Nội dung, phương thức, nguyên tắc quản lý nhà nước
đối với các hoạt động tôn giáo
QLNN quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, gồm:
Một là, xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, quy định tổ chức bộ máy QLNN về tín ngưỡng, tôn
giáo.
Ba là, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo.
Bốn là, phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo.
Năm là, nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo;
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác
tín ngưỡng, tôn giáo.
Sáu là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Bảy là, quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Theo nhóm lĩnh vực quản lý liên quan đến tín ngưỡng,
tôn giáo, có 11 nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo, gồm:
Một là, quản lý việc đăng ký hoạt động của tổ chức tôn
giáo và công nhận tổ chức tôn giáo; chia tách, sáp nhập, hợp nhất
các tổ chức tôn giáo trực thuộc; việc đăng ký người vào tu và hoạt
động của dòng tu, tu viện, hội đoàn tôn giáo.10
Hai là, quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm,
bầu cử, suy cử; cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển trong tôn
giáo; quản lý về đình chỉ hoạt động tôn giáo.
Ba là, quản lý về đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo.
Bốn là, quản lý việc đăng ký hoạt động tôn giáo
(thường xuyên, đột xuất, ngoài cơ sở tôn giáo).
Năm là, quản lý việc kinh doanh, xuất, nhập khẩu kinh
sách tôn giáo và đồ dùng việc đạo; về hoạt động in ấn, xuất bản,
phát hành các ấn phẩm tôn giáo.
Sáu là, quản lý việc quyên góp; hoạt động từ thiện
nhân đạo của các tôn giáo.
Bảy là, quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng những người
chuyên hoạt động tôn giáo.
Tám là, QLNN đối với tài sản, đất đai, cơ sở thờ tự của
các tôn giáo
Chín là, quản lý chương trình hành đạo thường xuyên
và đột xuất
Mười là, quản lý các hoạt động quốc tế và đối ngoại tôn giáo
Mười một là, quản lý các hoạt động khác của tôn giáo,
bao gồm: 1) Quản lý chức sắc tôn giáo: Việc đào tạo chức sắc,
nhà tu hành tôn giáo trong các trường phải được Nhà nước
công nhận là bảo đảm sự phát triển bình thường của các tôn
giáo, bảo đảm tính kế thừa cho các thế hệ chức sắc, nhà tu hành.
Người đứng đầu các cơ sở đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động; 2)
Quản lý việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc,
nhà tu hành tôn giáo. Đối với nội dung này, việc phong chức,
phong phẩm, bổ nhiệm, bổ cử, suy cử phải đáp ứng một số điều
kiện nhất định và được thực hiện theo hiến chương, điều lệ của
tổ chức tôn giáo; trường hợp có yếu tố nước ngoài thì còn phải
có sự thỏa thuận với cơ quan QLNN về tôn giáo ở Trung ương;11
3) Quản lý việc xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn
giáo: Căn cứ theo Luật Khiếu nại, tố cáo và các chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước để giải quyết ngay từ cơ sở và đúng
thẩm quyền của từng cấp quản lý. Xử lý các điểm nóng liên quan
đến tôn giáo phải đảm bảo có lý, có tình và đúng pháp luật.
Ngoài ra, những việc đăng ký con dấu, làm con dấu,
thay đổi con dấu, tách, nhập tổ chức giáo hội cơ sở, thuyên
chuyển chức sắc, lập các hội đoàn đều phải tuân thủ theo qui
định của pháp luật hiện hành.
2.2.2. Phương thức quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Nhà nước quản lý hoạt động tôn giáo bằng các phương thức
sau: quản lý bằng pháp luật, quản lý bằng chính sách, quản lý bằng
thanh tra, kiểm tra.
2.2.3. Các nguyên tắc quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo
Các nguyên tắc QLNN đối với các hoạt động tôn giáo bao
gồm: bình đẳng; đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân; thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị văn hóa;
đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng và
lợi ích quốc gia, xã hội; những hoạt động tôn giáo vì lợi ích
chính đáng và hợp pháp của tín đồ phải được đảm bảo.
Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và của
Nhân dân được khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống
lại Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín
đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân,
làm phương hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc và hoạt
động mê tín dị đoan đều bị lên án và xử lý vi phạm theo luật định.
