Chính sách và kế hoạch phát triển xã hội của Chính phủ
Trong giai đoạn 1993 - 2013, Chính phủ Campuchia cũng đã ban hành các chính sách nhằm khôi phục và phát triển các lĩnh vực xã hội được thể hiện trong Chương trình Quốc gia Phục hồi và Phát triển Campuchia (NPRD), sau đó là Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội (SEDP) từ 1996 - 2000 và 2 chiến lược phát triển tứ giác.
Ngoài những mục tiêu kinh tế, Chính phủ Campuchia xác định mục tiêu của INPRD trên lĩnh vực phát triển xã hội là Cải thiện giáo dục và y tế để phát triển nguồn nhân lực và cải thiện mức sống của người dân; Phục hồi và phát triển cơ sở hạ tầng vật chất và các phương tiện công; Ưu tiên phát triển nông thôn, quản lý môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên theo cách bền vững.
Song song với việc triển khai các mục tiêu phát triển giáo dục được đề ra trong EFA, Chính phủ Campuchia đã ban hành các Kế hoạch chiến lược phát triển giáo dục (ESP) cho các giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2009, 2010 - 2013. Các chiến lược này tập trung vào ba vấn đề cơ bản là: Tiếp cận bình đẳng các dịch vụ giáo dục; Chất lượng và hiệu quả giáo dục và Xây dựng năng lực theo các cấp độ.
Về nâng cấp dịch vụ y tế: tăng nguồn lực công, huy động khu vực tư nhân đầu tư cho khu vực y tế, ưu tiên xây dựng các bệnh viện, trung tâm y tế; thực hiện ngăn ngừa, kiểm soát dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, người nghèo; cải thiện dịch vụ y tế chất lượng cao. Về thực hiện chính sách về giới: thực hiện chính sách bình đẳng giới, ưu tiên nâng cao vai trò và địa vị xã hội cho phụ nữ Campuchia, xây dựng năng lực cho phụ nữ ở các khu vực. Về thực hiện chính sách dân số phù hợp với bối cảnh, văn hóa xã hội Campuchia với các ưu tiên: hỗ trợ các gia đình, cặp vợ chống quyết định số trẻ khi sinh, khoảng cách sinh, đảm bảo tiếp cận với thông tin, giáo dục, phân phối dịch vụ; giảm tỷ lệ sinh tự nhiên, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, thúc đẩy bình đẳng và công bằng về giới; giảm tác động bất lợi về áp lực dân số đối với môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên; ngăn ngừa dịch bệnh HIV/AIDS .
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 669 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quá trình phát triển kinh tế - Xã hội của vương quốc Campuchia từ năm 1993 đến năm 2013, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mẽ với sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Đối với Campuchia, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động tích cực: Tạo cơ hội cho Campuchia có khả năng theo kịp các nước trong khu vực; tạo điều kiện tăng nhanh việc truyền bá và chuyển giao khoa học - công nghệ vào Campuchia; tạo ra khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn lực rất cần thiết, quan trọng cho Campuchia; mở ra những địa bàn và cách thức hoạt động mới, những thị trường mới, những đối tác mới cho Campuchia. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa cũng tác động tiêu cực đến Campuchia như tạo ra những thách thức nghiêm trọng, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ Campuchia sẽ không còn quyền độc lập tuyệt đối trong vấn đề hoạch định chính sách kinh tế, vì Campuchia quá phụ thuộc vào ngoại thương và đầu tư nước ngoài; Vấn đề an ninh kinh tế, nhất là trên lĩnh vực tài chính của Campuchia không được đảm bảo trước xu thế toàn cầu hóa...
