Tóm tắt Luận án Quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1995 qua trường hợp Soka Gakkai

Cơ sở thực tiễn

2.2.1.Truyền thống “Tế chính nhất trí” – tôn giáo gắn

với chính trị

Tư tưởng này ăn sâu vào tiềm thức người Nhật trở

thành căn nguyên dẫn tới sự “tìm về cội nguồn truyền thống

tế chính nhất trí” sau khi chiếm đóng kết thúc đó là phong

trào tham gia chính trị của tôn giáo

2.2.2. Những chính sách trong thời kỳ Nhật Bản bị

chiếm đóng

Các chính sách cải cách xã hội Nhật Bản do Bộ tổng tư

lệnh quân đồng minh (GHQ) thực hiện bao gồm cả cải cách

chính sách tôn giáo, luật pháp về tôn giáo sau chiến tranh đã

tá động mạnh tới sự phát triển của giới tôn giáo và hoạt động

tham gia chính trị tại Nhật Bản.

2.2.3. Nhu cầu mới của tôn giáo trong xu thế vận

động phát triển xã hội

Quá trình thế tục hóa thể chế và hệ thống xã hội Nhật

Bản đã thúc đẩy tôn giáo mới thực hiện cuộc vận động xã

hội, tham gia hoạt động chính trị

pdf26 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 450 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1995 qua trường hợp Soka Gakkai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iới thứ hai. Sau chiến tranh, dưới cải cách chiếm đóng, lực lượng quân chiếm đóng đã thực hiện hàng loạt các chính sách cải cách nhằm thực hiện phân li tôn giáo với chính trị và tự do tôn giáo. Trong bối cảnh xã hội sau chiến tranh, các tôn giáo mới đã tìm mọi cách để có ảnh hưởng xã hội rộng rãi hơn thông qua con đường tham gia hoạt động chính trị, điển hình là quan hệ Soka Gakkai và đảng chính trị Komeito. Soka Gakkai đã trở thành một tôn giáo lớn nổi bật và đạt nhiều thành công trong lĩnh vực chính trị. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ nhà nước – giáo này ở Nhật Bản là một tham khảo cho Việt Nam trong kinh nghiệm ứng xử với tôn giáo 2 đặc biệt là tôn giáo mới. Nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, nghiên cứu sinh triển khai đề tài luận án tiến sĩ “Quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản từ sau kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai đến năm 1995 qua trường hợp Soka Gakkai”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản từ kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai đến năm 1995 qua nghiên cứu trường hợp Soka Gakkai, đánh giá tác động của mối quan hệ này đối với xã hội và chính sách tôn giáo. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận về quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản giai đoạn 1945- 1995. - Làm rõ mối quan hệ giữa Soka Gakkai với nhà nước Nhật Bản giai đoạn 1945-1995. - Nhận xét, đánh giá về mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội ở Nhật Bản qua nghiên cứu trường hợp Soka Gakkai. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1 Đối tượng Là mối quan hệ Nhà nước và Giáo hội ở Nhật Bản với điển hình là quan hệ Soka Gakkai với Nhà nước Nhật Bản giai đoạn 1945-1995. 3.2.Phạm vi nghiên cứu 3 Về thời gian, luận án tập trung vào giai đoạn từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai tới năm 1995. 