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 578 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giáo ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4. Quan điểm, phương hướng và giải pháp tăng
cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Hiện nay, nghiên cứu về QLNN đối với các hoạt động tôn
giáo đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập, nhưng mỗi công trình,
mỗi tác phẩm đề cập đến một khía cạnh khác nhau.
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
theo 3 nhóm (Nhóm các công trình nghiên cứu về lý luận QLNN đối
với hoạt động tôn giáo; Nhóm các công trình nghiên cứu về
thực trạng QLNN đối với hoạt động tôn giáo và Nhóm các
công trình nghiên cứu về giải pháp QLNN đối với hoạt động tôn giáo),
6
luận án chỉ ra những vấn đề đã được giải quyết và giá trị cần kế
thừa, bao gồm:
Thứ nhất, đa số các công trình nghiên cứu nhóm thứ nhất
đi sâu nghiên cứu về các vấn đề như: pháp luật về tôn giáo, vị
trí, vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, ảnh hưởng của
phật giáo đối với đời sống xã hội mà chưa đề cập tới nội
dung QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Do vậy, các giải pháp
và gợi ý chính sách của nhóm các công trình này cũng tập trung
vào việc nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động tôn giáo
trong thời gian tới.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu của nhóm thứ hai đã
phân tích, đánh giá việc thực hiện các chính sách đối với hoạt
động tôn giáo, thực tiễn hoạt động một số tôn giáo ở Việt Nam,
bối cảnh mới về tôn giáo quốc tế và khu vực tác động đến tôn
giáo Việt Nam, vấn đề quản lý xã hội về tôn giáo, hỏi đáp một
số đạo lạ ở Việt Nam Mặt khác, do thời điểm nghiên cứu
khác nhau, bối cảnh kinh tế - xã hội khác nhau và đặc biệt là
phương pháp và cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau nên việc
đánh giá, phân tích hoạt động QLNN đối với hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam cũng có những điểm khác biệt.
Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu về giải pháp
QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Nhóm các công trình này đi
sâu phân tích hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo, quan
điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo
hiện nay và một số bài viết có nội dung liên quan. Tuy nhiên,
các công trình này chưa nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu
quả QLNN đối với hoạt động tôn giáo đứng trên góc độ QLNN.
Từ đó, luận án xác định những khoảng trống cần hướng tới để
làm rõ và các hướng nghiên cứu tiếp theo mà Luận án thực hiện, gồm:
Một là, tiếp tục làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về
QLNN đối với hoạt động tôn giáo, phương thức quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo, nội dung QLNN về tôn giáo.
7
Quan trọng hơn Luận án tiếp tục nghiên cứu để hình thành
khung lý thuyết cơ bản về QLNN đối với các hoạt động tôn
giáo hiện nay.
Hai là, các công trình nghiên cứu được tổng thuật ở trên chưa
có nghiên cứu nào đánh giá một cách tổng quan thực trạng QLNN
đối với hoạt động tôn giáo. Luận án tiếp tục nghiên cứu thực trạng
QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên các lĩnh vực, đánh giá một
cách khách quan thực trạng quản lý công tác này.
Ba là, Luận án đề xuất các nhóm giải pháp tăng cường
QLNN đối với hoạt động tôn giáo.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
Chương 2 của luận án trình bày các nội dung: Khái niệm, đặc
điểm tôn giáo và QLNN đối với hoạt động tôn giáo; Nội dung, phương
thức, nguyên tắc QLNN đối với các hoạt động tôn giáo; Các nhân tố
ảnh hưởng đến QLNN đối với các hoạt động tôn giáo; Kinh nghiệm
QLNN đối với hoạt động tôn giáo của một số quốc gia trên thế giới và
giá trị tham khảo cho Việt Nam.
2.1. Khái niệm, đặc điểm tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo
Tôn giáo là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu
nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách
trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những
vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được
biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn
cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn
giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, giáo lý những hành vi
tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
QLNN đối với hoạt động tôn giáo là phương thức hoạt động
do cơ quan nhà nước, các tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền
8
tiến hành nhằm đảm bảo cho việc quản lý về tôn giáo được thực
hiện theo đúng chủ trương, chính sách, pháp luật, các quy định về
hoạt động tôn giáo phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước gắn với ổn định chính trị - xã hội và đời
sống của nhân dân.