2.1.1.3. Xu hướng dân chủ hóa
Bước sang thập niên đầu của thế kỷ XXI, xu hướng dân chủ diễn ra mạnh mẽ. Xu hướng dân chủ hóa diễn ra mạnh mẽ trên thế giới cũng đặt ra cho Campuchia những vấn đề cần giải quyết. Về tác động tích cực: Xu hướng dân chủ hóa trên thế giới có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến việc xây dựng chính quyền, ban hành các chính sách phát triển kinh tế - xã hội; Dân chủ hóa đã trở thành một quá trình không thể trì hoãn, bởi nếu một nhà nước không tự dân chủ hóa thì nhà nước đó sẽ trở thành một bộ phận biệt lập trong mọi tiến trình quốc tế và không còn cơ hội tồn tại. Về tác động tiêu cực: sự tồn tại của chính trường đa đảng đối lập đòi hỏi đảng cầm quyền cần tạo được niềm tin đối với nhân dân thông qua dân chủ hóa thể chế và bằng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, đem lại lợi ích trước hết cho nhân dân nước này. Vì vậy, Đảng cầm quyền Campuchia nếu không giải quyết hài hòa những vấn đề trên thì sự tác động từ những nguy cơ bất ổn về chính trị sẽ tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.1.4. Sự phát triển mạnh mẽ của thông tin truyền thông, mạng xã hội
Thập niên cuối cùng của thế kỷ XX và đầu của thế kỷ XXI, thế giới được chứng kiến những thành tựu vượt bậc của khoa học công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin và mạng xã hội tác động tích cực góp phần mạnh mẽ trong việc tăng cường sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công; tham gia phản biện xã hội và giám sát việc thực thi chính sách, theo dõi quá trình dân chủ hóa chính trị của Chính phủ và các Đảng phái để xác định niềm tin.... Bên cạnh đó, nó cũng tác động tiêu cực đối với Campuchia, vốn là quốc gia nghèo, trình độ dân trí khá thấp cùng với nền tảng hạ tầng lạc hậu thì sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng xã hội trên thế giới đặt ra cho Chính phủ nhiều thách thức. Chính phủ Campuchia đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khai thác hữu ích của công nghệ thông tin vừa phải xây dựng hành lang pháp lý để kiểm soát tối đa mặt trái của vấn đề này. Đồng thời, trong thể chế chính trị dân chủ đa đảng, công nghệ thông tin và mạng xã hội cũng có thể góp phần thúc đẩy các hoạt động biểu tình, phản đối hoặc ủng hộ chính trị...
2.1.2. Bối cảnh khu vực Đông Nam Á
2.1.2.1. Sự phát triển của tổ chức ASEAN
Tiến trình hội nhập của ASEAN cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI và sự hội nhập của Campuchia vào ASEAN có tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội Campuchia trong giai đoạn 1993 - 2013.
Về thuận lợi, tham gia vào một ASEAN có sự liên kết chặt chẽ, đoàn kết, thống nhất, vai trò và vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao là hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài, tác động tích cực đến công cuộc xây dựng và phát triển của Campuchia. Về kinh tế - xã hội, Campuchia có thể đẩy mạnh các hoạt động thương mại, thu hút đầu tư dựa trên lợi thế không gian của một thị trường thống nhất, mở và nâng cao tính cạnh tranh; có cơ hội tiếp cận thị trường trong và ngoài khu vực, qua đó mở rộng thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào; mở rộng cơ hội đầu tư sang các nước nội khối và kinh doanh từ bên ngoài; tiếp cận các nguồn hỗ trợ về khoa học - công nghệ; đẩy mạnh các ngành sản xuất lợi thế như dệt may, giày dép, du lịch
Về khó khăn, thách thức: Quan hệ Campuchia - ASEAN vẫn còn những biểu hiện hạn chế về chất lượng, hiệu quả và chiều sâu, còn thiếu các nhân tố cho sự phát triển vững chắc, ổn định, lâu dài. Hợp tác Campuchia - ASEAN vẫn còn bị động đối phó với những vấn đề liên quan đến tranh chấp lãnh thổCampuchia đứng trước thách thức phải giải quyết hài hòa lợi ích chung trong ASEAN với lợi ích riêng của mình trong ván đề Biển Đông
2.1.2.2. Cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn ở Đông Nam Á
Mối quan hệ giữa Campuchia với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản... trong giai đoạn này có tác động tích cực đối với Campuchia: Phương châm đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa không chỉ tạo ra những sức mạnh mới cho sự vận động của nền kinh tế - xã hội Campuchia đang trong quá trình cải cách và phát triển mà còn tạo cho Campuchia có nhiều cơ hội trong việc thu hút nguồn đầu tư từ các nước, các tổ chức để phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, sự cạnh tranh giữa các nước lớn đối với Campuchia cũng có tác động tiêu cực: Sự can thiệp ngày càng sâu và tranh giành ảnh hưởng của Mỹ, Trung Quốc và một số nước lớn sẽ là thách thức mức độ độc lập của Campuchia về đường lối đối ngoại, chính trị và cả những chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Tình hình chính trị, kinh tế - xã hội Campuchia từ năm 1979 đến năm 1992
2.2.1. Tình hình chính trị
Sau khi lật đổ chế độ Campuchia Dân chủ (07/01/1979), nhân dân Campuchia bước vào thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng chính quyền nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội.
