên cứu và giải pháp xây dựng Luật Đầu tư
theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam.
2.1.2. Những kết quả về mặt lý thuyết và thực tiễn của các công trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề pháp luật đầu tư theo hình thức đối
tác công tư
- Về phương diện lý thuyết: Các công trình nghiên cứu của các
học giả nước ngoài về pháp luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư
7
đã đề cập và phân tích về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật tại một số quốc gia điển hình. Không chỉ có vậy, các học
giả còn chỉ ra những bài học kinh nghiệm về điều chỉnh pháp luật đối
với phương thức đầu tư này tại các quốc gia. Đây là nguồn tư liệu
quý giá để giúp tác giả luận án kế thừa và phát triển trong quá trình
giải quyết các yêu cầu đặt ra của luận án. Mặt khác, các công trình
nghiên cứu trong nước về pháp luật đầu tư theo hình thức đối tác
công tư cũng đã bước đầu tiếp cận và phân tích dưới góc độ lý luận
và thực tiễn về đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Trong đó chủ
yếu các công trình tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp
luật điều chỉnh hợp đồng BOT như bản chất, đặc điểm và vai trò của
pháp luật về hợp đồng BOT. Các phân tích này sẽ tiếp tục được tác
giả luận án nghiên cứu, đánh giá, bình luận và đưa ra nhận định riêng
của bản thân về cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật của Việt Nam
về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
- Về phương diện thực tiễn: Các công trình nghiên cứu ở nước
ngoài có tính thực nghiệm về PPP trên thế giới rất phong phú, nhiều
kết quả quan trọng đã được công bố, cụ thể các nghiên cứu khẳng
định không tồn tại một hình thức PPP chuẩn và mỗi nước đều có
chiến lược riêng tùy thuộc bối cảnh, thế chế, nguồn tài trợ và tính
chất của dự án.
Trong khi đó, các công trình nghiên cứu ở trong nước về thực
tiễn thực hiện pháp luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt
Nam đã đặt trọng tâm nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về
hợp đồng BOT. Qua đó các công trình đã phân tích, đánh giá có hệ
thống các quy định pháp luật về hợp đồng BOT, chỉ ra những điểm
phù hợp, những điểm còn hạn chế, bất cập để từ đó đưa các các kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT ở Việt Nam.
1.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án chưa được các
công trình đã công bố giải quyết hoặc đã giải quyết nhưng chưa
thỏa đáng, hoặc còn có ý kiến khác nhau cần được tiếp tục nghiên
cứu trong luận án
8
Thứ nhất, về phương diện lý thuyết, đã có nhiều nghiên cứu
về bản chất của quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác công tư nhưng
chủ yếu dưới góc độ kinh tế, dưới góc độ pháp lý đã có nghiên cứu
nhưng chưa nghiên cứu toàn diện về quan hệ đầu tư theo hình thức
đối tác công tư, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, hội nhập quốc tế.
Thứ hai, về phương diện thực tiễn, đã có các công trình nghiên
cứu về thực trạng pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư
nhưng chưa nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện và đặc biệt là
chưa chỉ ra và phân tích một cách đầy đủ, sâu sắc về những hạn chế,
bất cập của pháp luật hiện hành về đầu tư theo hình thức đối tác công
tư ở Việt Nam để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện khung pháp lý về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt
Nam hiện nay.
2. Lý thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên
cứu
2.1. Lý thuyết nghiên cứu
Nội dung luận án được triển khai dựa trên cơ sở lý thuyết chung
về đầu tư, trong đó trọng tâm là lý thuyết về hình thức đầu tư theo hình
thức đối tác công tư.
Hình thức đầu tư theo hình thức đối tác công tư được thực hiện
bởi sự tham gia của đối tác công và đối tác tư nếu thiếu một trong hai
bên thì không thể thực hiện đầu tư theo hình thức đối tác công tư
được mà sẽ thực hiện theo hình thức đầu tư công hoặc đầu tư tư nhân.
Bên cạnh đó, luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết
chung về hợp đồng.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên kết quả đánh giá tình hình nghiên cứu đề tài và dự
kiến hướng triển khai nghiên cứu đề tài luận án, tác giả xác định các
câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu chủ yếu cần được chứng
minh trong luận án như sau:
9
Đề tài nghiên cứu được thực hiện để tìm câu trả lời cho câu
hỏi: “Quy định pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở
Việt nam có những hạn chế nào cần khắc phục để đảm bảo các quy
định pháp luật về PPP thực sự thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư
theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam?”. Để tìm đáp án cho câu
hỏi này, luận án sẽ nghiên cứu để tìm câu trả lời cho một số câu hỏi
nhỏ sau:
- Bản chất pháp lý của quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác
công tư?