Tôn giáo có các đặc điểm chung như sau: là sản phẩm của
sự phát triển xã hội ở một trình độ nhất định; là thế giới của tâm
linh, vô hình và mờ ảo nhưng mang tính chất vô thức, bản năng
gần như loại trừ cái lí tính, cái khoa học; là một lĩnh vực thể
hiện quyền lực của thần thánh muốn thoát khỏi quyền lực của
xã hội, nhưng trên thực tế tôn giáo luôn gắn với xã hội, trực
tiếp hay gián tiếp liên quan đến chính trị, xã hội; có tính nhân
đạo, muốn giải phóng tâm hồn con người khỏi sự ràng buộc của
trần thế; luôn muốn tồn tại vĩnh viễn, tự khẳng định mình như là
một thế giới của sự vĩnh hằng nhưng trên thực tế tôn giáo lại là
một hình thái ý thức xã hội; luôn muốn phát triển theo hướng trở
thành một quyền lực thế giới nên được lan toả, truyền bá khá
rộng rãi và cũng được quần chúng nhân dân ở nhiều nước trên
thế giới tin và đi theo một cách tự nguyện.
Tôn giáo Việt Nam có những đặc điểm như sau:
Một là, đại bộ phận tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam là nông
dân và xuất thân từ nông dân.
Hai là, có tôn giáo chỉ có chủ yếu trong một dân tộc thiểu
số, mà lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc ấy trong quá
khứ có vấn đề tế nhị, nhạy cảm về mặt quốc gia hoặc lãnh thổ.
Ba là, các tôn giáo ở Việt Nam có đội ngũ chức sắc đông
đảo về số lượng; được tuyển chọn công phu từ các cộng đồng
tôn giáo; được đào tạo quy mô, bài bản trong các cơ sở tôn giáo
trong và ngoài nước; có cuộc sống kinh tế đầy đủ và đời sống vật
chất sung túc, đủ sức đáp ứng nhu cầu tôn giáo của tín đồ.
Bốn là, các tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế
rộng rãi với tất cả các tôn giáo trên thế giới.
9
Năm là, tuyệt đại bộ phận đồng bào các tôn giáo có lòng
yêu nước, gắn bó với dân tộc.
Sáu là, tôn giáo luôn là lĩnh vực mà các thế lực thù địch
với Việt Nam tìm cách khai thác, lợi dụng để chống lại cách
mạng Việt Nam qua mọi thời kỳ phát triển của đất nước.
2.2. Nội dung, phương thức, nguyên tắc quản lý nhà nước
đối với các hoạt động tôn giáo
QLNN quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, gồm:
Một là, xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, quy định tổ chức bộ máy QLNN về tín ngưỡng, tôn
giáo.
Ba là, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo.
Bốn là, phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo.
Năm là, nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo;
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác
tín ngưỡng, tôn giáo.
Sáu là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Bảy là, quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Theo nhóm lĩnh vực quản lý liên quan đến tín ngưỡng,
tôn giáo, có 11 nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo, gồm:
Một là, quản lý việc đăng ký hoạt động của tổ chức tôn
giáo và công nhận tổ chức tôn giáo; chia tách, sáp nhập, hợp nhất
các tổ chức tôn giáo trực thuộc; việc đăng ký người vào tu và hoạt
động của dòng tu, tu viện, hội đoàn tôn giáo.
10
Hai là, quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm,
bầu cử, suy cử; cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển trong tôn
giáo; quản lý về đình chỉ hoạt động tôn giáo.
Ba là, quản lý về đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo.
Bốn là, quản lý việc đăng ký hoạt động tôn giáo
(thường xuyên, đột xuất, ngoài cơ sở tôn giáo).
Năm là, quản lý việc kinh doanh, xuất, nhập khẩu kinh
sách tôn giáo và đồ dùng việc đạo; về hoạt động in ấn, xuất bản,
phát hành các ấn phẩm tôn giáo.
Sáu là, quản lý việc quyên góp; hoạt động từ thiện
nhân đạo của các tôn giáo.
Bảy là, quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng những người
chuyên hoạt động tôn giáo.
