Tóm tắt Luận án Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và Tiếng Việt

Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái nhận thức ở

hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh

Phương tiện các đại từ nghi vấn tình thái who, why, how, what,

where, các trợ động từ tình thái do, be, have ở trong mệnh đề phụ

của các câu trần thuật và câu mệnh lệnh dùng để hỏi. Đặc điểm ngữ

nghĩa của phương tiện từ nghi vấn này mang lại ý nghĩa nhận thức nào

đó về tiêu điểm nghi vấn của người nói được phản ánh trong câu

pdf27 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề tình thái trên nhiều phương diện khác nhau. Trong đó Cao Xuân Hạo (1999) đã phân biệt hai loại tình thái là tình thái hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Nguyễn Thị Lương (1996) vận dụng lí thuyết hành động ngôn từ vào việc nghiên cứu mười tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi nhằm tìm ra các hành động ngôn từ mà tiểu từ tình thái dứt câu có khả năng biểu thị trong những ngữ cảnh cụ thể mà chúng xuất hiện, miêu tả đánh giá hiệu lực của các hành động đó”. Phạm Hùng Việt cho rằng để biểu thị ý nghĩa tình thái của câu cần có các phương tiện như: phương tiện ngữ âm (ngữ điệu, trọng âm), từ vựng (động từ tình thái, phụ từ, trợ từ, thán từ, quán ngữ tình thái), ngữ pháp (đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc câu...)và trợ từ tiếng Việt có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành động ngôn từ khác nhau gồm cả các hành động ngôn từ trực tiếp và các hành động ngôn từ gián tiếp. Nguyễn Văn Hiệp (2007) nêu ra những phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ dựa trên sự đối lập của các cặp nghĩa tình thái như sự đối lập giữa tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo nghĩa (deontic modality), sự đối lập giữa tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái căn bản (root modality), đối lập giữa tình thái hướng tác thể (agent- oriented modality) và tình thái hướng người nói ( speaker- oriented modality), đối lập giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Những đối lập về tình thái mà ông nêu ra cho thấy phạm vi rất rộng trong việc nghiên cứu về tình thái. Việc nghiên cứu tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái trong hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt bước đầu giúp chúng tôi chúng tôi xác định được thế nào là hành động hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt, nhận diện về hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp, tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa cùng phương tiện biểu hiện những tình thái này. 1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu hành động hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt Nghiên cứu hành động hỏi là một vấn đề tuy không mới và được các nhà ngôn ngữ học rất quan tâm song quan điểm của các nhà nghiên cứu cũng có những khác nhau. Đối với tiếng Anh, đặc biệt chú ý có công trình của J. Austin (1969) và J. Searle (2001) khi các nhà nghiên cứu đề cập đến thuyết hành động ngôn từ. Các nhà nghiên cứu như A.Wierzbicka, J. Sadock, G.Gazdar, R.M Harnis, G.Yule cùng có chung quan điểm với J.Searle về tiêu chí phân loại hành động ngôn từ, đó là các đặc tính chủ yếu, quan trọng của hành động ngôn từ. Tuy nhiên điểm khác nhau trong nghiên cứu của các tác giả về hành động ngôn từ nằm ở những tiêu chí bổ sung cho các đặc tính quyết định hành động ngôn trung như là các điều kiện sử dụng, hay điều kiện thỏa mãn, định hướng sắp xếp các tiêu chí nhỏ thuộc các tiêu chí lớn trong phân