- Pháp luật cần điều chỉnh như thế nào, theo cơ chế, nguyên lý
như thế nào đối với quan hệ đầu tư theo hình thức đối tác công tư?
- Để xác lập quan hệ hợp đồng đầu tư do các bên toàn quyền
quyết định hay theo chịu sự chỉ đạo của Nhà nước? Các bên chủ thể
tham gia quan hệ hợp đồng đầu tư có địa vị pháp lý bình đẳng với
nhau hay không? Pháp luật Việt Nam khi quy định về chủ thể tham
gia quan hệ này có đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên
chủ thể hay chưa?
- Trình tự, thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện nay đã phù hợp với bản chất của quan hệ này cũng như phù hợp
với thông lệ quốc tế hay chưa ? Việc lựa chọn nhà đầu tư theo quy
định hiện hành đã bảo đảm tính công khai, minh bạch chưa ? Các tiêu
chí để lựa chọn nhà đầu tư đã thực sự phù hợp để bảo đảm lựa chọn
được nhà đầu tư có năng lực tốt nhất để thực hiện dự án hay không ?
- Việc quy định về quyết toán dự án đối với dự án thực hiện
đầu tư theo hình thức PPP đã phù hợp và phản ánh đúng bản chất của
mối quan hệ này hay không ?
- Hoạt động đầu tư theo hình thức PPP thường diễn ra trong
một thời gian dài nên dễ xảy ra tranh chấp giữa các bên chủ thể
tham gia hoặc tranh chấp giữa người sử dụng dịch vụ và nhà đầu
tư. Vậy khi xảy ra tranh chấp thì cơ chế giải quyết tranh chấp nào
sẽ được áp dụng để giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng xảy ra?
10
2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, Luật
Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước
cùng các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật này, luận án đặt ra
hai giả thuyết nghiên cứu như sau:
- Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất:
Để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư theo hình thức PPP,
cần phải có quy chế pháp lý phù hợp theo đó: Các quy định pháp luật
được ban hành cần phản ánh đúng bản chất của quan hệ đầu tư theo
hình thức đối tác công tư; Quy định về địa vị pháp lý các chủ thể
tham gia quan hệ này quyền hạn, trách nhiệm, năng lực của các bên
khi tham gia quan hệ; Nhà đầu tư trong quan hệ này phải đạt được
những điều kiện nhất định nên không phải cá nhân, tổ chức nào cũng
có thể tham gia với tư cách là nhà đầu tư; Để đảm bảo lựa chọn được
nhà đầu tư có năng lực cần phải thực hiện đấu thầu công khai, minh
bạch hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng chỉ định thầu; Sự tham
gia của nhà nhà nước bằng việc hỗ trợ về mặt tài chính là cần thiết
đối với một số dự án nhất định; Cần phải quy định các biện pháp bảo
đảm của nhà nước để bù đắp những rủi ro mà nhà đầu tư có thể phải
gánh chịu; Cần phải có các quy định nhằm bảo đảm lợi ích của những
người sử dụng dịch vụ được cung cấp; Các chế tài được áp dụng phải
đủ mạnh để có thể ngăn ngừa vi phạm xảy ra, đồng thời trừng phạt
nghiêm khắc đối với chủ thể vi phạm.
- Giả thuyết nghiên cứu thứ hai:
Để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư theo hình thức PPP các
quy định pháp luật được ban hành hướng tới bảo đảm quyền và lợi
ích cho phía đối tác công nhiều hơn để thực hiện mục tiêu quản lý đối
với hoạt động đầu tư; Trong quan hệ này nhà nước có quyền can
thiệp bằng các mệnh lệnh hành chính để yêu cầu nhà đầu tư thực hiện
hoặc không thực hiện một công việc nhất định mà không được giao
kết trong hợp đồng; Nhà đầu tư chỉ cần đáp ứng điều kiện năng lực
11
về tài chính là có thể tham gia dự án PPP; Nhà nước không cần hỗ trợ
về mặt tài chính cũng như các biện pháp bảo đảm đầu tư để chia sẻ
rủi ro với nhà đầu tư vì nếu như vậy rất có thể dẫn đến việc nhà nước
sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro; Không cần có các quy định pháp luật
nhằm bảo đảm lợi ích của người sử dụng dịch vụ vì đây là quan hệ
này được xác lập thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng giữa nhà
nước và nhà đầu tư.