Tám là, QLNN đối với tài sản, đất đai, cơ sở thờ tự của
các tôn giáo
Chín là, quản lý chương trình hành đạo thường xuyên
và đột xuất
Mười là, quản lý các hoạt động quốc tế và đối ngoại tôn giáo
Mười một là, quản lý các hoạt động khác của tôn giáo,
bao gồm: 1) Quản lý chức sắc tôn giáo: Việc đào tạo chức sắc,
nhà tu hành tôn giáo trong các trường phải được Nhà nước
công nhận là bảo đảm sự phát triển bình thường của các tôn
giáo, bảo đảm tính kế thừa cho các thế hệ chức sắc, nhà tu hành.
Người đứng đầu các cơ sở đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động; 2)
Quản lý việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc,
nhà tu hành tôn giáo. Đối với nội dung này, việc phong chức,
phong phẩm, bổ nhiệm, bổ cử, suy cử phải đáp ứng một số điều
kiện nhất định và được thực hiện theo hiến chương, điều lệ của
tổ chức tôn giáo; trường hợp có yếu tố nước ngoài thì còn phải
có sự thỏa thuận với cơ quan QLNN về tôn giáo ở Trung ương;
11
3) Quản lý việc xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn
giáo: Căn cứ theo Luật Khiếu nại, tố cáo và các chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước để giải quyết ngay từ cơ sở và đúng
thẩm quyền của từng cấp quản lý. Xử lý các điểm nóng liên quan
đến tôn giáo phải đảm bảo có lý, có tình và đúng pháp luật.
Ngoài ra, những việc đăng ký con dấu, làm con dấu,
thay đổi con dấu, tách, nhập tổ chức giáo hội cơ sở, thuyên
chuyển chức sắc, lập các hội đoàn đều phải tuân thủ theo qui
định của pháp luật hiện hành.
2.2.2. Phương thức quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Nhà nước quản lý hoạt động tôn giáo bằng các phương thức
sau: quản lý bằng pháp luật, quản lý bằng chính sách, quản lý bằng
thanh tra, kiểm tra.
2.2.3. Các nguyên tắc quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo
Các nguyên tắc QLNN đối với các hoạt động tôn giáo bao
gồm: bình đẳng; đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân; thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị văn hóa;
đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng và
lợi ích quốc gia, xã hội; những hoạt động tôn giáo vì lợi ích
chính đáng và hợp pháp của tín đồ phải được đảm bảo.
Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và của
Nhân dân được khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống
lại Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín
đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân,
làm phương hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc và hoạt
động mê tín dị đoan đều bị lên án và xử lý vi phạm theo luật định.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với các
hoạt động tôn giáo
12
Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo bao gồm: yếu tố chính trị, hệ thống văn bản pháp
luật quy định về hoạt động tôn giáo, bộ máy quản lý nhà nước
về hoạt động tôn giáo, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước, các thế lực xấu bên ngoài lợi dụng tôn giáo,
đối ngoại, hợp tác quốc tế.
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo của một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo đối với
Việt Nam
Luận án nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đối với hoạt
động tôn giáo của các quốc gia: Trung Quốc, Nhật bản và Mỹ.
Từ đó, rút ra các bài học QLNN đối với hoạt động tôn giáo của
Việt Nam, gồm:
Một là, phải có sự nhận thức đúng đắn, thống nhất về đường lối,
chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong tình hình mới.
Hai là, phải có kế hoạch, chiến lược đối với công tác
QLNN về hoạt động tôn giáo phù hợp với địa phương.
Ba là, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn
giáo đảm bảo cả về số lượng và chất lượng.
Bốn là, sự phối kết hợp giữa các cơ quan ban ngành trong
công tác vận động quần chúng tín đồ phải gắn với công tác
chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào, nhất
là vùng đồng bào có đạo.
Năm là, xử lý tình huống tôn giáo phải thông qua công tác
vận động quần chúng và tranh thủ đội ngũ cốt cán tôn giáo. Biểu
dương kịp thời những tín đồ tích cực, đồng thời xử lý kiên quyết
đúng pháp luật đối với những hoạt động tôn giáo trái phép.