loại. Các công trình của J. Austin (1969) O Ducrot (1972) J.Searle (1979)...hướng nghiên cứu về vấn đề ngữ nghĩa, ngữ dụng học của câu hỏi. J. Searle là người khởi xướng trong việc nghiên cứu về hành động ngôn từ gián tiếp. O. Ducrot với quan điểm nghiên cứu câu hỏi trong mối quan hệ giữa câu- phát ngôn. Đối với tiếng Việt, nghiên cứu của Nguyễn Kim Thản (1979) cho thấy việc nhận diện câu nghi vấn qua mục đích nói. Hồ Lê (1992), Cao Xuân Hạo(1995), Diệp Quang Ban (2000) nhận diện câu nghi vấn thông qua các tiêu chí hỏi có dấu hiệu hỏi và dấu hiệu tình thái hỏi. Việc đảo trật tự, thay đổi cấu trúc của câu hỏi có thể thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn nào đó trong phát ngôn hỏi.Ở bình diện ngữ dụng học, đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Lê Đông (1996) về câu nghi vấn. Ông xem xét vấn đề câu nghi vấn trong các mối quan hệ giao tiếp liên nhân như người tham giao tiếp, vai giao tiếp, ngữ cảnh, mục đích nói, thái độ của người nói. Lê Đông nghiên cứu sâu về ngữ nghĩa ngữ dụng của câu hỏi chính danh, các tiểu loại câu hỏi, thông tin ngữ dụng bổ trợ, tình thái trong câu hỏi chính danh. Nguyễn Thị Thìn (1996) tập trung bàn về 11 kiểu câu hỏi không dùng để hỏi, câu hỏi gián tiếp, câu hỏi không chính danh trong mối quan hệ giữa cấu trúc ngữ pháp và cách sử dụng, quan hệ của cấu trúc với chức năng cho nên nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc miêu tả mục đích và đặc điểm cú pháp, đặc điểm cách dùng của 3 loại câu hỏi trong số các kiểu câu hỏi điển hình không dùng để hỏi. Võ Đại Quang (2000) nghiên cứu về đặc điểm câu hỏi chính danh tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện ngữ dụng học với các quan điểm phân loại chúng thành câu hỏi lựa chọn hiển ngôn, câu hỏi lựa chọn ngầm ẩn và câu hỏi không lựa chọn qua đó rút ra những tương đồng và khác biệt về phương diện ngữ nghĩa ngữ dụng của câu hỏi chính danh tiếng Anh và tiếng Việt. Nguyễn Việt Tiến (2006) nghiên cứu về hành động hỏi và câu hỏi theo quan điểm ngữ dụng học trên cứ liệu tiếng Pháp với những phân tích cụ thể hành động hỏi và câu hỏi tiếng Việt và tiếng Pháp trong hành chức cụ thể của chúng. Nguyễn Phúc Trung (2011) nghiên cứu về hành động hỏi trong ngôn ngữ phỏng vấn truyền hình (trên các kênh của VTV, có so sánh với kênh TV5 của Pháp) theo quan điểm dụng học. Nghiên cứu tập trung tìm hiểu về hành động hỏi và các hành động ngôn ngữ khác nữa với mục đích khai thác được thông tin cần thiết mà người nói mong muốn trong các hình thức hồi đáp trên khía cạnh cặp thoại, tham thoại liên quan đến tính lịch sự và thể diện của các hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn truyền hình. CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN BIỆN HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH ĐỘNG HỎI TRỰC TIẾP TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 2.1. Khái quát về hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt 2.1.1. Định nghĩa hành động hỏi trực tiếp Những hành động ngôn từ thực hiện các chức năng của chúng một cách trực tiếp và theo nghĩa đen được gọi là những hành động ngôn từ trực tiếp. Tức là cái chức năng mà câu thực hiện trong diễn ngôn là từ nghĩa đen của nó. Các hành động ngôn từ trực tiếp có thể được thực hiện theo hai cách: 1) Bằng cách tạo ra một phát ngôn theo nghĩa đen, trực tiếp; 2) Bằng cách sử dụng một động từ ngôn hành gọi tên hành động ngôn từ đó. Như vậy hành động hỏi trực tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện bằng câu nghi vấn mang biểu thức hỏi nhằm tìm kiếm thông tin chưa biết cần