Từ năm 1979 đến năm 1992, Campuchia trải qua những biến đổi phức tạp về chính trị. Đất nước Campuchia chưa có những điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển. Sau Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết, thuận lợi cơ bản nhất mà nhân dân Campuchia có được để xây dựng, khôi phục và phát triển đất nước là Đảng nhân dân Campuchia ngày càng lớn mạnh, tạo được uy tín lớn đối với quốc dân, có khả năng đoàn kết, tập hợp lực lượng.
2.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Trước năm 1993, nền tảng kinh tế - xã hội của Vương quốc Campuchia hết sức nghèo nàn. Campuchia đứng trước những khó khăn như: nền kinh tế chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp; nguồn vốn tích lũy thiếu thốn cùng với sự suy giảm ngày càng trầm trọng của nguồn tài nguyên; tình trạng giao thông, cơ sở hạ tầng thấp kém gồng gánh sức ép của gia tăng dân số; Bên cạnh đó, Campuchia có mặt bằng trình độ dân trí thấp, thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao.
2.3. Tình hình chính trị và chính sách đối ngoại của Campuchia giai đoạn 1993 - 2013
2.3.1. Khái quát tình hình chính trị
Sau khi Hiệp định hòa bình Paris được ký kết, hầu hết các phe phái chính trị ở Campuchia cùng với cộng đồng quốc tế đã nỗ lực thực hiện Hiệp định. Hệ thống chính trị ở Campuchia cũng từng bước được bổ sung và hoàn thiện; Đây là những nền tảng vững chắc tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội Campuchia (1993 - 2013).
Trong giai đoạn 1993 - 2013, biến đổi tương quan lực lượng giữa các đảng lớn trên chính trường Campuchia đã diễn ra mạnh mẽ. Thực chất của sự biến đổi tương quan này là sự gia tăng hay suy giảm ảnh hưởng của các đảng lớn như CPP, FUNCINPEC, SRP, HRP và CNRP. Trong giai đoạn này, FUNCINPEC, vì nhiều lý do khác nhau, đã đánh mất hầu hết uy tín của mình, từ chỗ là đảng lớn nhất trở thành một đảng nhỏ gần như không còn ảnh hưởng ở Campuchia. Ngược lại, các đảng đối lập, mặc dù được thành lập sau nhưng đã không ngừng gia tăng ảnh hưởng và trở thành đảng lớn thứ hai ở Campuchia. Cũng trong giai đoạn này, CPP không ngừng củng cố, gia tăng ảnh hưởng và trở thành đảng lớn nhất ở Campuchia. Có thể nói, uy tín, ảnh hưởng của các đảng được thể hiện rõ ràng nhất thông qua kết quả các cuộc bầu cử Quốc hội ở Campuchia.
2.3.2. Chính sách đối ngoại
Theo quy định của Hiến pháp, Campuchia thực hiện chính sách đối ngoại trung lập, không liên kết vĩnh viễn, không xâm lược hoặc can thiệp vào nội bộ của nước khác. Campuchia chú trọng quan hệ với các nước lớn, các nước tài trợ, các nước láng giềng; tăng cường quan hệ mọi mặt, nhất là kinh tế - thương mại với Trung Quốc; tiếp tục tranh thủ Mỹ; thoả thuận giải quyết các vấn đề biên giới với các nước láng giềng. Trong giai đoạn 1993 - 2013, Campuchia đã thành công trong việc gia nhập ASEAN, WTO; tạo được mối quan hệ tốt đẹp với các cường quốc (Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ...), và các nước láng giềng (Thái Lan, Việt Nam...).