13
Chương 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Khái quát và thực trạng hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
3.1.1. Quá trình hình thành, phát triển các tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, tín đồ các
tôn giáo ở Việt Nam có nhu cầu cao trong sinh họat tôn giáo,
nhất là những sinh họat tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Tôn
giáo ở Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam và thường được cấu
thành bởi 3 yếu tố: Hệ thống giáo lý, giáo luật; nghi lễ thờ cúng; tổ
chức tôn giáo với đội ngũ giáo sĩ và tín đồ; cơ sở vật chất phục vụ cho
hoạt động tôn giáo.
3.1.2. Số lượng, sự phân bố và hoạt động của các tôn
giáo ở Việt Nam
Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ Năm 2003 cả
nước có khoảng 17,4 triệu tín đồ chiếm 21,8 % dân số, 15 tổ
chức tôn giáo được Nhà nước công nhận thuộc 6 tôn giáo (Phật
giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa hảo, Hồi
giáo). Tính đến tháng 12/2018, đã có 42 tổ chức tôn giáo và 01
pháp môn thuộc 15 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận và
cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, với khoảng
25,3 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số (tăng 35% so với năm
2003), 60.799 chức sắc (tăng 65%), 133.662 chức việc (tăng
69%); 27.916 cơ sở thờ tự (tăng 33%).
3.1.3. Mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc
Quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo được biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, tuỳ thuộc vào góc độ tiếp cận. Song cho dù cách
tiếp cận nào cũng đều thấy rằng sự vận động, biến đổi các tôn giáo gắn
liền vối sự vận động, biến đổi của vấn đề dân tộc; ngược lại, sự tồn tại
14
của cộng đồng dân tộc cũng thưòng gắn liền vối một tôn giáo nhất
định. Quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc thông qua trục chính là Nhà -
Làng - Nước tạo nên một sự bền chặt. Đây cũng chính là cách chuyển
một văn hoá xây dựng trên tinh thần yêu nước thành tâm thức tôn giáo,
lấy tâm thức tôn giáo để củng cố tinh thần yêu nước. Ngay từ thời tiền
sử ở Việt Nam khi dân tộc với tư cách quốc gia dân tộc được hình
thành thì đồng thời với nó là quan hệ dân tộc và tôn giáo được xác lập.
Quan hệ này là nền tảng quan trọng và vững chắc để tiếp thu, tiếp nhận
những tôn giáo ngoại sinh du nhập vào nước ta sau này.
3.1.4. Thực trạng hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
Những năm qua, sinh hoạt tôn giáo của tín đồ, chức sắc diễn
ra bình thường trong khuôn khổ pháp luật; các lễ lớn thu hút đông
đảo tín đồ tham gia; hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc trong các
tôn giáo được chú trọng theo hướng tăng số lượng chiêu sinh, mở rộng
loại hình đào tạo.... Tuy nhiên, do tác động của toàn cầu hóa, của kinh tế
thị trường, sự quản lý chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ của một số cơ quan
chức năng và sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch, hoạt động
tôn giáo còn bộc lộ một số hạn chế, tiêu cực, tác động trực tiếp đến đời
sống tôn giáo và đời sống xã hội ở nước ta, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về tôn giáo: Tăng cường các hoạt động mang tính
phô trương, hình thức, nặng về kinh tế, xem nhẹ tu học và hướng dẫn
tín đồ tu tập; mâu thuẫn nội bộ trong một số tổ chức tôn giáo vẫn còn,
có lúc, có nơi gay gắt; việc quản lý giáo hội, quản lý chức sắc trong
một số tổ chức tôn giáo chưa đúng theo nội quy, điều lệ đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ hai, về an ninh, trật tự trong tôn giáo:
Tình trạng khiếu kiện, khiếu nại về đất đai, cơ sở thờ tự tôn
giáo luôn ở mức cao. Các nội dung khiếu kiện, khiếu nại liên quan
đến đất đai, tài sản, cơ sở thờ tự tôn giáo luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong các nội dung đơn thư, tính chất các vụ việc cũng phức tạp hơn.
15
Các hoạt động tôn giáo trái quy định của pháp luật:
Tình trạng chức sắc phong chui hoặc tự nhận tuy có giảm
nhưng vấn tiếp diễn, nhất là số linh mục của đạo Công giáo và
mục sư, truyền đạo trong các hệ phái Tin lành đã được Nhà
nước công nhận về tổ chức. Các đối tượng này thường có thái
độ cực đoan.