4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau : + Phương pháp lịch sử + Phương pháp logic + Phương pháp so sánh + Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study) + Ngoài ra, tác giả có trao đổi ý kiến với các chuyên gia ở Nhật 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Về cơ sở lý luận và thực tiễn, làm rõ khái niệm và bối cảnh xã hội trong nước; phân tích ba giai đoạn phát triển của mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản qua trường hợp Soka Gakkai và đưa ra những nhận xét về vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án là một công trình tập trung nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Luận án cung cấp thêm tư liệu cho việc nghiên cứu về tôn giáo. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án sẽ bao gồm bốn chương với nội dung cụ thể như sau : 4 Chương 1 : Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội ở Nhật Bản từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai qua trường hợp Soka Gakkai Chương 3 : Quan hệ của giáo phái Soka Gakkai với Nhà nước Nhật Bản thông qua Komeito giai đoạn từ 1945 đến 1995 Chương 4 : Một số nhận xét đánh giá rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản từ sau kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai tới năm 1995 qua trường hợp Soka Gakkai 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quan hệ của Nhà nước và Giáo hội ở Nhật Bản Từ năm 1945, tác giả luận án xin nêu một số công trình điển hình viết về quan hệ nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản. Vào năm 1976, Kishimoto Hideo đã hoàn thiện tác phẩm “Tôn giáo và xã hội Nhật Bản sau chiến tranh” (戦後 の宗教と社会), nhà xuất bản Keiei. Tác phẩm đề cập đến vấn đề triển vọng phát triển của toàn giới tôn giáo sau chiến tranh và quá trình dung nhận tự do tôn giáo vào Nhật Bản. Những nội dung trên góp phần làm rõ hơn bức tranh tôn giáo của Nhật Bản. Cuốn sách thứ hai tiêu biểu mang tựa đề Chính giáo Phân li, Nhà nước và Giáo hội ở Nhật Bản và Mỹ của tác giả Yoshiya Abe, nhà xuất bản Simul. Công trình làm rõ nội dung của các chính sách tôn giáo do Lực lượng quân đồng minh chiếm đóng (GHQ) và vấn đề quan hệ giữa chính trị và tôn giáo ở Nhật Bản ngay sau chiến tranh, giúp tác giả luận án có thêm kiến thức bổ ích. Bên cạnh các tác phẩm chính viết về chủ đề trên còn có một số tác phẩm tiêu biểu khác như “Tôn giáo và Chính trị của Nhật Bản – Thể chế Thiên Hoàng và đền Yasukuni” (日 本の政治と宗教―天皇制とヤスクニ) (1981, báo Asahi xuất bản) của tác giả Hikari Eiden; “Chính sách chiếm đóng 6 Nhật Bản của Mỹ” (米国の日本占領政策) của tác giả Gohyaku Hatagashira, xuất bản năm 1985; cuốn “Phân li chính giáo – tính chính trị của tôn giáo ở Nhật Bản và Mỹ” (政教分離―日本とアメリカにみる宗教の政治性) của Abe Yoshiya, nhà xuất bản Simul. Nakano Tsuyoshi cũng ra mắt độc giả hai cuốn là “Nhật Bản – vấn đề chính trị và thể chế Thiên Hoàng” (日本―政治的諸問題・天皇制), “Tôn giáo và thế giới toàn cầu” (グローアルする世界と宗教) do Trường đại học Soka xuất bản năm 2011.v.v. Những tác phẩm này làm rõ nét hơn bối cảnh lịch sử nước Nhật ngay trước và sau khi chiến tranh kết thúc, làm rõ bức tranh của xã hội Nhật Bản cho tác giả luận án tham khảo. 7 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về Giáo phái Soka Gakkai và Komeito Trong khuôn khổ cho phép, luận án nêu một số tác phẩm nổi bật nhất như sau. Tác phẩm “Tôn giáo và chính trị ở Nhật