Chương 3
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2013
3.1. Giai đoạn tái thiết và cơ cấu lại nền kinh tế (1993 - 2003)
3.1.1. Các chính sách, kế hoạch chủ yếu
Sau khi cuộc tổng tuyển cử năm 1993 thành công, Hiến pháp mới được thông qua cùng với sự ra đời của Chính phủ mới Hoàng gia Campuchia (RGC). Chính phủ đã ban hành các chính sách nhằm khôi phục, tái thiết và cơ cấu lại nền kinh tế.
- Chương trình Quốc gia Phục hồi và Phát triển Campuchia (NPRD) (năm 1994) là một chương trình phát triển quốc gia toàn diện. NPRD có 2 kế hoạch là Kế hoạch Thực hiện Chương trình Quốc gia Phục hồi và Phát triển Campuchia (INPRD) trong vòng 18 - 24 tháng đầu (ban hành tháng 2/1995) và một kế hoạch trung hạn kéo dài 3 năm sau đó.
- Dưới sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), RGC đã ban hành Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội (SEDP) 5 năm đầu tiên (1996 - 2000) với việc xác định rõ về thể chế kinh tế là thực hiện nền kinh tế thị trường.
- Các chính sách và chương trình phát triển của Chính phủ nhiệm kỳ II (1998 - 2003) và Chiến lược giảm nghèo với những biện pháp cải cách thể chế theo hướng kinh tế thị trường, tạo cơ chế cho việc thu hút đầu tư và phát triển kinh tế tư nhân
- Cùng với Chiến lược giảm nghèo, Campuchia ban hành Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội 5 năm tiếp theo (2001 – 2005) (SEDP II) với 3 thành tố chủ yếu: tăng trưởng kinh tế bền vững với tỷ lệ đạt trung bình 6 - 7%; phân phối công bằng những thành quả của tăng trưởng giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn; quản lý và sử dụng bền vững môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
3.1.2. Sự phát triển kinh tế Campuchia trong những năm 1993 - 2003
3.1.2.1. Cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Trong những năm 1993 - 2003 đánh dấu sự thành công trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Campuchia khi tỷ trọng của ngành nông nghiệp suy giảm cùng với sự gia tăng tương ứng của tỷ trọng ngành công nghiệp; tỷ trọng của ngành dịch vụ có chiều hướng tăng vào thời điểm cuối.
Về tăng trưởng kinh tế: Tỉ lệ tăng trưởng GDP của Campuchia trong thời kỳ 1993 - 2003 đạt mức khá cao, trung bình 5,5%; Giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng từ mức 2.480 triệu USD năm 1993 lên 4.663 triệu USD năm 2003. Tuy nhiên, mức tăng trưởng kinh tế Campuchia giai đoạn này diễn ra không đều, thiếu ổn định.
3.1.2.2. Phát triển công nghiệp
Trong những năm 1993 - 2003, công nghiệp của Campuchia là ngành đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhất cùng với đà hồi phục và tăng trưởng của nền kinh tế. Tính chung cho cả thời kỳ, công nghiệp có mức tăng trưởng trung bình 17,7% mỗi năm với mức giá trị gia tăng của ngành công nghiệp đã tăng từ mức 861,6 triệu USD năm 1993 lên mức 4.096,1 triệu USD năm 2003, tức là tăng lên gần 4,8 lần trong vòng 11 năm.
3.1.2.3. Phát triển nông nghiệp
Trong những năm 1993 - 2003, tăng trưởng của khu vực nông nghiệp đạt mức trung bình 3,6%. Tuy nhiên sự tăng trưởng của nông nghiệp thiếu ổn định (9,9% năm 1994 nhưng lại giảm còn mức từ 1,2% đến 5,1% giai đoạn 1995 - 1997, thậm chí suy giảm tăng trưởng trong 2 năm 2000 và 2003 với các tỉ lệ tương ứng là -1,2 và -3,5%)
3.1.2.4. Phát triển của ngành dịch vụ
Tăng trưởng của ngành dịch vụ khá cao, nhưng thiếu ổn định trong những năm 1993 - 2003: 1993 (7,2%); 1994 (0,6%); 1995 ( 8,3%); 1996 (9,2%); 1997 (2,6%), 1998 (5,0%); 1999 (14,6%); 2000 (8,9%); 2001 (8,7%); 2002 (10,0%) và 2003 (10,4%).