12
Phần thứ hai
NỘI DUNG CỦA LUẬN ÁN
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ
THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC
CÔNG TƯ
1.1. Những vấn đề lý luận về đầu tư theo hình thức đối tác công
tư
1.1.1. Khái niệm đầu tư theo hình thức đối tác công tư
Theo quan điểm của tác giả: “Đầu tư theo hình thức đối tác
công tư là một quan hệ hợp tác đặc biệt giữa Nhà nước (thông qua
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) với nhà đầu tư, được xác lập
và thực hiện trên cơ sở hợp đồng hợp tác đầu tư nhằm mục đích xây
dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình hạ tầng,
cung cấp dịch vụ công, trong đó các bên đạt được thỏa thuận về việc
phân bổ hợp lý các nguồn lực tài chính, chia sẻ rủi ro, trách nhiệm
pháp lý và các lợi ích phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động
đầu tư.”
Khái niệm trên cho thấy bản chất của mối quan hệ đối tác công
tư – vốn dĩ không phải là một quan hệ đối tác hoàn toàn bình đẳng
giữa các bên tham gia, mặc dù các bên vẫn cùng nhau giao kết hợp
đồng để tạo ra các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho chính mình thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư theo hình thức đối tác công tư
Thứ nhất, về khía cạnh bản chất pháp lý.
Đặc điểm về bản chất pháp lý của đầu tư theo hình thức đối tác
công tư là quan hệ hợp đồng, trong đó phản ánh tính chất “bất cân
xứng” giữa các bên tham gia cùng với những khác biệt về lợi thế mà
mỗi bên sở hữu.
Thứ hai, về khía cạnh chủ thể tham gia quan hệ đầu tư.
Điểm khác biệt quan trọng giữa đầu tư theo hình thức đối tác
13
công tư so với đầu tư công hay đầu tư tư là ở chỗ, hình thức đầu tư
này luôn có sự tham gia của hai bên chủ thể, trong đó một bên là Nhà
nước (thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) và một bên là
nhà đầu tư tư nhân.
Thứ ba, về khía cạnh nguồn vốn đầu tư.
Trên nguyên tắc, nguồn vốn được sử dụng để đầu tư trong hợp
đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư thường bao gồm hai
nguồn: (i) vốn đầu tư của đối tác công là nhà nước; (ii) vốn đầu tư
của đối tác tư là các nhà đầu tư tư nhân.
Thứ tư, về khía cạnh mục đích đầu tư.
Đối với chủ thể là nhà đầu tư tư nhân, mục đích tham gia quan
hệ đầu tư này chính là lợi nhuận, còn đối với chủ thể là Nhà nước thì
mục đích tham gia quan hệ đầu tư này chính là khai thác nguồn vốn
đầu tư của khu vực tư nhân, kinh nghiệm chuyên môn và khả năng
quản lý, điều hành của chủ thể này để xây dựng kết cấu hạ tầng và
cung cấp dịch vụ công.
Thứ năm, về đối tượng đầu tư là xây dựng kết cấu hạ tầng và
cung cấp dịch vụ công cho xã hội.
1.1.3. Vai trò của đầu tư theo hình thức đối tác công tư
Thứ nhất, việc đầu tư theo hình thức đối tác công tư sẽ tạo ra
nhiều khoản đầu tư hơn cho kết cấu hạ tầng.
Thứ hai, việc đầu tư theo mô hình đối tác công tư sẽ nâng cao
hiệu quả trong việc xây dựng và vận hành các công trình công cộng.
Thứ ba, việc đầu tư theo hình thức đối tác công tư sẽ phân bổ
và quản lý rủi ro tốt và hiệu quả hơn.
Thứ tư, việc đầu tư theo hình thức đối tác công tư sẽ góp
phần cải thiện chất lượng kết cấu hạ tầng và các dịch vụ công
được cung cấp.
1.2. Những vấn đề lý luận về điều chỉnh pháp luật đối với quan
hệ đầu tư theo hình thức đối tác công tư
1.2.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư
14
Ở mức độ khái quát, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về đầu
tư theo hình thức đối tác công tư như sau:
Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư là tổng thể
các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, nhằm
điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư giữa Nhà nước với nhà đầu tư tư
nhân để xây dựng, cải tạo, kinh doanh, quản lý công trình hạ tầng và
cung cấp dịch vụ công.
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về đầu tư theo hình
thức đối tác công tư
Về lý thuyết thì việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ
đầu tư theo hình thức đối tác công tư cần tuân thủ một số nguyên tắc
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư
phải được thiết kế và ban hành theo hướng đảm bảo thỏa mãn lợi ích
chính đáng và hợp pháp của các bên liên quan.