Bản đương đại, thành viên trẻ của Soka Gakkai và Đảng Công Minh (religion and politics in contemporary Japan : Soka Gakkai Youth and Komeito)” của tác giả người Anh Anne Mette Fisker-Nielsen, tái xuất bản năm 2017. Anne đã giải đáp lý do Giáo phái Soka Gakkai chú ý tới chính trị là nguồn gốc từ tư tưởng của Kinh Hoa sen, khẳng định Komeito (Đảng Công Minh) là câu trả lời của Soka Gakkai cho tiếng gọi Nam mô diệu pháp nam hoa kinh của giáo tổ Nichiren. Trong cuốn “Soka Gakkai và Komeito nhất thể chính quyền: tại sao tham gia chính quyền ? (創価学会・公明党 政教 一体:政権参加を問う)”, tác giả Kosakura, nhà xuất bản Shinnippon (2004), “Tiếp điểm giữa tôn giáo và chính trị”(宗教と政治の接点 )của tác giả Tamaru Noriyoshi, Nhà xuất bản Seikainippon; “Tôn giáo và chính trị ở Nhật Bản – mục tiêu của Soka Gakkai và Komeito”(日本におけ る宗教と政治、創価学会・公明党の目指すもの)do Takase Hiroi chủ biên, Nhà xuất bản Zaikaitsushin; cuốn “Tôn giáo và chính trị của Nhật Bản sau chiến tranh” (戦後 日本の宗教と政治) của Nakano Tsuyoshi, nhà xuất bản Omeito, cuốn “Tôn giáo và chính trị - Các tổ chức ủng hộ Soka Gakkai có chỉ trích gì?” của Ogawa Kaoru, do nhà xuất 8 bản Pipuru phát hành năm 1996... Nhìn chung, các tác phẩm trên đều đề cập đến vấn đề liên quan đến nguyên tắc phân tách giữa tôn giáo và chính trị tại Nhật Bản, đối tượng nhắm vào là các nội dung xoay quanh giáo phái tôn giáo mới Soka Gakkai và đảng chính trị riêng của tổ chức là Komeito. 1.2. Những kết quả đã đạt đƣợc và vấn đề cần nghiên cứu 1.2.1 Những kết quả đã đạt được - Đã trình bày bức tranh quan hệ giữa tôn giáo và chính trị ở Nhật Bản. - Đã đề cập chi tiết về đặc điểm của giáo phái Soka Gakkai và thông tin về Komeito. 1.2.2. Những vấn đề cần tập trung nghiên cứu - Cơ sở lý luận và thực tiễn tạo cơ sở cho sự ra đời của trào lưu tôn giáo tham chính và tạo cơ hội cho Soka Gakkai và Komeito ra đời, phát triển. - Diễn trình hoạt động chính trị của Soka Gakkai thông qua Komeito qua các thời kỳ. - Những nhận xét, đánh giá về mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản, Soka Gakkai và quan hệ của giáo phái với nhà nước thông qua Komeito, những tác động tới xã hội và chính sách tôn giáo. 9 Chƣơng 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ GIÁO HỘI Ở NHẬT BẢN QUA TRƢỜNG HỢP SOKA GAKKAI 2.1. Cơ sở lý luận về quan hệ giữa Nhà nƣớc và Giáo hội 2.1.1. Khái niệm nhà nước Nhà nước mang những đặc trưng đó là quyền lực chính trị công; có bộ máy cưỡng chế, quản lý những công việc chung của xã hội; quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính; nhà nước có chủ quyền quốc gia; nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật và có quyền điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật; nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế. Nhà nước được tổ chức thành các cơ quan để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước, đó là hệ thống các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Trong một nhà nước, chính trị là sự tham gia vào công việc của nhà nước; quy định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung của hoạt động nhà nước. Chính trị bao hàm các vấn đề chế độ nhà nước, quản lý nhà nước, lãnh đạo giai cấp, vấn đề đấu tranh đảng phái. Nhà nước là trung tâm quyền