Trong giai đoạn này, du lịch là ngành phát triển nhanh chóng ở Campuchia kể (từ năm 1995). Trong giai đoạn 1995 - 2003, số lượng khách du lịch đến Campuchia tăng từ 219.680 lên 786.524, tức là tăng hơn 3,5 lần trong 8 năm.
3.1.2.5. Phát triển ngoại thương, đầu tư và hợp tác kinh tế
Trong giai đoạn này, hoạt động ngoại thương, đầu tư và hợp tác kinh tế với nước ngoài của Campuchia chủ yếu diễn ra chủ yếu bằng hình thức song phương với các đối tác láng giềng hoặc những nước vốn có quan hệ hợp tác truyền thống. Sau khi Bộ Luật đầu tư đã chính thức được ban hành(8/1994), hoạt động đầu tư phát triển mạnh (năm 1994, Campuchia mới chỉ có 26 dự án với số vốn khoảng 498 triệu USD thì đến năm 2003, tổng số dự án đầu tư trực tiếp (FDI) vào Campuchia đạt 894 với tổng vốn đạt 6.012 triệu USD). ề hợp tác kinh tế, Campuchia đã đạt được một số thành tựu trong quan hệ hợp tác kinh tế với các nước láng giềng, đồng thời bước đầu mở rộng các mối quan hệ hợp tác với các nước lớn và các tổ chức kinh tế.
3.2. Giai đoạn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải cách và mở rộng hợp tác để phát triển (2004 - 2013)
3.2.1. Các chiến lược và chính sách phát triển
Trong giai đoạn 2004 - 2013, Campuchia tiếp tục thực hiện các chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế đã ban hành trước đó, đồng thời ban hành 2 chiến lược phát triển tứ giác.
- Chiến lược phát triển tứ giác giai đoạn I (2004 - 2008) được ban hành vào tháng 7/2004 cho tăng trưởng, việc làm, công bằng và hiệu quả. “Chiến lược phát triển tứ giác” của Chính phủ Campuchia đảm bảo tính liên tục trong các chiến lược và chính sách phát triển từ chiến lược tam giác trong nhiệm kỳ II đến việc kế tục các chiến lược và chính sách phát triển như SEDP II, chiến lược giảm nghèo nhằm thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. Đồng thời, các nhân tố chủ yếu của chiến lược cũng tạo ra nền tảng của chính sách kinh tế của Chính phủ liên minh trong nhiệm kỳ mới.
- Chiến lược phát triển tứ giác giai đoạn II (2009 - 2013) được ban hành sau cuộc tổng tuyển cử ngày 26/9/2008 dựa trên các nền tảng cơ bản là: Đảm bảo duy trì nền hòa bình, ổn định chính trị, an ninh, trật tự xã hội thông qua các biện pháp đặc biệt nhằm mục đích thúc đẩy các nguyên tắc của luật pháp, tôn trọng quyền con người, nền dân chủ tự do, đa đảng; Đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, lâu dài ở mức 7% mỗi năm dựa trên nền tảng kinh tế mang tính cạnh tranh và cơ sở rộng lớn; Đảm bảo phân phối công bằng các cơ hội và thành quả của tăng trưởng kinh tế; Đảm bảo môi trường bền vững thông qua quản lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên
3.2.2. Sự phát triển kinh tế Campuchia trong những năm 2004 - 2013
3.2.2.1. Cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng
Về cơ cấu kinh tế, Cơ cấu kinh tế của Campuchia trong những năm 2004 - 2013 không có sự thay đổi lớn so với giai đoạn trước đó. Đối với ngành dịch vụ, tỷ trọng trong nền kinh tế chiếm khoảng trên 40%; ngành công nghiệp dao động trong khoảng 23,1% đến 27,6%; ngành Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 31,7% đến 35,7%.
Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong những năm 2004 - 2013, Campuchia đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao (trừ năm 2009 là năm bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế thế giới) với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7 - 8% mỗi năm cho cả thời kỳ. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP ở Campuchia diễn ra khá thất thường, không ổn định.