biết. Chúng ta có thể sử dụng câu nghi vấn để thực hiện hành động hỏi trực tiếp. 2.1.2. Nhận diện hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh Hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh được thực hiện bằng câu nghi vấn. Hình thức của câu nghi vấn trong tiếng Anh thể hiện như sau: 1. Vị trí đầu tiên của động từ làm vị ngữ (hay còn được gọi là vị từ) trong tiếng Anh. 2. Câu nghi vấn với từ nghi vấn bắt đầu bằng what, when, where, who, whom, which, whose, why và how. 3. Câu nghi vấn với từ nghi vấn what, who, which or whose là chủ ngữ hay một phần của chủ ngữ, câu nghi vấn này không có trợ động từ 4. Câu nghi vấn có từ nghi vấn mang nghĩa phủ định được hình thành bằng cách thêm ‘not’ vào sau trợ động từ. 5. Câu nghi vấn mang nghĩa phủ định Như vậy hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh được nhận diện như sau: (1) Hành động được thực hiện bằng câu nghi vấn như (Câu nghi vấn tổng quát (Overview questions or Yes-No questions), Câu nghi vấn bộ phận (Wh- questions), Câu nghi vấn lựa chọn sử dụng OR ( Questions with OR) hoặc sử dụng động từ ngôn hành gọi tên hành động ngôn từ hỏi (ask) (2) Đại từ nghi vấn trong câu nghi vấn đóng vai trò là phương tiện chuyển tải tình thái. (3) Ngữ điệu hỏi Trong tiếng Anh ngữ điệu hỏi thường được sử dụng là ngữ điệu đi lên (glide-up) trong các câu nghi vấn tổng quát (yes-no questions, tag questions) và xuống giọng ở các câu nghi vấn bộ phận (Wh-questions) (4) Trợ từ tình thái trong câu nghi vấn (5) Cuối câu nghi vấn có dấu hỏi chấm (?) ở dạng viết. 2.1.3. Nhận diện hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt Hành động hỏi trực tiếp là hành động mà hiệu lực ngôn trung hỏi của nó phù hợp với hình thức và chức năng của kiểu câu nghi vấn được dùng để biểu thị nó”. Hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt được nhận diện như sau: - Hành động hỏi được thực hiện bằng câu câu nghi vấn - Hành động hỏi được sử dụng đúng với điều kiện sử dụng - Hành động hỏi sử dụng đúng với đích ngôn trung hỏi của chúng. Hình thức của câu nghi vấn tiếng Việt được thể hiện như sau: 1. Câu nghi vấn thường sử dụng những đại từ nghi vấn ai, gì, nào, sao, tại sao, đâu, bao giờ, bao nhiêu, à, ư, hả, chứ, các tiểu từ hỏi chuyên dụng trong các khuôn hỏi như (có) không ,có phải... không.... (đã, chưa) 2. Các tiểu từ hỏi chuyên dụng trong các khuôn hỏi như (có) không ,có phải... không.... (đã, chưa) hoặc có từ hay (nối các vế có quan hệ lựa chọn). 3. Tiểu từ tình thái (à, ư, nhỉ, nhé..). 4. Kết thúc câu nghi vấn là dấu hỏi chấm (?) ở dạng viết và ngữ điệu nghi vấn ở dạng nói ( thường là ngữ điệu lên giọng ở cuối câu) Trong tiếng Việt, hành động hỏi trực tiếp là hành động được thực hiện bằng câu nghi vấn tổng quát, Câu nghi vấn bộ phận, Câu nghi vấn lựa chọn, và Câu nghi vấn vọng lại. 2.2. Các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh 2.2.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh Tình thái trong hành động hỏi trực tiếp là tình thái nghi vấn. Tình thái nghi vấn được người nói dùng để biểu hiện ý muốn tìm hiểu điều chưa biết hoặc còn hồ nghi và mong đợi sự trả lời, sự giải thích của người nghe. Phương tiện truyền tải tình thái nghi vấn là câu nghi vấn. Theo tổng hợp từ nguồn ngữ liệu phát ngôn nghi vấn trong corpus song ngữ Anh -Việt ( các tác phẩm văn học như “Gone with the Wind”(Cuốn theo chiều gió) của Margaret Mitchell, “The Da Vinci Code” (Mật mã Da Vinci) của Dan Brown, chúng tôi thống kê có có 545 câu nghi vấn tổng quát, 525 câu nghi vấn bộ phận, 485 câu nghi vấn lựa chọn, 465 câu nghi vấn vọng lại trên tổng số hơn 2020 phát ngôn nghi vấn. Tình thái nghi vấn thể hiện bằng phương tiện các câu nghi vấn thường chứa đựng những động từ vị ngữ tình thái (look like, suppose, think, would of ask, may, will, must, should,), khung cấu trúc hỏi với or/ or maybe, từ nghi vấn what, why, how, where, when,,các động từ Say, tell, ask đứng trước toàn bộ mệnh đề nghi vấn hay từ nghi vấn dùng để hỏi. 2.2.