lực của chính trị. 2.1.2. Khái niệm giáo hội Giáo hội là tổ chức tôn giáo, khái niệm này được quy định trong Điều 89, trong mục 1 của Điều 20 Hiến pháp và 10 theo Luật pháp nhân tôn giáo1 của Nhật Bản. Giáo hội là nơi thực hiện các hoạt động mang tính tôn giáo như tín ngưỡng, cúng báinhư một tôn giáo cụ thể. Điều kiện cần cho một giáo hội tồn tại đó là có giáo nghĩa, có hoạt động truyền giáo, tổ chức các sự kiện lễ nghi, tổ chức hoạt động đào tạo giáo hóa cho tín đồ, có cơ sở cúng bái, có cơ cấu tổ chức. Cụ thể, Điều 2 quy định như sau: “Tổ chức tôn giáo là đoàn thể có mục đích chính là truyền bá giáo nghĩa của tôn giáo, thực hiện các hoạt động lễ nghi và bồi dưỡng giáo hóa cho tín đồ. 2.1.3.Mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội Mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội đi theo dòng chảy riêng ở mỗi nước, kết quả hình thành rất nhiều hệ thống Nhà nước- giáo hội khác nhau. Các mô hình nhà nước và giáo hội phổ biến: Mô hình nhà nước thần quyền tuyệt đối; Các chế độ hợp tác; Mô hình thế tục kiểm soát; Các chế độ thỏa hiệp; Chế độ phân tách nhà nước và giáo hội gọi tắt là phân li chính – giáo.v.v. Song hành với mối quan hệ nhà nước – giáo hội, cấp độ tự do tôn giáo trong một xã hội cũng chạy song song với mối quan hệ này. 1 Luật Pháp nhân Tôn giáo (宗教法人法, Religious Corporations Law 1951.4.3), Luật pháp nhân tôn giáo ra đời vào thời điểm giai đoạn cuối của cải cách chiếm đóng. Luật này vừa tiếp tục bảo đảm cho nguyên tắc “tự do tôn giáo” và “phân li chính giáo” về mặt pháp luật, vừa bổ sung sửa đổi Lệnh pháp nhân tôn giáo. Luật hỗ trợ giới tôn giáo và Bộ Văn hóa giải quyết các vấn đề của đoàn thể tôn giáo như: phân phái, lợi dụng đăng ký tư cách pháp nhân của một số tôn giáo để thực hiện hành vi không trong sáng Luật cũng tôn trọng các kiến giải của đương cục quân chiếm đóng 11 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1.Truyền thống “Tế chính nhất trí” – tôn giáo gắn với chính trị Tư tưởng này ăn sâu vào tiềm thức người Nhật trở thành căn nguyên dẫn tới sự “tìm về cội nguồn truyền thống tế chính nhất trí” sau khi chiếm đóng kết thúc đó là phong trào tham gia chính trị của tôn giáo 2.2.2. Những chính sách trong thời kỳ Nhật Bản bị chiếm đóng Các chính sách cải cách xã hội Nhật Bản do Bộ tổng tư lệnh quân đồng minh (GHQ) thực hiện bao gồm cả cải cách chính sách tôn giáo, luật pháp về tôn giáo sau chiến tranh đã tá động mạnh tới sự phát triển của giới tôn giáo và hoạt động tham gia chính trị tại Nhật Bản. 2.2.3. Nhu cầu mới của tôn giáo trong xu thế vận động phát triển xã hội Quá trình thế tục hóa thể chế và hệ thống xã hội Nhật Bản đã thúc đẩy tôn giáo mới thực hiện cuộc vận động xã hội, tham gia hoạt động chính trị. Tiểu kết chƣơng 2 Có thể khẳng định rằng trước Chiến tranh Thế giới hai, Nhật Bản hoàn toàn đi theo mô hình “tế chính nhất trí”. Sau khi chiến tranh kết thúc, dưới chế độ ủy trị mô hình nhà nước thế tục thực thi nguyên tắc “phân tách giữa chính trị và tôn giáo” (chính giáo phân li). Trong bối cảnh xã hội sau chiến tranh đã tạo cơ hội cho các tôn giáo mới phát triển. Ba nhân tố 12 chính là Chƣơng 3 QUAN HỆ CỦA SOKA GAKKAI VỚI NHÀ NƢỚC NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐÊN 1995 Cùng với sự chuyển biến xã hội, Soka Gakkai tái hoạt động và dần phát triển mạnh. Tạo ra sản phẩm đảng chính trị riêng là Komeito. Chiến thuật tham chính của Soka Gakkai cũng linh hoạt theo sự vận động không ngừng của xã hội. Trong quá trình phát triển, tham gia chính trị của Soka Gakkai, có thể phân chia thành ba giai đoạn chính. 