Thứ hai, pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư
phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của nhà đầu tư
tư nhân trong quan hệ đầu tư.
Thứ ba, pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư phải
đảm bảo thực hiện được mục tiêu cơ bản, cốt lõi là xây dựng, cải tạo,
vận hành, kinh doanh và quản lý các công trình hạ tầng và dịch vụ
công, đồng thời tránh nguy cơ “trục lợi” từ phía các nhà đầu tư tư
nhân thông qua việc thiết kế các điều khoản thiếu công bằng, không
có lợi cho Nhà nước trong hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác
công tư (hợp đồng dự án).
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư
Theo ý kiến của tác giả luận án, mô hình cấu trúc của pháp luật
về đầu tư theo hình thức đối tác công tư sẽ bao gồm nhưng không
giới hạn bởi các nhóm quy phạm pháp luật chủ yếu sau đây:
(i) Các quy phạm pháp luật quy định về chủ thể và quyền,
15
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư theo hình thức đối
tác công tư.
(ii) Các quy phạm pháp luật quy định về hợp đồng đầu tư theo
hình thức đối tác công tư.
(iii) Các quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục đầu
tư dự án PPP
(iv) Các quy phạm pháp luật quy định về nguồn vốn thực hiện
dự án PPP
(v) Các quy phạm pháp luật quy định về ưu đãi và bảo đảm
đầu tư
(vi) Các quy phạm pháp luật quy định về quyết toán công trình
dự án PPP
(vii) Các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức quản lý
dự án, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư theo hình thức đối tác
công tư.
(viii) Các quy phạm pháp luật quy định về xử lý vi phạm pháp
luật và giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện dự án
đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
16
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC
ĐỐI TÁC CÔNG TƯ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quy định về chủ thể tham gia quan hệ đầu tư
theo hình thức đối tác công tư
Ở mức độ khái quát, có thể chỉ ra một số hạn chế, bất cập chủ
yếu sau:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành quy định chưa hợp lý về việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ủy quyền ký hợp đồng dự án cho các
đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.
Thứ hai, pháp luật hiện hành còn để ngỏ các quy định về trách
nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp các cơ
quan này không thực hiện theo đúng cam kết trong hợp đồng PPP.
Thứ ba, pháp luật hiện hành quy định khá chung chung, thiếu
cụ thể về nhà đầu tư tham gia vào các dự án đầu tư theo hình thức đối
tác công tư, dẫn đến những bất cập trong quá trình thực hiện trong
thực tế.
Thứ tư, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về địa vị pháp lý
của doanh nghiệp dự án và mối quan hệ pháp lý giữa doanh nghiệp
dự án với nhà đầu tư và cơ quan nhà nước có thẩm quyền (đối tác
công) trong quá trình thực hiện dự án PPP.
2.2. Thực trạng quy định về hợp đồng đầu tư theo hình thức đối
tác công tư ở Việt Nam
Thứ nhất, về tên gọi của hợp đồng đầu tư theo hình thức đối
tác công tư.
Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư được ghi nhận
tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP dưới tên gọi “Hợp
đồng dự án”.
Thứ hai, về các loại hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác
công tư.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hợp đồng đầu tư theo
17
hình thức đối tác công tư (hay hợp đồng dự án) có thể được các bên
giao kết theo một trong các loại chủ yếu sau:
- Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT);
- Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (BOO);
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (BTL);
- Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (BLT);
- Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (O&M).
Thứ ba, về nội dung của hợp đồng dự án.
Nội dung hợp đồng là các điều khoản đã được các bên bàn bạc,
thỏa thuận trên cơ sở hợp tác và cùng có lợi, trong đó trực tiếp ấn
định quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ hợp
đồng.
Thứ tư, về ký kết và thực hiện hợp đồng dự án.
Theo quy định tại Điều 39 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, căn
cứ quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư và kết quả đàm
phán, hoàn thiện hợp đồng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức
việc ký kết hợp đồng dự án.
Thứ năm, về vấn đề công khai hợp đồng dự án.
Theo quy định tại Điều 41 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, công
khai thông tin hợp đồng dự án là một thủ tục bắt buộc phải thực hiện
nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin của xã hội và cộng đồng.
Thứ sáu, về chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư
theo hợp đồng dự án cho tổ chức, cá nhân khác.
Trong thời hạn thực hiện hợp đồng dự án, nếu nhà đầu tư và
doanh nghiệp dự án không thể hoặc không muốn tiếp tục thực hiện
hợp đồng dự án, có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ này cho chủ
thể khác.