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh Tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh được đánh dấu bằng thức trần thuật (declarative mood), động từ tình thái làm vị ngữ (modal verbs), tính từ tình thái (modal adjectives) , danh từ tình thái (modal nouns), biểu thức rào đón (hedges) , trạng từ tình thái (modal adverbs) . 2.3. Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt 2.3.1. Phương tiện biểu hiện tình thái của hành động ngôn từ ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt Nghi vấn là hành động ngôn từ được người nói dùng để biểu hiện điều chưa biết hoặc còn hồ nghi và mong đợi sự trả lời, sự giải thích của người nghe. Tình thái trong hành động hỏi trực tiếp Tiếng Việt là tình thái nghi vấn. Tình thái nghi vấn đựơc thể hiện qua phương tiện câu nghi vấn như câu nghi vấn tổng quát, câu nghi vấn lựa chọn, câu nghi vấn bộ phận, câu hỏi/ nghi vấn vọng lại. 2.3.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt Tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa đều thuộc phạm trù tình thái chủ quan. Tình thái chủ quan là loại tình thái có liên quan đến thái độ của người nói đối với điều được nói ra trong câu cũng như quan hệ giữa chủ thể và vị thể của một mệnh đề được biểu đạt. Tình thái chủ quan còn là nhận định của người nói về chân trị của điều được truyền đạt trong câu; là tính khả năng hay tính tất yếu của điều đó; là cách đánh giá của người nói đối với sự tình được truyền đạt; là sự giới thiệu của người nói về tính chất câu nói; là mối liên hệ giữa câu và tình huống đối thoại hay với ngữ cảnh và nhiều nội dung khác thuộc lĩnh vực logic hoặc siêu ngôn ngữ. Các phương tiện thể hiện tình thái trong tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa trong hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt được biểu đạt bằng: (1) Động từ tình thái: muốn, có thể, phải, dám, cần phải, phải nói, biết, nghĩ, đoán, đồ, tiên đoán, bị, nên, cần, hi vọng, sẽ, suýt, toan, định, hòng; (2) Phụ từ tình thái: đã, đang, sẽ, còn, chưa.; (3) Tiểu từ tình thái: à, ư, nhỉ, nhé, chăng..; (4) Trạng từ tình thái: có lẽ là, có thể là, chắc chắn, thường xuyên, cần thiết, thường thường, thực tế; (5) Tính từ tình thái: thật, quả thật, hiển nhiên, rõ ràng, đúng, rất, quá, lắm, chắc, hết sức, vô cùng, cực kì, tốt nhất, ít nhất, vừa vừa.. (6) Biểu thức rào đón: Chúng (tôi) cho rằng, chúng (tôi) nghĩ rằng, tôi nghĩ rằng, chúng (tôi) tin rằng, theo chúng tôi, theo tôi; tôi hỏi khí không phải, tôi mạn phép hỏi, nếu không phiền tôi xin phép hỏi.; 2.3.3. Nhận xét những tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh và tiếng Việt 2.3.3.1. Tương đồng Trong cả hai ngôn ngữ, phương tiện truyền tải tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa trong hành động hỏi trực tiếp gồm phương tiện ngữ pháp, phương tiện từ vựng và phương tiện ngữ âm. Về mặt số lượng các phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp ở cả hai ngôn ngữ là tương đương nhau. 2.3.3.2. Khác biệt Ở các ngôn ngữ khác nhau, các cách diễn đạt nghĩa tình thái cũng không giống nhau. Trong tiếng Anh, nghĩa tình thái được thể hiện qua các hệ thống ngữ pháp như thức - Phương tiện danh từ tình thái ( possibility, probability) và phương tiện ngữ âm (đường nét ngôn điệu – contour, ngữ điệu –tune: the glide- down, the glide-up, the take-off, the dive...) âm tiết tiết điệu ( tonic syllable), âm vực (pitch) chất giọng ( voice quality) kết hợp với các từ tình thái chuyển tải nội dung nghi vấn là một trong phương tiện chuyển tải nghĩa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa khá đặc thù trong tiếng Anh mà trong tiếng Việt lại không có hoặc rất hiếm khi sử dụng. Chúng ta nhận thấy bộ phận từ vựng như các tiểu từ tình thái (à , ư , nh ỉ , nh é, sao, chăng) đều chuyển tải một nghĩa tình thái nào đó và là một nét đặc thù trong tiếng Việt, tuy nhiên các tiểu từ tình thái này lại không có trong tiếng Anh, thay vào đó người Anh dùng ngôn điệu (ngữ điệu, trọng âm âm lượng) để truyền tải các nét nghĩa tình thái. CHƯƠNG 3 PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH ĐỘNG HỎI GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 3.1. Khái quát về hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt Từ các quan điểm về hành động ngôn từ gián tiếp có thể nhận thấy hành động hỏi gián tiếp có hai dạng biểu hiện: Dạng biểu hiện thứ nhất là lực ngôn trung hỏi được biểu hiện dưới một hình thức không phải câu hỏi, và biểu hiện thứ hai là hình thức câu hỏi được dùng để biểu thị một hiệu lực ở lời khác- không phải để yêu cầu cung cấp thông tin. Trong khuôn khổ của luận án này chúng tôi tập trung vào dạng biểu hiện thứ nhất. 3.1.1. Định nghĩa hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh Hành động hỏi gián tiếp là hành động hỏi sử dụng kiểu câu không có hình thức của câu nghi vấn và được nhận diện bằng mục đích của người nói, như thế có nghĩa là có nhiều cách để thực hiện hành động hỏi. Việc thực hiện hành động hỏi thông qua câu nghi vấn thì gọi là hành động hỏi trực tiếp. Còn hành động hỏi gián tiếp là hành động khi người nói không dùng câu nghi vấn mà dùng câu trần thuật và câu mệnh lệnh để hỏi nhằm tìm thấy thông tin trả lời mà người nói muốn biết. 3.1.2. Nhận diện hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh Hành động hỏi gián tiếp được nhận diện bằng mục đích của người nói, bằng hình thức và cấu trúc các câu trần thuật, mệnh lệnh được sử dụng trong giao tiếp. Chúng thường có những dấu hiệu hình thức sau đây: 3.1.2.1. Hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh thông qua câu trần thuật (1) Mệnh đề chính dùng thức trần thuật. (2) Mệnh đề phụ có chứa đựng các đại từ nghi vấn, các từ tình thái (3) Ngữ điệu hỏi. Hình thức câu trần thuật tiếng Anh Đặc điểm hình thức câu trần thuật là nó không có đặc điểm hình thức của các loại câu nghi vấn, câu mệnh lệnh hay câu cảm thán, nghĩa là câu trần thuật không sử dụng những từ ngữ đặc trưng, từ ngữ riêng như từ nghi vấn, từ cầu khiến/ mệnh lệnh, từ cảm thán. Câu trần thuật là loại câu phổ biến và quan trọng nhất. Chức năng của câu trần thuật là để truyền đạt thông tin, một sự việc, một hiện tượng hoặc để tuyên bố một điều gì đó. Ở dạng viết, câu trần thuật thường được kết thúc bởi dấu chấm câu (.), hoặc đôi khi là dấu chấm than(!) hoặc dấu chấm lửng(;) Ở dạng nói câu trần thuật có ngữ điệu kể hay là ngữ điệu trần thuật .Câu trần thuật thường được chia làm hai dạng: dạng khẳng định (affirmative) và dạng phủ định (negative). Cấu trúc của câu trần thuật dùng để hỏi bao gồm thức trần thuật của động từ (ở mệnh đề chính), từ nghi vấn (Wh- word) ở tiểu cú. 2.2.2.2. Hành động hỏi gián tiếp thông qua câu mệnh lệnh tiếng Anh Hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh thông qua câu mệnh lệnh