3.2.2.2. Phát triển công nghiệp
Trong những năm 2004 - 2013, Campuchia đã bắt đầu chú trọng điều chỉnh cơ cấu vùng lãnh thổ thông qua việc phát triển các Khu Kinh tế Đặc biệt (SEZ) kể từ tháng 12 - 2005. Với các chiến lược của Chính phủ, công nghiệp Campuchia đã có nhiều chuyển biến tích cực. Trong đó, nhóm ngành may mặc (bao gồm cả giày dép) và nhóm ngành xây dựng là 2 lĩnh vực chiếm tỉ trọng cao nhất trong công nghiệp với tỷ trọng là 70% và 20% (2011).
3.2.2.3. Phát triển nông nghiệp
Trong những năm 2004 - 2013, mặc dù chưa ổn định nhưng trồng trọt là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong nông nghiệp; Tốc độ tăng trưởng của thủy sản cũng khá thất thường trong giai đoạn 2004 - 2013: sau khi giảm 1,7% năm 2004, mức tăng trưởng đã đạt 5,6% năm 2005 nhưng chỉ đạt 0,8% năm 2007; trong giai đoạn 2008 - 2013, mức tăng trưởng bình quân đạt khoảng 5%, với năm cao nhất là 2012 đạt 6,7% và năm thấp nhất là 2010, đạt 2,4%; Trong lĩnh vực chăn nuôi, tình trạng cũng tương tự như thủy sản với mức tăng trưởng không đều: giai đoạn 2004 - 2009, chăn nuôi gia súc, gia cầm có mức tăng trưởng bình quân 5,1% với năm cao nhất 2006 là 8,2% và năm thấp nhất là 2007 với 3,7% trong khi giai đoạn 2010 - 2013 thì mức tăng trưởng chỉ đạt 0,8%.
3.2.2.4. Phát triển du lịch, dịch vụ
Trong những năm 2004 - 2013, Campuchia cũng chú trọng phát triển ngành dịch vụ, bao gồm thương mại, giao thông, thông tin, khách sạn, nhà hàng, du lịch, tài chính. Trong các lĩnh vực chủ yếu trên, du lịch được xem là một trong 4 trụ cột trong phát triển kinh tế của Campuchia.
Tính chung trong thời kỳ 2004 - 2013, ngành du lịch của Campuchia đã có mức tăng trưởng nhanh và nâng cao mức đóng góp của du lịch cho tăng trưởng kinh tế GDP. Số lượng khách du lịch tới Campuchia (2004 - 2013) tăng trung bình 20% mỗi năm.
3.2.2.5. Phát triển lĩnh vực tài chính
Khu vực tài chính cũng được xem là ngành có mức tăng trưởng nhanh trong những năm 2004 - 2013, nhất là sự phát triển của hệ thống các ngân hàng thương mại. Năm 2006, Campuchia chỉ có 20 ngân hàng (gồm ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài) thì năm 2013, con số này đã tăng lên 44.
3.2.2.6. Phát triển ngoại thương, đầu tư và hợp tác kinh tế
Về ngoại thương, Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2004, Campuchia đã thực sự tái hội nhập vào kinh tế khu vực và toàn cầu. Đến năm 2013, chỉ trong vòng 10 năm, tổng giá trị ngoại thương của Campuchia tăng lên nhanh từ mức 3.111 triệu năm 2004 lên 14.896 triệu USD năm 2013, tức là kim ngạch ngoại thương đã tăng gần 5 lần.
Về đầu tư, Trong giai đoạn đầu 2004 - 2006, FDI chỉ đạt mức thấp do những bất ổn chính trị sau cuộc tổng tuyển cử 2003 (từ mức 131 triệu USD năm 2004 lên 483 triệu USD năm 2006). Trong giai đoạn 2007 - 2011, FDI thường đạt mức trung bình 800 - 900 triệu USD, trừ năm 2009 là năm bị tác động của khủng hoảng, chỉ đạt 539 triệu USD. Trong 2 năm 2012 - 2013, tổng FDI vào Campuchia đạt mức cao nhất của thời kỳ khi vốn FDI lần lượt là 1.557 triệu USD và 1275 triệu USD.