Qua nghiên cứu các quy định về hợp đồng đầu tư theo hình
18
thức đối tác công tư, có thể chỉ ra một số hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, pháp luật hiện hành chưa có sự thống nhất về tên gọi
của hợp đồng được ký kết giữa nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư.
Hai là, các quy định về hợp đồng dự án hiện nay chưa thể hiện
rõ việc giao kết, thực hiện hợp đồng có phải tuân thủ các nguyên tắc
cơ bản đã được quy định trong Bộ luật dân sự hay không?
Ba là, các quy định về hợp đồng dự án hiện nay chưa đủ sức
ngăn ngừa nguy cơ lợi dụng việc triển khai các dự án đầu tư theo
hình thức đối tác công tư để trục lợi và chiếm đoạt tài sản công hoặc
gây thất thoát, lãng phí nguồn lực tài chính của quốc gia, hình thành
lợi ích nhóm trong quá trình thực hiện dự án PPP.
Bốn là, pháp luật hiện hành chưa có quy định thống nhất về
mẫu hợp đồng dự án để đảm bảo phù hợp với tính chất đặc thù của
mỗi loại hợp đồng dự án.
2.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục đối với hoạt động
đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam
Qua nghiên cứu, khảo sát thực trạng quy định về trình tự, thủ
tục liên quan đến hoạt động đầu tư theo hình thức đối tác công tư,
trong đó có thủ tục lựa chọn nhà đầu tư, tác giả luận án cho rằng các
quy định này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các quy định hiện hành về thủ tục lựa chọn nhà đầu
tư cho các dự án PPP bằng phương thức chỉ định thầu được quy định
rất chung chung, chưa rõ ràng, dễ bị lợi dụng và gây khó khăn cho
quá trình áp dụng trong thực tiễn.
Thứ hai, pháp luật quy định việc áp dụng hình thức chỉ định
thầu để lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án PPP không chỉ làm hạn chế
tính cạnh tranh, làm giảm hiệu quả đầu tư của dự án, mà còn tạo kẽ hở
để tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm có cơ hội tồn tại, phát triển
thông qua các dự án PPP.
19
2.4. Thực trạng quy định về nguồn vốn thực hiện dự án đầu tư
theo hình thức đối tác công tư
Qua khảo sát thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư theo hình
thức đối tác công tư, tác giả luận án cho rằng nhóm quy phạm pháp
luật quy định về nguồn vốn thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối
tác công tư đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, hạn chế, bất cập của quy định về phần vốn góp của
nhà đầu tư.
Theo quy định của Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, nguồn vốn
góp là vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư tối thiểu phải là 20% trên tổng
vốn đầu tư của dự án (đối với các dự án đầu tư có tổng vốn đầu tư
đến 1.500 tỷ đồng) và tối thiểu 10% tổng vốn đầu tư (đối với phần
vốn đầu tư vượt quá 1.500 tỷ đồng).
Việc quy định tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng vốn đầu tư như
quy định hiện nay là chưa phù hợp và còn thấp.
Thứ hai, hạn chế, bất cập của quy định về phần vốn tham gia
của Nhà nước.
Các bằng chứng cho thấy cấu trúc tài trợ vốn rất quan trọng đối
với sự thành công của PPP, trong đó cấu trúc tài trợ vốn được hiểu
bao gồm tỷ lệ phần vốn góp của Nhà nước và tư nhân trong dự án
PPP. Chính phủ cần mở rộng biên độ hỗ trợ vốn nhằm tăng tính khả
thi về tài chính của dự án PPP.
2.5. Thực trạng quy định về ưu đãi và bảo đảm đầu tư cho
các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư
Có thể nhận thấy, hạn chế, bất cập trong quy định về ưu đãi,
bảo đảm đầu tư đối với dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư
được thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các quy định về ưu đãi đầu tư chưa rõ ràng, cụ thể
nên khó áp dụng trong thực tế.
Thứ hai, các quy định về chia sẻ rủi ro chưa được để cập đến
cả về mặt nguyên tắc cũng như cơ chế xác định và phân bổ rủi ro cho
20
mỗi bên ra sao trong quá trình triển khai, thực hiện, vận hành các dự
án PPP.
2.6. Thực trạng quy định về quyết toán công trình dự án đầu tư
theo hình thức đối tác công tư
Một là, theo quy định hiện nay tại Nghị định số 63/2018/NĐ-
CP, nhà làm lu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_phap_luat_ve_dau_tu_theo_hinh_thuc_doi_tac_c.pdf