3.1. Giáo phái Soka Gakkai và đảng chính trị Komeito 3.1.1. Giáo phái Soka Gakkai Soka Gakkai (創価学会/ Sáng Giá Học Hội) - là một tôn giáo thành công trong mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị trong lịch sử văn hóa Nhật Bản. Giai đoạn tiền thân của Soka Gakkai Giai đoạn đầu tiên của Soka Gakkai gắn liền với cuộc đời và tư tưởng, đường lối lãnh đạo của người sáng lập là Makiguchi Tsunesaburo. Giai đoạn tái thiết ổn định và phát triển Giai đoạn tái thiết giáo phái Soka Gakkai gắn liền với thời gian dẫn dắt, tư tưởng, đường lối chiến lược lãnh đạo của vị chủ tịch thứ hai là Toda Josei. Toda đã đặt nền móng cho sự tái sinh, phát triển của Soka Gakkai. Giai đoạn tham chính và phát triển toàn cầu 13 Giai đoạn này gắn liền với cuộc đời và sự dẫn dắt lãnh đạo, chiến lược hoạt động của chủ tịch thứ ba của Soka Gakkai - Daisaku Ikeda. Bên cạnh việc phát triển mạng lưới rộng khắp cho Soka Gakkai, Ikeda đã mạnh mẽ thúc đẩy tổ chức kết hợp giữa chính trị và tôn giáo. 3.1.2. Đảng chính trị Komeito Komeito (公明党,đảng Công Minh) là một đảng chính trị lớn ở Nhật Bản được thành lập vào ngày 17 tháng 11 năm 1964, theo sáng kiến của chủ tịch Daisaku Ikeda của Soka Gakkay. Komeito hoạt động dựa trên triết lý Phật giáo của Soka Gakkai. Komeito được coi là đảng chính trị tôn giáo thành công nhất khi tham gia vào chính trị Nhật Bản. Hiện nay, Komeito đang có ảnh hưởng rất lớn trong nền chính trị Nhật Bản. Komeito trở thành đảng chính trị quyền lực thứ tư ở Nhật Bản. 3.2. Giai đoạn khởi đầu tham chính (1945- 1963) Giai đoạn đầu tính từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc đến trước năm 1964: thời kỳ giáo phái khôi phục sau chiến tranh, ổn định và tập trung vào công tác chuẩn bị cho các hoạt động bầu cử, huy động tín đồ của mình trở thành đội quân chi viện, ủng hộ các ứng viên tranh cử nghị sĩ. 3.3. Giai đoạn cao trào đảng chính trị - tôn giáo tới khi Komeito ly khai Soka Gakkai (1964-1972) Giai đoạn thứ hai tính từ sau năm 1964 tới năm 1972, ngay sau khi Soka Gakkai cải tổ “liên minh chính trị” thành đảng chính trị, lấy tên là Komeito (Đảng Công Minh). Ở thời 14 kỳ này, dưới sự chỉ huy của chủ tịch thứ ba là Ikeda, Soka Gakkai hoạt động chính trị mạnh mẽ nhất. Tổ chức liên tục cạnh tranh áp đảo, thậm chí dùng nhiều thủ đoạn mánh lới để đạt được mục đích chính trị, dẫn tới mức họ bị xã hội liên tiếp lên án “vi phạm nguyên tắc phân li chính giáo”. Giai đoạn tiếp theo tính từ khi Komeito tách ly với Soka Gakkai bởi vướng phải dư luận cho rằng Soka Gakkai – Komeito là thực thể “tế chính nhất trí”. Đây là giai đoạn Soka Gakkai và Komeito phân chia bộ máy hoạt động độc lập trên phương diện pháp lý nhưng vẫn hỗ trợ lẫn nhau. 3.4. Giai đoạn Komeito khẳng định vị thế cho tới khi tan rã (1972-1995) Đây là thời kỳ đảng chính trị Komeito có sự công tác với các đảng chính trị quyền lực tại