Về mâu thuẫn nội bộ tổ chức tôn giáo: Do lợi ích cá
nhân hoặc không thống nhất được đường hướng hành đạo dẫn
đến mâu thuẫn nội bộ của một số tổ chức tôn giáo diễn biến
phức tạp
Hoạt động mê tín, dị đoan có xu hướng tăng lên ở một
số cơ sở tôn giáo, nhất là trong các cơ sở Phật giáo.
Hoạt động của các tôn giáo trong vùng dân tộc ẩn chứa
nhiều yếu tố phức tạp.
Các hiện tượng tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo lợi dụng vấn
đề tâm linh, thêu dệt về những thế lực siêu nhiên để tập hợp lực
lượng hoạt động chống phá chính quyền, gây mất ổn định an
ninh trật tự
3.2. Thực tiễn quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Việt Nam
Luận án khảo sát thực tiễn QLNN đối với các hoạt động
tôn giáo ở Việt Nam theo nhóm các yếu tố đầu vào và nhóm
các yếu tố đầu ra.
Nhóm các yếu tố đầu vào của QLNN đối với hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam gồm: Xây dựng chính sách, ban hành văn bản pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo; tổ chức bộ máy QLNN về công tác tôn giáo,
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo,
chính sách.
16
Nhóm các yếu tố đầu ra của QLNN đối với hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam gồm công tác giải quyết nhà đất liên quan đến
tôn giáo và thanh tra, kiểm tra hoạt động tôn giáo.
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Những kết quả đã đạt được và nguyên nhân
3.3.1.1. Những kết quả đã đạt được
Một là, thay đổi nhận thức căn bản của các cấp ủy, tổ chức
Đảng và chính quyền các cấp về tôn giáo và công tác QLNN đối
với hoạt động tôn giáo.
Hai là, đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, QLNN
đối với các hoạt động tôn giáo thực hiện thường xuyên, liên tục.
Ba là, về tổ chức bộ máy và công tác đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ về công tác tôn giáo, thường xuyên được củng cố,
kiện toàn và được các cấp ủy Đảng và chính quyền chăm lo, tạo
điều kiện.
Bốn là, công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công
tác tôn giáo được tăng cường.
Năm là, hợp tác quốc tế về tôn giáo được tăng cường và
ngày càng mở rộng.
Sáu là, công tác thanh tra, kiểm tra được đổi mới và tăng cường.
3.3.1.2. Nguyên nhân đạt được thành tựu
Một là, do Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đổi mới
chính sách đối với tôn giáo, đồng thời đề ra đường lối phát triển
kinh tế-xã hội đúng đắn, hợp lòng dân.
17
Hai là, công tác tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp
luật về tôn giáo cho cán bộ, chức sắc, tín đồ các tôn giáo được
tổ chức tốt.
Ba là, đội ngũ CBCC làm công tác tôn giáo thường xuyên
được bồi dưỡng, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.
Bốn là, các cấp, các ngành đã thực hiên đúng các quy định của pháp
luật trong xử lý những vi phạm về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Năm là, MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội tại cơ sở từng
bước đã được củng cố vững mạnh, nhất là vùng có đông đồng bào
tôn giáo.
3.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế
Một là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến hoạt động tôn giáo còn thiếu.
Hai là, tổ chức bộ máy QLNN và đội ngũ cán bộ làm
công tác tôn giáo còn bất cập, cán bộ làm công tác tôn giáo
chưa đáp ứng yêu cầu.
Ba là, một số nới công tác đào tạo, bồi dưỡng và quy hoạch
cán bộ làm công tác tôn giáo chưa được chú trọng đúng mức.
Bốn là, một số nơi công tác thanh tra, kiểm tra còn ít hoặc
có nơi cũng thanh tra, kiểm tra xong là làm cho có hoặc thanh
tra, kiểm tra xong để đó
3.3.2.2. Nguyên nhân hạn chế
Một là, một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ
quan, ban ngành chức năng và một bộ phận cán bộ đảng viên
nhận thức chưa đầy đủ về chủ trương, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và
công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay.