Chương 4
SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI CỦA VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA
TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2013
4.1. Chính sách và kế hoạch phát triển xã hội của Chính phủ
Trong giai đoạn 1993 - 2013, Chính phủ Campuchia cũng đã ban hành các chính sách nhằm khôi phục và phát triển các lĩnh vực xã hội được thể hiện trong Chương trình Quốc gia Phục hồi và Phát triển Campuchia (NPRD), sau đó là Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội (SEDP) từ 1996 - 2000 và 2 chiến lược phát triển tứ giác.
Ngoài những mục tiêu kinh tế, Chính phủ Campuchia xác định mục tiêu của INPRD trên lĩnh vực phát triển xã hội là Cải thiện giáo dục và y tế để phát triển nguồn nhân lực và cải thiện mức sống của người dân; Phục hồi và phát triển cơ sở hạ tầng vật chất và các phương tiện công; Ưu tiên phát triển nông thôn, quản lý môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên theo cách bền vững.
Song song với việc triển khai các mục tiêu phát triển giáo dục được đề ra trong EFA, Chính phủ Campuchia đã ban hành các Kế hoạch chiến lược phát triển giáo dục (ESP) cho các giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2009, 2010 - 2013. Các chiến lược này tập trung vào ba vấn đề cơ bản là: Tiếp cận bình đẳng các dịch vụ giáo dục; Chất lượng và hiệu quả giáo dục và Xây dựng năng lực theo các cấp độ.
Về nâng cấp dịch vụ y tế: tăng nguồn lực công, huy động khu vực tư nhân đầu tư cho khu vực y tế, ưu tiên xây dựng các bệnh viện, trung tâm y tế; thực hiện ngăn ngừa, kiểm soát dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, người nghèo; cải thiện dịch vụ y tế chất lượng cao. Về thực hiện chính sách về giới: thực hiện chính sách bình đẳng giới, ưu tiên nâng cao vai trò và địa vị xã hội cho phụ nữ Campuchia, xây dựng năng lực cho phụ nữ ở các khu vực. Về thực hiện chính sách dân số phù hợp với bối cảnh, văn hóa xã hội Campuchia với các ưu tiên: hỗ trợ các gia đình, cặp vợ chống quyết định số trẻ khi sinh, khoảng cách sinh, đảm bảo tiếp cận với thông tin, giáo dục, phân phối dịch vụ; giảm tỷ lệ sinh tự nhiên, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, thúc đẩy bình đẳng và công bằng về giới; giảm tác động bất lợi về áp lực dân số đối với môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên; ngăn ngừa dịch bệnh HIV/AIDS.
4.2. Sự phát triển một số lĩnh vực xã hội ở Campuchia từ năm 1993 đến năm 2013
4.2.1. Phát triển giáo dục
Trong hai mươi năm từ năm 1993 đến năm 2013, giáo dục Campuchia có nhiều chuyển biến tích cực về các tiêu chí: quy mô trường lớp, số lượng học sinh, số lượng giáo viên ở cả ba cấp học (tiểu học, THCS và THPT). Do đó, tỉ lệ học sinh bỏ học, lưu ban ngày càng giảm, công tác xóa mù chữ đạt được nhiều kết quả (tỉ lệ dân số biết chữ tăng, đặc biệt từ năm 2004 đến năm 2013 với 69,4% lên 80,7%, số người chưa biết chữ giảm từ 30,6% (2004) xuống còn 19,3% (2013))
Bên cạnh phát triển giáo dục phổ thông, giáo dục đại học Campuchia cũng có những bước tiến đáng kể. Nếu như vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Campuchia chỉ có một số cơ sở GDĐH được khôi phục như Đại học Hoàng gia Campuchia (nay là Đại học Hoàng gia Phnom Penh), Học viện Kỹ thuật hữu nghị Campuchia - Soviet, Đại học Kinh tế, Luật Hoàng gia thì đến năm 2013, Campuchia đã có tổng cộng 105 cơ sở GDĐH, trong đó có 39 trường công lập và 66 trường tư thục.
4.2.2. Phát triển y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Trong giai đoạn 1993 - 2013, hệ thống cơ sở khám chữa bệnh ở Campuchia đã phát triển toàn diện từ tuyến Trung ương đến địa phương với sự ra đời, hoạt động của các bệnh viện Trung ương, tỉnh, huyện và trạm y tế xã.