Nhật Bản, đồng thời Komeito đã khẳng định và giành được vị trí cao trong giới chính trị Nhật Bản. Komeito từng xếp vị trí đảng đối lập đứng thứ 4 trong giới chính trị. Giai đoạn này kéo dài cho đến khi Komeito lâm vào suy thoái, biến mất tên khỏi giới chính trị năm 1995. Tiểu kết Chƣơng 3 Tóm lại, Soka Gakkai là một tôn giáo lớn, có tầm ảnh hưởng mạnh ở Nhật Bản. Soka Gakkai đã rất thành công trong việc tham gia chính trị ở Nhật Bản thông qua cách làm đó là xây dựng đảng chính trị riêng lấy tên Komeito. Quá trình Soka Gakkai tham gia vào nghị trường có thể đúc kết qua ba giai đoạn. Từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến 15 năm 1963: giáo phái tập trung vào công việc chuẩn bị cho các hoạt động bầu cử. Hoạt động chính trị thời kỳ này còn rời rạc, tự phát, chưa hệ thống. Những năm 1964 tới 1972, Soka Gakkai đã có một bước tiến dài. Thành tựu nổi bật là năm 1964, Soka Gakkai thành công trong việc thành lập đảng chính trị Komeito và đảng trở thành đảng chính trị - tôn giáo giữ quyền lực thứ ba tại Nhật Bản. Tuy nhiên, mối quan hệ này chùng xuống vì bị hàng loạt trích từ xã hội, năm 1972, Komeito đã tách li khỏi giáo phái mẹ. Cuối cùng, Mặc dù Soka Gakkai và Komeito đã hoạt động độc lập, song vẫn hỗ trợ cho nhau. Câu chuyện đảng tôn giáo – chính trị tạm khép lại. 16 Chƣơng 4 MỘT SỐ NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ GIÁO HỘI Ở NHẬT BẢN TỪ SAU KẾT THÚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI TỚI NĂM 1995 QUA TRƢỜNG HỢP SOKA GAKKAI 4.1.Một số nhận xét về quan hệ giữa nhà nƣớc và giáo hội ở Nhật Bản từ sau kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai tới năm 1995 qua trƣờng hợp Soka Gakkai 4.1.1. Phong trào tham chính thông qua hình thức bầu cử của các tôn giáo là hiện tượng đặc biệt tại Nhật Bản Mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, mặc dù được điều chỉnh bởi chính- giáo phân li song thực tế việc các tôn giáo quay trở lại, có mục tiêu tham chính, tham gia vào cơ quan nhà nước vẫn là một hiện tượng rất đáng chú ý, tiêu biểu là giáo phái Chân lí giáo Aum, Khoa học Hạnh phúc, và đạt nhiều thành công nhất là Soka Gakkai. Điều đặc biệt trong con đường tham chính của các tôn giáo, nhất là các tôn giáo mới như Soka Gakkai đều có điểm chung là thông qua hình thức bầu cử đại diện vào các vị trí trọng yếu trong bộ máy chính quyền các cấp. 17 4.1.2. Chính giáo phân li là nguyên tắc chủ đạo xuyên suốt quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản sau chiến tranh Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, thể chế nhà nước Chính giáo phân li giữ vai trò chủ đạo trong phương diện quản lý đời sống tôn giáo ở Nhật Bản. Chính giáo phân li, tách bạch tôn giáo với nhà nước được đưa vào Hiến pháp, Luật Pháp nhân Tôn giáo và áp dụng trong thực tế tại Nhật Bản. Xoay quanh vấn đề nguyên tắc chính giáo phân li, xã hội Nhật Bản thường xảy ra những vụ kiện giải quyết vấn đề vi phạm hay không vi phạm Hiến pháp ở nguyên tắc chính giáo phân li này. 4.2. Một số đánh giá rút ra từ nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nƣớc và giáo hội ở Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới thứ hai 4.2.1. Quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản được xác lập sau Chiến tranh Thế giới thứ hai là tiến bộ Thể chế quan hệ nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản xác lập sau chiến tranh rất tiến bộ. Thứ nhất, sự lựa chọn Chính giáo phân li làm chính sách chủ đạo thực hiện tách bạch quyền lực chính trị với quyền lực tôn giáo trong việc định hướng mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội. Song song với Chính giáo phân li, tự do tôn giáo là chính sách tương hỗ cho chính sách tôn giáo chủ đạo. Thứ hai, quy định về cấm nhà trường giáo dục tôn giáo và yêu cầu tôn giáo rút khỏi trường học công là cho thấy sự tiến bộ ở Nhật Bản. Thứ ba, 18 sự thay đổi, cải cách của hình thái của mối quan hệ giữa nhà nước với tôn giáo cho thấy sự tiến bộ ở Nhật Bản. Nếu như trước chiến tranh, mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo rất khăng khít thì sau chiến tranh, nhà nước và tôn giáo có sự tách bạch rõ ràng, áp dụng mô hình nhà nước thế tục theo mô hình của Mĩ. Thứ tư, tự do tôn giáo đúng nghĩa, bình đẳng giữa các tôn giáo với tôn giáo sau chiến tranh cũng cho thấy sự tiến bộ ở Nhật Bản. 4.2.2. Quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới thứ hai mang nhiều nét đặc thù Sự ảnh hưởng sâu xa của truyền thống “Tế chính nhất trí” Ở Nhật Bản, quan hệ mật thiết giữa chính trị với tôn giáo là đặc điểm có tính truyền thống với nguyên tắc “tế chính nhất trí”. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, sự can dự đến đời sống chính trị, cử đại diện tranh cử để tham gia vào cơ quan lập pháp, hành pháp như trường hợp Soka Gakkai cũng là một trong những biểu hiện trở lại của truyền thống "tế chính nhất trí”. Ngoài ra, hiện tượng các lãnh đạo cấp quốc gia hàng năm thăm viếng đền Yasukuni, các nghi lễ mang yếu tố tín ngưỡng là những ví dụ điển hình cho phong trào “hồi quy truyền thống tế chính nhất trí” này. Nhà nước có quá ít quyền lực với các giáo hội ở Nhật Bản theo Luật Pháp nhân tôn giáo trước khi được sửa đổi vào năm 1995 19 Trước khi Luật pháp nhân tôn giáo ra đời, ở Nhật Bản, nhà nước không can thiệp vào hoạt động tôn giáo. Qua thực tiễn ở Nhật Bản, mối quan hệ nhà nước và giáo hội cho thấy nguyên tắc chính giáo phân li và tự do tôn giáo phải được áp dụng cụ thể trong điều kiện phù hợp với từng nước. Bản chất nguyên tắc chính giáo phân li là sản phẩm của người Mĩ soạn thảo đưa vào Chỉ lệnh Nhân quyền và Sắc lệnh Thần đạo, sau này một lần nữa được chính thức pháp chế hóa trong chính sách luật pháp tôn giáo ở nguyên tắc Chính giáo phân li trong Hiến pháp và Luật Pháp nhân tôn giáo (1951). Nội dung ban đầu của nó trong hai Chỉ lệnh này rất lỏng lẻo, nhiều kẽ hở do đó, sau khi áp dụng trong thực tế, các hiện tượng như tôn giáo can dự vào chính trị. Từ những sự cố, vấn nạn xảy ra trong xã hội Nhật Bản sau chiến tranh, tiêu biểu là vấn đề tham chính của Soka Gakkai bị lên án, sự vụ Aum khủng bố người dân trên tầu điện ngầm ở Tokyo năm 1995, sự tranh luận giữa các đảng phái đã góp phần tạo nên sự thay đổi bứt phá trong chính sách tôn giáo. 4.3.Một số liên hệ với Việt Nam Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Việt Nam cũng vấp phải nhiều vấn đề. 20 Từ bài học kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, Việt Nam