thường thấy là: (1) Mệnh đề chính là một thức mệnh lệnh. (2) Mệnh đề phụ có chứa các đại từ nghi vấn như Who, Whom, which, whose, why, how... (3) Ngữ điệu hỏi. Hình thức câu mệnh lệnh tiếng Anh Câu mệnh lệnh (Imperative sentence) là câu có tính chất sai khiến nên còn được gọi là câu cầu khiến, được dùng khi người nói yêu cầu hoặc ra lệnh cho một người khác làm một việc gì đó. Nó thường theo sau bởi từ “please”. Chủ ngữ của câu mệnh lệnh được ngầm hiểu là “you”. Trong tiếng Anh, câu mệnh lệnh được đặc trưng bằng thức mệnh lệnh với dấu hiệu vắng chủ ngữ, động từ ở nguyên dạng và không có từ tình thái cũng như những phương tiện đánh dấu thời, thể đi kèm. Hành động hỏi gián tiếp tiếng Việt thông qua câu trần thuật có những dấu hiệu sau đây: (1) Các động từ tình thái: muốn biết, thắc mắc, băn khoăn, muốn hỏi ở vị trí vị ngữ và các từ nghi vấn như ai, gì nào, sao, không, có phải.. ở vị trí tiểu cú phù hợp trong câu. (2) Có lực ngôn trung nghi vấn (3) Ngữ cảnh Hình thức câu trần thuật tiếng Việt Câu trần thuật là câu miêu tả, trình bày, nhận định rất nhiều loại sự tình, sự việc. Câu trần thuật trong tiếng Việt không có những dấu hiệu hình thức được đánh dấu (unmarked sentence) như các kiểu câu khác, chúng được thấy là một nhận định và có những dấu hiệu ngôn hành riêng. Loại câu này thường dùng dấu chấm khi kết thúc. Các câu trần thuật không phải bao giờ cũng được dùng để nhận định mà ngoài các giá trị đó ra chúng còn được dùng với chức năng hỏi hay yêu cầu đề nghị hay biểu lộ cảm xúc. Câu trần thuật là kiểu câu rất phổ biến trong giao tiếp. Hành động hỏi gián tiếp thông qua câu trần thuật được nhận diện thông qua: Các động từ tình thái: muốn biết, thắc mắc, băn khoăn, muốn hỏi ở vị trí vị ngữ, các từ nghi vấn như ai, gì nào, sao, không, có phải ...ở vị trí mệnh đề phụ phù hợp trong câu. 3.1.2.2. Hành động hỏi gián tiếp tiếng Việt thông qua câu mệnh lệnh. Hành động hỏi gián tiếp tiếng Việt thông qua câu mệnh lệnh những dấu hiệu sau đây: (1). Động từ thể hiện hành động yêu cầu, đòi hỏi, hỏi: Nói cho biết, hãy nói, hãy cho biết.... (2). Các từ nghi vấn như tại sao, cái gì, nào, đâu,đi chứ, đi nào...trong tiểu cú. (3). Ngữ cảnh Hình thức câu mệnh lệnh trong tiếng Việt Câu mệnh lệnh trong tiếng Việt, thật ra, là một cấu trúc trần thuật nhưng được đánh dấu chủ yếu bằng ngữ điệu và một số yếu tố tình thái như “ hãy, đừng, chớ, v.v...” hay các tiểu từ “ đi, nào, thôi,đi chứ, v.v...” .Cuối câu có dấu chấm than.(!) 3.2. Các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh 3.2.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh Tình thái trong hành động hỏi trực tiếp là tình thái nghi vấn. Tình thái nghi vấn được người nói dùng để biểu hiện ý muốn tìm hiểu điều chưa biết hoặc còn hồ nghi và mong đợi sự trả lời, sự giải thích của người nghe. Phương tiện truyền tải tình thái nghi vấn là câu nghi vấn. Theo tổng hợp từ nguồn ngữ liệu chúng tôi thống kê có 545 câu nghi vấn tổng quát, 525 câu nghi vấn bộ phận, 485 câu nghi vấn lựa chọn, 465 câu nghi vấn vọng lại trên tổng số hơn 2020 phát ngôn nghi vấn. Tình thái nghi vấn thể hiện bằng phương tiện các câu nghi vấn thường chứa đựng những động từ vị ngữ tình thái (look like, suppose, think, would of ask, may, will, must, should,), khung cấu trúc hỏi với or/ or maybe, từ nghi vấn what, why, how, where, when,,các động từ Say, tell, ask đứng trước toàn bộ mệnh đề nghi vấn hay từ nghi vấn dùng để hỏi. 3.2.