Năm 2013, Campuchia có 09 Bệnh viện Trung ương, 81 Bệnh viện cấp huyện, 1.088 Trung tâm y tế, 81 Trạm y tế, trong đó có 94 Bệnh viện nội trú với 10.689 giường bệnh. Tính chung đến năm 2013, tổng số cán bộ y tế trên toàn quốc là 20.668 người, trong đó có 2.021 bác sĩ; Năm 2013, trên toàn quốc có 1.795 nhà thuốc, 09 cơ sở sản xuất thuốc chữa bệnh, 277 cơ sở xuất nhập khẩu trang thiết bị y tế và thuốc men. Nhờ có sự phát triển của hệ thống y tế nên việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng được cải thiện, đặc biệt trên một số lĩnh vực cơ bản như: giảm tỉ lệ trẻ em tử vong; vấn đề tiêm chủng được triển khai hiệu quả; vấn đề chăm sóc sức khỏe bà mẹ được cải thiện; phòng chống HIV/AIDS và các bệnh dịch khác được kiểm soát.
4.2.3. Xóa đói giảm nghèo
Theo giới hạn chuẩn nghèo được xác định, năm 1993, tỉ lệ nghèo ở Campuchia là 39%. Chính phủ Campuchia đã đặt ra mục tiêu giảm tỉ lệ này xuống còn 19,5% vào năm 2015. Với sự nỗ lực của Chính phủ và nhân dân Campuchia, trong hai mươi năm qua, tỉ lệ nghèo đói ở Campuchia đã giảm nhanh chóng. Năm 2008, tỉ lệ nghèo ở Campuchia là 29,9%, đến năm 2010, tỉ lệ này giảm xuống còn 21,1% và chỉ còn 18,9% vào năm 2012. Tính đến hết năm 2013, tỷ lệ nghèo ở Campuchia là 16%.
4.2.4. An sinh và phúc lợi xã hội
Trong giai đoạn 1993 - 2013, Chính phủ Campuchia đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao an sinh và phúc lợi xã hội cho người dân, đặc biệt chú trọng vào các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội như: người già, phụ nữ, trẻ em và người khuyết tật.
4.2.5. Công trình hạ tầng xã hội và phát triển dịch vụ công
Trong giai đoạn 1993 - 2013, với sự nỗ lực của Campuchia cùng với sự hỗ trợ, tài trợ của cộng đồng quốc tế, kết cấu hạ tầng xã hội, đặc biệt là hệ thống giao thông, đường dây tải điệnở Campuchia đã có sự phát triển đáng kể, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Tính đến năm 2013, hệ thống đường bộ của Campuchia có tổng chiều dài khoảng 52.600 km, trong đó đường quốc lộ loại 1 là 2.258 km, quốc lộ loại 2 là 3.342 km, tỉnh lộ là 6.607 km và 40.379 km đường giao thông nông thôn.
Giao thông đường thủy và đường không cũng đã được nâng cấp, cải tạo. Các cảng sông (chủ yếu dọc theo sông Mekong và sông Tonle Sap), đặc biệt là cảng biển được nâng cấp để đáp ứng nhu cầu vận tải của đất nước. Tính đến năm 2012, có 19 hãng hàng không quốc tế có chuyến bay đến và đi Campuchia, con số này của năm 2016 là 37 hãng.
Trong giai đoạn 2003 - 2013, Campuchia đã xây dựng được 5 nhà máy phát điện (01 nhà máy nhiệt điện và 04 nhà máy thủy điện) với tổng công suất khoảng 444MG. Năm 2013, tổng công suất của các nhà máy điện ở Campuchia đạt khoảng 794MW, cung cấp cho nước này 1.769 triệu KWh, chiếm 43,67% tổng lượng điện tiêu thụ trong nước.
Tính đến năm 2011, Campuchia có tổng số 22.380 km cáp quang. Số lượng thuê bao điện thoại tăng từ 3.835.251 thuê bao lên 16.238.210 thuê bao vào năm 2011, tăng hơn 4 lần, đưa tỷ lệ thuê bao điện thoại/người dân lên 113,55%; Campuchia có 1.689.389 thuê bao Internet chiếm tỷ lệ 11,81% tổng dân số, trong đó 73% thuê bao Internet là người sử dụng điện thoại di độn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_qua_trinh_phat_trien_kinh_te_xa_hoi_cua_vuon.doc