khi xây dựng chính sách về tôn giáo cần căn cứ vào thực tiễn bối cảnh đời sống tôn giáo, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam để xây dựng những chính sách phù hợp, bản địa hóa với khu vực nước nhàl cần tiếp tục có những nghiên cứu về các hiện tượng tôn giáo mới, bảo đảm bình đẳng giữa các tôn giáo, không đề cao ưu ái một tôn giáo chủ lưu nào, không hạ thấp một tôn giáo nào. Tiểu kết chƣơng 4 Như vậy, quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới thứ hai chịu sự chi phối chủ đạo bởi chính sách tiến bộ như chính giáo phân li, các vấn nạn trong xã hội đều xoay quanh câu chuyện vi phạm nguyên tắc này. Phong trào tham chính, việc can dự vào chính trị của tôn giáo mới như Soka Gakkai, Aum... nổi lên sau chiến tranh là một nét đặc thù riêng ở Nhật Bản. Đây là biểu hiện của sự trở lại của tế chính nhất trí (truyền thống vương quyền kết hợp thần quyền). Sự ra đời của Luật Pháp nhân tôn giáo đã chấm dứt tình trạng nhà nước không được can dự vào sâu hoạt động của tôn giáo trước đó. Đối với các vấn đề do tôn giáo gây ra, Nhà nước đã có thái độ nghiêm khắc hơn, siết chặt giám sát đối với tôn giáo hơn. Việt Nam vốn là quốc gia cũng có nhiều vấn đề xảy ra trong quan hệ giữa nhà nước và giáo hội, đặc biệt là vấn đề của tôn giáo mới. Bài học kinh nghiệm của Nhật Bản để lại 21 rằng việc lựa chọn và xây dựng chính sách tôn giáo phải nghiên cứu kỹ sao cho phù hợp bối cảnh đời sống của nước mình. Việc đảm bảo tự do tôn giáo, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các tôn giáo, hoàn thiện chính sách tôn giáo phát huy hiệu năng và xây dựng mô hình nhà nước thế tục, nhà nước pháp quyền về tôn giáo phù hợp thì xã hội mới ổn định. 22 KẾT LUẬN Có thể nói bối cảnh xã hội Nhật Bản sau chiến tranh đã tạo nên một bức tranh về quan hệ giữa tôn giáo - chính trị điển hình ở Nhật Bản đó là trào lưu tham gia chính trị của tôn giáo, hay nói cách khác là sự can dự của giới tôn giáo vào chính trị ở Nhật Bản. Trong làn sóng tham chính, điển hình nhất, thành công nhất đó là Soka Gakkai. Khác với hướng đi của các tôn giáo khác, Soka Gakkai một mình chọn hướng đi rất riêng, chọn chính trị nhập thế: tự thành lập một đảng chính trị của giáo hội và tiến hành tham gia vào cuộc đua chính trị ở Nhật Bản. Đó là Komeito- Đảng Công Minh, luôn đồng hành, phục vụ lợi ích cho Soka Gakkai. Trong sự vận động của quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản, quan hệ giữa Soka Gakkai và Komeito chính là đại diện tiêu biểu cho một hiện tượng phát triển khác biệt của Nhật Bản. Mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội ở Nhật Bản từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến năm 1995 qua trường hợp Soka Gakkai từ góc độ lịch sử đã được thể hiện rất rõ qua ba giai đoạn. Việc thiết lập mối quan hệ, liên minh bền chặt cũng như sự chia tách giữa Soka Gakkai và Komeito và những mục tiêu chung, riêng mà hai thực thể này theo đuổi. Để giải quyết được các vấn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_quan_he_giua_nha_nuoc_va_giao_hoi_o_nhat_ban.pdf
  • jpgkl_oanh1.jpg
  • jpgkl_oanh2.jpg
  • pdfQD_DuongThiKimOanh.pdf
  • docxTrichyeu_DuongThiKimOanh.docx
  • pdfTT Eng DuongThiKimOanh.pdf
Tài liệu liên quan