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh Tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh được đánh dấu bằng thức trần thuật (declarative mood), động từ tình thái làm vị ngữ (modality verb), tính từ tình thái (modality adjective) , danh từ tình thái (modality noun), biểu thức rào đón (hedges) , trạng từ tình thái (modality adverbs) . 3.3. Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt. 3.3.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt Nghi vấn là hành động ngôn từ được người nói dùng để biểu hiện điều chưa biết hoặc còn hồ nghi và mong đợi sự trả lời, sự giải thích của người nghe. Tình thái trong hành động hỏi trực tiếp Tiếng Việt là tình thái nghi vấn. Tình thái nghi vấn đựơc thể hiện qua phương tiện câu nghi vấn như câu nghi vấn tổng quát, câu nghi vấn lựa chọn, câu nghi vấn bộ phận, câu nghi vấn vọng lại. 3.3.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt Tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa đều thuộc phạm trù tình thái chủ quan. Tình thái chủ quan là loại tình thái có liên quan đến thái độ của người nói đối với điều được nói ra trong câu cũng như quan hệ giữa chủ thể và vị thể của một mệnh đề được biểu đạt. Tình thái chủ quan còn là nhận định của người nói về chân trị của điều được truyền đạt trong câu; là tính khả năng hay tính tất yếu của điều đó; là cách đánh giá của người nói đối với sự tình được truyền đạt; là sự giới thiệu của người nói về tính chất câu nói; là mối liên hệ giữa câu và tình huống đối thoại hay với ngữ cảnh và nhiều nội dung khác thuộc lĩnh vực logic hoặc siêu ngôn ngữ. Các phương tiện thể hiện tình thái trong tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa trong hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt được biểu đạt bằng: (1) Động từ tình thái: muốn, có thể, phải, dám, cần phải, phải nói, biết, nghĩ, đoán, đồ, tiên đoán, bị, nên, cần, hi vọng, sẽ, suýt, toan, định, hòng; (2) Phụ từ tình thái: đã, đang, sẽ, còn, chưa.; (3) Tiểu từ tình thái: à, ư, nhỉ, nhé, chăng..; (4) Trạng từ tình thái: có lẽ là, có thể là, chắc chắn, thường xuyên, cần thiết, thường thường, thực tế; (5) Tính từ tình thái: hiển nhiên, rõ ràng, đúng, tốt nhất, ít nhất, vừa vừa ..kèm các phụ từ mức độ rất, quá, lắm, chắc, hết sức, vô cùng, cực kì. (6) Biểu thức rào đón: Chúng (tôi) cho rằng, chúng (tôi) nghĩ rằng, tôi nghĩ rằng, chúng (tôi) tin rằng, theo chúng tôi, theo tôi; tôi hỏi khí không phải, tôi mạn phép hỏi, nếu không phiền tôi xin phép hỏi.; 3.3.3. Nhận xét những tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh và tiếng Việt 3.3.3.1. Tương đồng Trong cả hai ngôn ngữ, phương tiện truyền tải tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa trong hành động hỏi trực tiếp gồm phương tiện ngữ pháp, phương tiện từ vựng và phương tiện ngữ âm. Về mặt số lượng các phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp ở cả hai ngôn ngữ là tương đương nhau. 3.3.3.2. Khác biệt Ở các ngôn ngữ khác nhau, các cách diễn đạt nghĩa tình thái cũng không giống nhau. Trong tiếng Anh, nghĩa tình thái được thể hiện qua các hệ thống ngữ pháp như thức - Phương tiện từ vựng như danh từ tình thái ( possibility, probability) và phương tiện ngữ âm( như ngữ điệu the glide-down, the glide-up, the take-off, the dive) là một trong những phương tiện chuyển tải nghĩa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa khá đặc thù trong tiếng Anh mà trong tiếng Việt lại không có hoặc rất hiếm khi sử dụng. Chúng ta nhận thấy bộ phận từ vựng như các tiểu từ tình thái (à , ư , nh ỉ , nh é, sao, chăng) đều chuyển tải một nghĩa tình thái nào đó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_phuong_tien_bieu_hien_nghia_tinh_thai_o_hanh.pdf
Tài liệu liên quan