18
Hai là, Công tác QLNN về tôn giáo còn chậm đổi mới,
thiếu đồng bộ, cá biệt có nơi còn buông lỏng quản lý, dẫn tới có
nới còn sảy ra tình trạng tôn giáo lấn lướt chính quyền.
Ba Là, một số chủ trương, chính sách về tôn giáo còn
chưa đồng bộ và kịp thời, gây lúng túng cho địa phương cơ sở,
trong quá trình xử lý.
Bốn là, hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo chưa có
sự thống nhất.
Năm là, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức làm công tác tôn giáo chưa được quan tâm đúng mức.
Sáu là, công tác đối ngoại tôn giáo quản lý còn chưa chặt
chẽ, nhiều kẽ hở để các tôn giáo lợi dụng.
Bảy là, công tác tuyên truyền, phổ biến, triển khai các văn
bản pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo còn chưa
thường xuyên, chưa sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân, nhất là
tín đồ, chức sắc tôn giáo.
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở
VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
4.1. Dự báo tình hình tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở nước ta trong
thời gian tới
4.1.1. Xu hướng phát triển của tôn giáo Việt Nam tác
động đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Xu thế toàn cầu hóa đang tác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội, trong đó có tôn giáo. Sự vận động, biến đổi và phát
triển của tôn giáo ở Việt Nam cũng không tách rời sự tác động
ấy với những xu hướng phát triển cụ thể: Xu hướng thể tục hóa,
19
xu hướng đa dạng hóa tôn giáo, xu hướng hiện đại hóa tôn giáo,
xu hướng dân tộc hóa tôn giáo, xu hướng tôn giáo mới.
4.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nayNắm vững quan điểm,
chủ trương của Đảng về công tác tôn giáo và nhiệm vụ công tác
tôn giáo trong tình hình mới, quán triệt các chính sách, pháp
luật của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo,
luận án xác định những vấn đề đặt ra trong QLNN đối với hoạt
động tôn giáo ở nước ta hiện nay, gồm:
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến,
thông tin theo đối tượng về những xu hướng mới của tôn giáo.
Cán bộ làm công tác tôn giáo cần tăng cường thâm nhập
thực tiễn, gắn bó với cơ sở, với đồng bào có đạo và các chức
sắc tôn giáo.
4.2. Quan điểm và phương hướng tăng cường quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.
4.2.1. Quan điểm
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là
bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Trong quá trình hoàn thiện, các cơ quan chức năng cần
tiến hành hội thảo xin ý kiến đóng góp của chức sắc, nhà tu
hành, trí thức tôn giáo. Mọi đóng góp của họ đều được lắng
nghe, nghiên cứu nếu thấy hợp lý và đúng đắn phải được tiếp
thu, bổ sung vào văn bản.
4.2.2. Phương hướng
20
Phương hướng tăng cường QLNN đối với hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam được luận án xác định như sau: Công tác tôn
giáo là trách nhiệm của cả một hệ thống chính trị, trong đó vai
trò của Nhà nước là trung tâm; Nội dung cốt lõi của công tác tôn
giáo là công tác vận động quần chúng; Phát huy vai trò của từng bộ,
ngành có liên quan trong quản lý đối với từng lĩnh vực hoạt động của
tổ chức, cá nhân tôn giáo; Kết hợp QLNN về tôn giáo và thực hiện
chính sách dân tộc.
4.3. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở Việt Nam thời gian tới
Luận án đề xuất 3 nhóm giải pháp tăng cường QLNN đối với
hoạt động tôn giáo ở Việt Nam thời gian tới với những giải pháp cụ
thể như sau:
1. Nhóm giải pháp theo tiến trình QLNN, gồm các giải
pháp cụ thể: Giải pháp về cơ chế, luật pháp, chính sách về tín
ngưỡng, tôn giáo; Giải pháp về tổ chức bộ máy, công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo; Giải pháp về tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo; Thanh tra, kiểm tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về tôn giáo.
2. Nhóm giải pháp liên quan đến lĩnh vực hoạt động tôn giáo,
gồm các giải pháp cụ thể: Về công tác đối ngoại tôn giáo; Giải pháp
nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần người có đạo; Giải pháp
về đất đai, cơ sở thờ tự của các tôn giáo; Giải pháp về công tác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_hoat_dong_ton_giao.pdf